Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.2 KB, 19 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề bài: Phân tích bài thơ "Bác ơi!" của Tố Hữu và nói lên cảm nghĩ của</b>
<b>em Ngữ văn 12</b>
<b>Bài làm</b>
"Bác ơi!" được Tố Hữu viết vào ngày 6-9-1969, bốn ngày sau khi vị lãnh tụ
kính yêu của dân tộc qua đời. "Bác ơi!"được viết theo thể thơ thất ngôn trường
thiên, gồm 13 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ.
Bài "Bác ơi!" là tiếng khóc tiễn biệt, mang ý nghĩa như một bài điếu văn rất
cảm động, vừa ca ngợi lòng yêu nước thương dân bao la của Bác Hồ, vừa biểu
lộ lòng tiếc thương, ghi nhớ công ơn to lớn của lãnh tụ.
Mở đầu bài thơ là tiếng khóc. Bác Hồ qua đời để lại nỗi đau thương trong lòng
hàng triệu đồng bào ta và bạn bè gần xa. Nỗi đau thương trùm cả cõi đời và cả
vũ trụ bao la, mênh mông:
<i>Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa</i>
<i>Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...</i>
Câu thơ thứ hai, chữ "tuôn" được điệp lại hai lần đã cực tả nỗi mất mát, đau
thương của dân tộc thật vơ hạn.
Đọc hồi kí của Tố Hữu, ta biết lúc Bác Hồ mất, nhà thơ cịn đi cơng tác xa.
Nghe tin Bác mất, tác giả vội "chạy về". Đó là một buổi chiều đau đớn, bàng
hồng. Hai chữ "ướt lạnh" diễn tả nỗi đau đớn tái tê ấy:
<i>Chiều nay con chạy về thăm Bác</i>
<i>Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!</i>
Bác ra đi, ngôi nhà sàn của Bác trở nên vắng lặng, hiu hắt buồn. Chng chẳng
cịn reo nữa. Ánh đèn "tắt", "rèm bng", phịng của Bác ở và làm việc thì đã
"lặng". Sự sống như ngừng lại trong đau thương:
<i>Chng ơi chng nhỏ cịn reo nữa</i>
<i>Phịng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!</i>
<i>Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội</i>
<i>Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!</i>
Ngày hội chiến thắng, ngày hội thống nhất non sông... thế là vắng bóng Bác.
Bác ra đi, cỏ cây hoa lá, thiên nhiên tạo vật đều đau đớn tiếc thương. Vườn rau,
gốc dừa, trái bưởi, hoa nhài, ao cá... những vật thân quen ấy của Bác được nhân
hoá gợi ra bao đau đớn, cô đơn, buồn tủi, ngậm ngùi. Lấy ai để san sẻ nỗi đau
buồn thương tiếc? Tố Hữu có một lối nói biểu cảm rất sâu sắc. Ơng đứng lặng,
tự hỏi lịng mình rồi hỏi cỏ cây hoa lá:
<i>Trái bưởi kia vàng ngọt với ai</i>
<i>Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!</i>
<i>Cịn đâu bóng Bác đi hơm sớm</i>
<i>Quanh mặt hồ in mây bay...</i>
Bốn khổ thơ đầu, Tố Hữu đã mở ra một không gian nghệ thuật từ đất trời, cõi
Sự kết hợp các câu cảm thán, câu hỏi tu từ làm cho giọng thơ như tiếng nấc cất
lên, nghẹn ngào, biểu cảm:
<i>Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!</i>
<i>Trái bưởi kia vàng ngọt với ai</i>
<i>Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!</i>
<i>Cịn đâu bóng Bác đi hôm sớm...</i>
Sáu khổ thơ tiếp theo trong phần hai bài thơ nói lên tình thương bao la và phẩm
chất cao đẹp của Bác. Cách cấu trúc bài thơ giống như bài văn tế khi nhắc tới
công đức của con người vừa qua đời.
<i>Bác ơi, tim Bác mênh mơng thế</i>
<i>Ơm cả non sơng, mọi kiếp người.</i>
Bằng nghệ thuật liệt kê, tác giả nhắc lại tấm lòng nhân ái bao la, mênh mơng,
của Bác. Đó là nỗi đau và nỗi lo của Bác. Lòng Bác sâu nặng như lịng mẹ:
"Chỉ lo mn mối như lịng mẹ - Cho hơm nay và cho mai sau". Đó là lịng
Bác: Bác sống, Bác yêu, Bác cho, Bác để, Bác tặng:
<i>Bác sống như trời đất của ta</i>
<i>Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa</i>
<i>Tự do cho mỗi đời nô lệ</i>
<i>Sữa để em thơ, lụa tặng già.</i>
Đó là Bác nhớ, Bác nghe, Bác lắng... Đó là tình cảm của lãnh tụ dành cho chiến
sĩ và đồng bào nơi Thành đồng Tổ quốc:
<i>Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà</i>
<i>Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha</i>
<i>Bác nghe từng bước trên tiền tuyến</i>
<i>Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa.</i>
Bác đã từng nói: "Miền Nam ln trong tim tôi", Thơ chúc Tết năm 1969, Bác
đã viết: "Năm qua thắng lợi vẻ vang - Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng
to...", Bác là niềm vui thắng trận. Bác là chỗ dựa tinh thần để tiền tuyến xốc tới
"Đánh Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào!", Tố Hữu vừa khóc thương Bác, vừa làm
sống lại tâm hồn Bác.
Điệp ngữ "vui" và các động từ: "nâng niu, quên" đã nói lên một cách sâu sắc
tâm hồn Hồ Chí Minh: lạc quan yêu đời, giàu đức hi sinh. Hình ảnh so sánh
đầy chất thơ:
<i>Bác vui như ánh buổi minh</i>
<i>Vui mỗi mầm non, trái chín cành</i>
<i>Vui tiếng ca chung hịa bốn biển</i>
Bác sống giản dị, thanh bạch. Chiếc va li nhỏ, vài ba bộ quần áo đơn sơ, đôi
dép cao su..., "chẳng vàng son",Nhiều người thường nhắc đến hai câu thơ tuyệt
bút sau đây để ca ngợi đức tính giản dị của Bác Hồ:
<i>Mong manh áo vải, hồn muôn trượng</i>
<i>Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.</i>
Tư tưởng lớn, ý thơ đẹp và hay, nghệ thuật tưởng phản tài ba, Tố Hữu đã để lại
câu thơ trong trí nhớ nhiều người.
Có thể nói, đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc cảm động tâm hồn, phong cách, đạo
đức và lối sống Hồ Chí Minh.
Ba khổ thơ trong phần cuối là tiếng khóc, là sự ghi nhớ, là lòng biết ơn, là lời
ước nguyện.
Thương Bác, nhớ Bác càng thấy lịng mình bơ vơ, đau đớn: "ơi Bác xế chiều
-Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Bác đã đi xa, bước vào "thế giới Người Hiền". Sự nghiệp cách mạng, đạo đức
cách mạng của Bác mãi mãi là "Ánh hào quang thêm", là tài sản tinh thần vơ
giá có tác dụng động viên, cổ vu đồng bào, chiến sĩ "cùng nhau tiến lên" với
niềm tin sắt đá:
<i>"Còn non, còn nước, còn người,</i>
<i>Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày này".</i>
(Di chúc)
Nhớ mãi công ơn của Bác, nhân dân ta nguyện ghi sâu trong lịng lời Bác dặn,
quyết tâm vượt lên hồn thành sự nghiệp cách mạng của Bác để lại. Bài thơ
khép lại bằng một hình so sánh mang tượng hình sơng núi kì vĩ. Tố Hữu khóc
Bác bằng một lời thề chiến đấu:
<i>Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi</i>
<i>Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.</i>
"Bác ơi!" là một trong những bài thơ hay nhất viết về Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ
vĩ đại kính yêu của dân tộc.
<b>Bài làm 2</b>
Chiều ngày 2/9/1969, tin Bác Hồ mất đến với Tố Hữu khi ông đang điều trị ở
bệnh viện. Ơng vội trở về, tìm đến ngơi nhà sàn thân quen. Trời mưa tầm tã,
xung quanh vắng lặng. Lòng trĩu buồn, đêm hôm ấy ông ngồi viết bài thơ này.
Xuân Diệu cho đây là bài “điếu văn bi hùng”. Bài thơ thể hiện nỗi đau thương
tột độ và sự cảm nhận bao quát về cuộc đời, phẩm chất và đức độ của lãnh tụ.
Hai câu thơ đầu, nhà thơ nhắc đến khơng khí đau buồn bao trùm đất nước, tạo
ra chất bi hùng của sự kiện Bác mất. Cả nước khóc thương Người:
Suốt mấy hơm rày đau tiễn đưa
Đời tn nước mắt trời tn mưa…
Hình ảnh người con vắng Bác lúc đầu mang tâm trạng trống vắng bơ vơ dáng
dấp, bước chân thẫn thờ trông thật tội nghiệp:
Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Khơng gian nơi Bác ở cũng nhuốm màu tang thương li biệt:
Chng ơi, chng nhỏ cịn reo nữa?
Phịng lặng, rèm bng, tắt ánh đèn!
Hoa lá cỏ cây vắng hơi Người cũng ngơ ngơ ngác ngác:
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu.
…Bác vui như ánh buổi bình minh
Vui nỗi mầm non trái chín cành (…)
Từ đó mà ý thơ chiêm nghiệm tổng qt:
Bác ơi, tim Bác mênh mơng thế
Ơm cả non sơng trọn kiếp người.
…Nâng niu tất cả chỉ qn mình.
Ở lãnh tụ có bao phẩm chất cao đẹp nhưng tình thương và đức hi sinh của
Người đã làm nên sự vĩ đại và bất tử. Tình nhân ái của Người vừa cụ thể thiết
thực: sữa để em thơ, lụa tặng già vừa bao quát cả nhân loại còn khổ đau: nỗi
năm châu – sự chia rẽ của phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ.
Biện pháp so sánh tấm lịng của Bác như lịng mẹ làm cho hình tượng lãnh tụ
vừa gần gũi vừa cao cả trong tình thương. Những dịng thơ vừa có cảm xúc dạt
dào vừa cơ đọng, khái quát về lí tưởng sống của Người. Phong cách lối sống
của Người khiến ai cũng phải ngưỡng mộ: Bác sống như trời đất của ta.
Khi đã thấu hiểu lịng người và lẽ trời thì con người sẽ có cách ứng xử phù hợp
với tự nhiên nên hòa hợp với thiên nhiên. Con người ấy đã hòa nhập với tự
nhiên vì đạt được những cái tự nhiên, nghĩa là đạt đến cái huyền diệu cao sâu
của sự sống.
Và khi ấy con người sẽ nhận được sự nâng đỡ của tự nhiên để trường tồn cùng
trời đất: Đó là ngọn nguồn sâu xa trong tinh thần lạc quan yêu đời của Bác,
sinh thời Bác rất yêu thiên nhiên cây cỏ, chim mng và thích được sống giữa
thiên nhiên. Cách ứng xử ấy biểu hiện bên ngồi của sự hịa đồng với trời đất.
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi giữa lối mòn.
sáng. Suốt cuộc đời người tận tụy hi sinh vì nước đến mức qn mình , cịn bản
thân Người sống đạm bạc, thanh sạch, cao khiết và rất mực giản dị.
Tấm gương đạo đức và nhân cách ấy làm cho Người trở nên vĩ đại giữa đời
thường và bất tử trong lòng dân tộc, trở thành biểu tượng về con người Việt
Nam đẹp nhất mọi thời đại. Những câu thơ giàu cảm xúc của Tố Hữu đã đạt
đến sự cô đọng hàm súc và sức khái quát về nhân cách và lối sống Hồ Chí
Minh. Ba khổ thơ cuối bài, cho dù tấm lịng có tiếc nhớ nhung nỗi buồn đã
khuây khỏa nên tâm hồn bừng sáng lên niềm tin khi nghĩ về tương lai:
Bác đã lên đường theo tổ tiên
Mác-Lê nin thế giới Người Hiền
Ánh hào quang đỏ thêm sông núi
Dắt chúng con cùng nhau tiến lên!
Nguyện theo con đường, lí tưởng mà Bác đã chọn, tiếp tục cuộc hành trình nên
nhà thơ thấy vững vàng, cứng rắn hơn khi nghĩ rằng Bác luôn bên cạnh:
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.
Âm hưởng đoạn thơ cuối điềm tĩnh, sâu lắng. Tình thương dạt dào đã lắng lại
nên trí tuệ lắng kết một chân lí. u Bác, lịng ta trong sáng hơn. Trước kia,
Đây là vẻ đẹp, sức cuốn hút kì diệu của lãnh tụ và ánh sáng tinh hoa của một
nhân cách lớn có sức mạnh chinh phục, có tác dụng thanh lọc tâm hồn, nâng
cao sức mạnh cho người đối diện. Sau này nhà thơ Việt Phương cũng viết:
Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt,
Vượt cao hơn sự chết, vẫn soi đường.
(Muôn vàn tình thân yêu bao trùm lên khắp quê hương)
<b>Bài làm 3</b>
Trong lời điếu văn đầy xót thương và cảm động đọc trước linh cữu Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: "Dân tộc ta, nhân dân ta.
non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và
chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”.
Nhà thơ Tố Hữu cũng đã thể hiện điều đó trong một bài thơ khóc Bác – Bác
-Bác ơi! là tiếng khóc tiễn biệt, là lời "điếu văn bi hùng" bằng thơ (Xuân Diệu).
Bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi đau xót và tiếc thương, mà cịn là sự đúc kết
những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc đang tiếp diễn vô
cùng gay go, quyết liệt, ngày 2- 9- 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Người
qua đời là một tổn thất lớn lao đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. Trong
những ngày ấy, cả dân tộc ta và bạn bè quốc tế đã biểu lộ nỗi tiếc thương, nỗi
Bác ơi! của Tố Hữu ra đời trong khơng khí những ngày đại tang ấy. Bài thơ
như một bài "điếu văn bi hùng" thể hiện ở cả kết cấu, giọng điệu lẫn hình ảnh,
ngơn ngữ thơ,... Tất cả đã bộc lộ nỗi đau xót, tiếc thương của tác giả đồng thời
đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và
cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ mở đầu với khung cảnh đau buồn,
tang tóc bao trùm lên toàn cõi Việt Nam trong những ngày mất Bác:
"Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tn mưa”
Đó là những giọt nước mắt nóng bỏng chất sử thi - một dân tộc anh hùng tiếc
thương một anh hùng dân tộc. Nỗi tiếc thương khiến cỏ cây, đất trời bỗng trở
nên bùi ngùi, tâm hồn người bỗng trở nên ngơ ngác:
"Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa”
Khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh nhà Bác,... tất cả vẫn còn đây, nhưng tất
cả đều thẫn thờ:
"Con lại lần theo lối sỏi quen
Đến bên thang gác đứng nhìn lên
Chng ơi chng nhỏ cịn reo
Phịng lặng, rèm bng, tắt ánh đèn!…
Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài
Cịn đâu bóng Bác đi hơm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay”
Đoạn thơ với rất nhiều câu hỏi và câu cảm thán. Những dấu hỏi, dấu cảm, dấu
chấm lửng, những thán từ cùng với cách ngắt nhịp chậm, nhịp dài ngắn đan xen
đã diễn tả một cách xúc động nỗi tiếc thương nghẹn ngào trong lòng nhà thơ.
Bài thơ với lối kết cấu như một bài điếu văn cổ điển (lung khỏi- thích thực- ai
vãn).
Tính cổ điển trong kết cấu đã nâng hình tượng thơ và cảm xúc của nhà thơ lên
tầm vóc lịch sử và thời đại. Đó là hình tượng của mn đời và cảm xúc của
mn người. Hình tượng Bác hiện lên trong nỗi tiếc thương vơ hạn xen lẫn
niềm kính phục thiêng liêng.
Đoạn thơ với chất giọng trầm hùng bi tráng, với những hình ảnh vừa giản dị.
vừa lớn lao rất phù hợp với hình tượng Bác Hồ và nỗi tiếc thương, niềm thành
kính của nhà thơ đối với Bác. Cịn gì đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi nhà thơ dùng
hình tượng trái tim để biểu tượng cho tình cảm bao la của Bác: "Bác ơi, tim
Bác mênh mơng thếƠm cả non sơng, mọi kiếp người". Cịn gì giản dị gần gũi
hơn và cũng bao dung trời biển hơn khi nhà thơ so sánh tấm lòng của Bác với
tấm lòng của người mẹ:
"Chỉ lo mn mối như lịng mẹ
Cho hơm nay và cho mai sau"
"Bác sống như trời đất của ta",
Bác đem “Tự do cho mỗi đời nô lệ" và Bác còn "Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành
hoa", Bác dành sữa cho em thơ và tặng lụa cho người già. Con người của "trời
đất", của "tự do" được lồng trong con người của đời thường. Con người vĩ đại
Hồ Chí Minh hịa vào con người bình thường Hồ Chí Minh tạo nên một vẻ đẹp
vừa lớn lao, vĩ đại vừa gần gũi, thân thiết. Sinh thời, Bác Hồ ln dành tình
cảm đặc biệt đối với miền Nam.
Bác nói: "Miền Nam ln ở trong trái tim tơi". Để đáp lại lịng mong mỏi của
cháu con trong Nam, Bác đã dự định sẽ vào thăm nhưng dự định chưa kịp thực
hiện thì... Tố Hữu đã so sánh:
"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha"
Nỗi nhớ thương miền Nam của Bác giống như "nỗi nhớ nhà" và nỗi mong
ngóng Bác của miền Nam giống như "nỗi mong cha". Nỗi nhớ thương gắn với
nỗi đau chia cắt thân mình Tổ quốc và khát vọng thống nhất, đoàn tụ. Câu thơ
diễn tả một thứ tình cảm rất gia đình nhưng ý thơ vượt lên câu chữ để diễn tả
một vấn để mang tính sử thi của thời đại và dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng
những hình ảnh suy tưởng mang tính khái quát cao mà vẫn chan chứa cảm xúc:
"Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn".
Bác để lại nhiều: độc lập, tự do, cơm no, áo ấm,... Nhưng tất cả đều xuất phát
từ một thứ vơ cùng q giá: "tình thương"- "Bác thương các cụ già", "Bác
thương đàn cháu nhỏ", "Bác thương đồn dân cơng",... Bác thương dân, yêu
nước nên đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bác "nâng niu tất cả chỉ quên
mình". Đúc kết cuộc đời Bác, nhà thơ chiêm nghiệm và nhận thấy hai phẩm
chất nổi bật: tình yêu thương quên mình và sự giản dị thanh cao.
Tác giả dùng hình tượng "áo vải" mong manh để nói về "một đời thanh bạch",
thể hiện phẩm chất giản dị mà thanh khiết vô ngần của Bác. Bác là vậy, giản dị
mà vĩ đại, "áo vải" mà "hồn muôn trượng". Đoạn thơ với rất nhiều hình ảnh so
sánh, ẩn dụ đã thể hiện một cách sâu sắc những suy ngẫm, chiêm nghiệm của
nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tố Hữu đã vĩnh hằng hóa, bất tử hóa hình tượng Bác Hồ trong thiên nhiên, đất
trời và trong lòng người. Đoạn thơ thể hiện niềm cảm phục thành kính, niềm tự
hào thiêng liêng trước anh linh của vị cha già dân tộc. Trong niềm xúc động,
niềm cảm phục và tự hào, nhà thơ đã thay mặt con dân nước Việt thầm nói lên
lịng mình:
"Ơi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!
Ra đi, Bác dặn: "Cịn non nước..”
Nghĩa nặng, lịng khơng dám khóc nhiều".
Và thầm hứa với Bác:
"Nhớ đơi dép cũ nặng cơng ơn
u Bác, lịng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn".
nhiều những bài thơ viết về Bác, cùng với trường ca Theo chân Bác, Bác ơi! là
một thành công lớn của nhà thơ Tố Hữu.
Bài thơ là niềm xúc động dâng trào và những chiêm nghiệm sâu sắc về Chủ
tịch Hồ Chí Minh, vị Cha già dân tộc, người anh hùng vĩ đại của thế kỉ XX.
Bác ơi! là bài thơ khóc Bác nhưng đó là những dịng nước mắt nóng bỏng chất
sử thi.
<b>Bài làm 4</b>
Viết về Bác Hồ, với Tố Hữu là xây dựng hình tượng con người Việt Nam đẹp
nhất, tiêu biểu nhất, kết tinh phẩm chất dân tộc qua nhiều thời đại.
Con người có lí tưởng và lẽ sống cao cả: lí tưởng giải phóng dân tộc, lí tưởng
độc lập tự do vì thế, lẽ sống của Bác là sống bằng tình thương, ln lo cho dân
nước
Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau
Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu,
Chỉ lo mn mối như lịng mẹ
Cho hôm nay và cho mai sau…
Cách điệp ngữ dưới nhiều hình thức để chúng khắc sâu vào tâm khảm người
đọc, người nghe. Lời điệp trong thơ Tố Hữu ln xốy vào các nốt nhạc chủ
âm của tư tưởng và tâm hồn. Hai câu trên nói về nỗi đau, nỗi đau được chia cho
“nỗi đau dân nước”, nỗi “năm châu”. Hai câu sau nói về nỗi lo, nỗi lo cũng
được chia ra, lo “hôm nay” và lo “mai sau”. Nỗi đau, nỗi lo vừa là biểu hiện
của lẽ sống, vừa là biểu hiện của tình thương.Tình thương ủa Bác được diễn tả
bằng hình ảnh thơ có chứa sức gợi lớn lao:
"Bác ơi, tim Bác mênh mơng thế
Ơm cả non sơng, mọi kiếp người”
Tình thương ấy gắn liền với tình yêu, ân nghĩa như song sinh. Bác Hồ yêu nhân
dân bằng thứ tình cảm trong trẻo như khơng khí, trời xanh, ân nghĩa như cơm
ăn, áo mặc, ấm cúng như máu mủ ruột rà.Bác sống như trời đất của ta:
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Hình ảnh ví von trong thơ Tố Hữu rất tiêu biểu cho tư duy thơ của ông. Ví von
không làm cho sự vật, con người cụ thể hơn mà là khái quát hơn, cao hơn, trừu
tượng hơn và bóng bẩy hơn. Niềm vui của Bác gắn với niềm vui của dân tộc
với những chiến công để đi gần tới hịa bình, độc lập, tự do, gắn với niềm vui
của thiên nhiên cây trái, cuộc sống tạo vật, con người. Bác Hồ sống khiêm tốn,
giản dị và hi sinh quên mình.
Nâng niu tất cả chỉ quên mình
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải, hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Cách lập ý biểu cảm trong những hình ảnh thơ này là phép tương phản. Sự
tương phản đều xoáy vào sự đối lập của các ý thức xã hội. Tương phản trong
đoạn thơ không chỉ xây dựng trên sự liên tưởng của các hình ảnh đối lập mà
cịn mang hình thức tư duy, lập luận, rõ ràng. Yếu tố lơgíc nổi lên, nằm cùng
dãy với yếu tố hình tượng làm câu thơ mang tính chất hùng biện mạnh mẽ.
Tương phản thứ nhất: Nâng niu tất cả/ chỉ quên mình là tương phản giữa số
lượng tất cả/chỉ để thể hiện sự thống nhất trong tính cách, phẩm chất đạo đức
của Bác: tình thương là cơ sở của lẽ sống, là thước đo phẩm giá, đạo đức con
người.
Tái hiện lại hình tượng Bác Hồ, Tố Hữu đã dựng lại chân dung tinh thần của
Bác Hồ với quan niệm con người thiên nhiên, chân dung Bác chẳng những
Tình cảm của Bác là thứ tình cảm tự nhiên của cha mẹ với con cái, tình cảm gia
đình. Bác “lo mn mối như lịng mẹ”, “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà. Miền
Nam mong Bác nỗi mong cha”, “Bác vui như ánh buổi bình minh”…Hình
tượng Bác Hồ thật vĩ đại mà gần gũi với mỗi người dân Việt qua tiếng thơ Tố
Hữu.
<b>Bài làm 5</b>
“Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”
(Bác ơi)
Chiều ngày 2/9/1969, khi nghe tin Bác mất, Tố Hữu đang điều trị ở bệnh viện,
vội trở về, tìm đến ngôi nhà sàn của Bác lặng lẽ dưới mưa. Trở về, Tố Hữu viết
“suốt cả đêm ấy cho vơi nỗi buồn”. “Bác ơi” được viết ngay sau sự kiện đau
thương của dân tộc. Bài thơ là tiếng khóc, tiếng tiếc thương và là bản hùng ca,
ca ngợi nhân cách, cơng lao, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài thơ có mười ba khổ, đoạn phân tích là khổ thứ mười ca ngợi cuộc đời trong
cho toàn thể đồng bào”. Câu thơ ca ngợi tình nhân ái bao la của lãnh tụ Hồ Chí
Minh với tồn thể nhân dân.
Trái tim Người thật mênh mông, khiến cho Người không giây phút nào được
thảnh thơi: lo dân, lo nước, thương nhân loại năm châu, thương mọi kiếp người
nô lệ, thương Miền Nam cịn trong tay giặc. Khơng phải chỉ thương sng mà
thương đi liền với lo, lo cho tất cả lại lo riêng cho mỗi kiếp người cụ thể: “Sữa
để em thơ, lụa tặng già”.
Tình thương của Bác bao trùm cả không gian, thời gian “cho hôm nay và cho
mai sau”, bao trùm cả thiên nhiên cây cỏ, chia sẻ đến “từng ngọn lúa, mỗi
nhành hoa”. Suốt đời Bác thương nước, thương đời trong lúc thức và trong cả
những cơn mơ. Nói về tình thương của Bác, Tố Hữu nói bằng giọng thơ thật
giản dị và với cách xưng hô: “Bác”, “chúng con” đã thể hiện sự thân mật, gắn
bó giữa nhân dân và lãnh tụ.
Sinh thời, tâm tư tình cảm của Người chỉ biết dành cho tất cả, lo cho tất cả, mà
khơng nghĩ đến bản thân mình. Lúc ra đi vẫn bộ quần áo ka ki giản dị, không
một tấm huy chương, huân chương trên ngực. Đúng là “một đời thanh bạch
chẳng vàng son”. Câu thơ ca ngợi lối sống thanh bạch, nhân cách trong sáng
của Bác. Tác giả dùng chữ “thanh bạch” đối lập với chữ “vàng son” đặt trong
câu thơ nhằm đối lập giữa cuộc sống thật của Bác (người đứng đầu Đảng và
Nhà nước XHCN) với cuộc sống xa hoa của một số bậc vua chúa phong kiến
Đứng trước cái chết, ai cũng vậy dường như đều muốn trở thành nhà triết học.
Những lúc ấy trong đầu óc thường nảy ra những ý nghĩ có tính chất tổng kết về
một đời người, một kiếp người. Ta hiểu vì sao trong bài “Bác ơi” có thể tìm
thấy những ý nghĩ khái qt sâu sắc của Tố Hữu về bản chất con người Bác. Và
câu thơ trên là một chiêm nghiệm về Bác của Tố Hữu.
Một con người luôn khiêm nhường mà ln vĩ đại cao cả, từ lời nói đến hành
động. Bác nói “cán bộ là đầy tớ của nhân dân” và đã lo cái lo của nhân dân,
cũng từng nhịn bữa góp gạo kháng chiến. Trước khi Người vội đi xa, Người
còn muốn nghe những làn điệu dân ca mọi miền, trong đó có dân ca miền
Trung – cái nôi làng Sen quê hương Bác mãi là tinh hoa văn hoá của dân tộc.
“Hơn tượng đồng phơi những lối mòn” bằng nghệ thuật so sánh, tác giả khẳng
định sự bất hủ của các giá trị tinh thần mà Bác để lại cho dân tộc. Ở đây có
hình ảnh “tượng đồng phơi những lối mòn”, những bức tượng đồng nhằm lưu
danh các vĩ nhân đặt tại các vườn hoa, khu kỉ niệm, nơi thường có nhiều người
qua lại, chiêm ngưỡng. Bác Hồ của chúng ta như ẩn mình đi, rất khiêm nhường
nhưng vẫn hơn “tượng đồng phơi những lối mòn”.
Lời tổng kết về một nhân vật vĩ đại như Bác Hồ không thể không bao hàm sự
liên tưởng so sánh với những tên tuổi khác. Tác giả muốn đúc tượng đồng bia
đá để trở thành bất tử. Sinh thời, Bác khơng thích tượng đồng bia đá, khơng
nhận bất cứ huân huy chương nào. Nhưng “mong manh áo vải hồn mn
trượng”, Người sẽ sống mãi trong lịng dân tộc, hơn những ai đó tượng đồng
bia đá đúc mà khơng người viếng thăm để chúng phải “phơi” mặt bên “những
lối mòn” vắng vẻ.
Tác giả đã thay mặt chúng ta dựng tượng đá Bác bằng thơ trong lòng mỗi
<b>Bài làm 6</b>
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Trong dịp lễ quốc tang lãnh tụ
vĩ đại, bài thơ "Bác ơi!" của Tố Hữu được giới thiệu trên báo "Nhân dân", sau
này in trong tập thơ "Ra trận". Bài thơ gồm có 52 câu thơ thất ngơn, chia đều
thành 13 khổ thơ.
Bốn khổ đầu thể hiện nỗi đau thương bao trùm sơng núi và lịng người. Sáu khổ
thơ giữa ca ngợi công đức to lớn của Bác Hồ. Ba khổ thơ cuối nói lên nổi
thương tiếc Người và nguyện thực hiện lời Bác dặn. Đây là khổ thơ thứ 7 nằm
trong phần 2 bài thơ "Bác ơi!":
"Bác sống như trời đất của ta
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già".
Đoạn thơ đã ca ngợi tầm vóc và tâm hồn cao cả, lớn lao; tình u thương mênh
mơng của Bác Hồ kính yêu. Mỗi câu thơ là một khám phá, một nét vẽ tuyệt đẹp
tâm hồn của Bác. Giọng thơ trang trọng, trang nghiêm. Câu thơ thứ nhất là một
so sánh, một lời ngợi ca khẳng định: "Bác sống như trời đất của ta".
"Trời đất của ta" là quê hương đất nước, là xứ sở thân yêu cửa ta vô cùng tươi
đẹp, rộng lớn và vĩnh hằng. Cuộc đời "79 mùa xuân" và đời sống tinh thần của
Bác được so sánh với "trời đất của ta" nhằm ca ngợi tầm vóc lớn lao và cao cả
của Người.
Đó là sự nghiệp cách mạng cứu nước cứu dân, là lí tưởng và đạo đức cách
mạng của Bác Hồ. Đó là một tâm hồn trong sáng, thanh cao, thoát khỏi mọi
ràng buộc của danh lợi vươn tới cái vô cùng, cái cao cả. Là một chiến sĩ "Mong
manh áo vải, hồn muôn trượng". Là một con người Việt Nam mang cái tên đẹp
"Ái Quốc" đã "Ơm cả non sơng, mọi kiếp người". Lấy thiên nhiên để so sánh
với con người là một cách nói quen thuộc của nhân dân ta. Ca ngợi cơng cha
nghĩa mẹ, ca dao có câu:
"Cơng cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông".
Trong nhiều bài thơ viết về Bác Hồ, với lối nói ấy, Tố Hữu đã sáng tạo nên
nhiều câu thơ tuyệt đẹp:
"Bác ngồi đó lớn mênh mơng
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non".
(Sáng tháng năm)
"Bác ơi!
Thôi đập rồi chăng? một trái tim
Đỏ như sao Hỏa, sáng sao Kim!".
Ba câu thơ tiếp theo nói lên lẽ sống cao đẹp và trái tim yêu thương mênh mông
của Hồ Chủ tịch hướng tới năm đối tượng đều vì cuộc sống con người. Bác
Đó là cách nói ẩn dụ về tình u sâu sắc của Bác đối với Đất nước, nhân dân.
Câu thơ thứ ba "Tự do cho mỗi đời nơ lệ" nói lên lẽ sống cao đẹp của Người.
Yêu tự do và chiến đấu cho tự do: "Tự do cho đồng bào tôi, tự do cho Tổ quốc
tôi" là ý nguyện suốt đời của Bác.
Câu thơ của Tố Hữu đã nói lên sâu sắc cái gốc nhân ái, cái "ham muốn tột bực"
của Người "là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ta, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành". Tự do là lí tưởng cao đẹp của Hồ Chủ tịch.
Trong "Tuyên ngôn độc lập", Người đã viết: "Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do". Sự thật, Người không chỉ mang lại tự do cho dân tộc Việt Nam
ta, mà cịn góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giành lại tự do cho các
dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì thế, câu thơ của Tố Hữu cịn mang tầm khái
qt: "Hồ Chí Minh là lương tâm của thời đại".
Câu thơ cuối đoạn cũng có hai vế tiểu đối thể hiện tình u thương mênh mơng
của Bác Hồ hướng tới hai lứa tuổi cần được quan tâm đặc biệt trong xã hội là
em thơ và các cụ già Việt Nam: "Sữa để em thơ, lụa tặng già".
Chữ "để" có nghĩa là "để giành cho". Chữ "tặng" thể hiện một tấm lịng, một
cách ứng xử vơ cùng trân trọng quý mến. Với tuổi thơ Việt Nam, Bác đã dành
cho tất cả tình thân yêu. San sẻ một ánh trăng thu sáng ngời. Nhiều cái hôn Bác
dành cho các cháu gần xa. Các vị lão giả cao niên "xưa nay hiếm" chắc đều đã
"Đố hoa sen mặt đất tỏa hương trời
Hương nhân ái thấm vào hồn ta mãi".
Đoạn thơ trên đây của Tố Hữu khơng có hình tượng mĩ lệ, nhưng đọc lên, "tình
thơ, hương thơ, hồn thơ" cứ quyện lấy lòng ta mãi. Tố Hữu đã dùng cách nói
bình dị, hồn nhiên để thể hiện cái cao cả vĩ đại, đó là tâm hồn và nhân cách cao
đẹp Hồ Chí Minh. Các vị ngữ được sử dụng: "sống", "yêu", "cho", "tặng" - đã
cho thấy ngòi bút nhuần nhị, tinh tế của Tố Hữu khi viết về Bác Hồ kính yêu.
Đoạn thơ trên đã trở thành câu hát của mỗi chúng ta khi nhắc đến tên Người
với niềm tự hào và lịng biết ơn vơ hạn.