Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tải Cảm nhận bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy - 5 Bài văn mẫu lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.61 KB, 22 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Cảm nhận bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy Ngữ văn 12</b>
<b>Bài làm</b>


Cuộc sống có những điều được gọi là nỗi nhớ, cứ xa xôi vơ hình; có những
hình ảnh được gọi là hồi niệm mãi miên man, dằng dặc; và có những tình cảm
được gọi là yêu thương luôn ấm nồng sâu sắc mà thường đi xa rồi người ta mới
biết cách gọi tên chúng. Ta gọi chúng như là hoài niệm,là nỗi nhớ , yêu thương


Cuộc đời người ngắn ngủi như chiếc lá, thống chốc thơi cũng đủ để mầm non
chuyển sắc vàng. Người ta lớn lên, bon chen nhau mà sống để rồi biết bao lần
lại tìm về tuổi thơ trong những nỗi nhớ xa xơi như thế. Với Nguyễn Duy đó lại
là cả một thế giới của "Đò Lèn" – nơi lắng kết những giá trị vĩnh hằng – bài thơ
mà cái tên thơi đã gợi lên giữa lịng người nhiều suy nghĩ. Những người đã biết
sẽ thấy quen thuộc nhưng những người khơng biết lại dễ phân vân: cái gì là
"Đị Lèn"? Hai tiếng ấy vơ tình trở thành một khái niệm khó hình dung trong
khi thực chất nó lại vơ cùng giản dị . Nó khơng phải là con đị, là dịng sơng,
bến nước hay cái gì đó chợt nảy ra khi lần đầu nghe đến. Đò Lèn là tên một
miền đất như bao miền đất khác, nơi đã tạo nên tuổi thơ, hình thành hồi niệm
trong bao lớp người xứ Thanh Hóa:


<i>Thuở nhỏ tơi ra cống Na câu cá</i>


<i>Níu váy bà đi chợ Bình Lâm</i>


<i>Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật</i>


<i>Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

gian nhỏ bé bao quanh bởi 4 bức tường chật hẹp bây giờ. Ta có thể hình dung
ra trước mắt là hình ảnh một cậu bé tinh nghịch, lấm lem nhưng mắt sáng ngời.


Khơng có quần áo đẹp, khơng có búp bê, siêu nhân , những tuổi thơ như thế
hơm nay chỉ cịn phảng phất trong nỗi nhớ người trưởng thành, trong ánh mắt
lạ lẫm háo hức của trẻ con khi xem phim, đọc truyện ngày trước - cái thời của
ba, của ơng mình. Đoạn thơ như một cuốn phim quay chậm miên man, dằng
dặc trôi đi:


<i>Thưở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị</i>


<i>Chân đất đi đêm xem lễ đền Sịng</i>


<i>Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm</i>


<i>Điệu hát văn lảo đảo bóng cơ đồng</i>


Trở về tuổi thơ ta nhận ra niềm hạnh phúc ngây thơ, trong sáng với đôi chân
nhỏ bé thoăn thoắt khắp nơi, ru mình trong làn hương và điệu hát. Bàn "chân
đất" đã trở thành hình ảnh khơng thể nào qn đối với mỗi người, cái cảm giác
được trực tiếp chạm chân vào đất mát lạnh đến vơ cùng, nó ghi dấu hành trình
những đêm lễ xa xơi. Và cũng như thế, mùi huệ trắng, làn khói trầm, điệu hát
văn đã đi vào từ vơ thức! Tất cả chúng góp phần hình thành tuổi thơ đầy hồn
nhiên, tinh ngịch trong tâm hồn mỗi người đã đi qua tuổi thơ, nhiều khi phải
xin "cho tôi một vé đi tuổi thơ".


Từ ngày ấy đến bây giờ là cả một quá trình con người lớn lên, hình thành nhận
thức. Ngày cịn nhỏ vơ tư, khơng lo nghĩ:


<i>Tơi đâu biết bà tơi cơ cực thế</i>


<i>Bà mị cua xúc tép ở đồng Quan</i>



<i>Bà đi gánh chè xanh Ba Trại</i>


<i>Quán Cháo, Đồng Giao thập những đêm hàn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Ngày còn nhỏ, yêu bà là yêu những câu chuyện cổ tích lung linh huyền ảo:


<i>Tơi trong suốt giữa hai bờ hư thực</i>


<i>Giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần</i>


Bà thổi vào tâm hồn non nớt cái hồn dân tộc bao thế kỉ trong dân gian. Truyện
bà kể lung linh sắc màu cổ tích, mang cháu đến với thế giới của những phép
màu kì diệu: Cơ Tấm chui ra từ quả thị, Lọ Lem sánh duyên cùng hoàng tử . Bà
có mái tóc bạc phơ, có nụ cười hiền như bà tiên trong truyện kể. Bà dọa cháu
rằng chằn tinh rất dữ, bảo cháu phải nghe lời,… Nhiều, và nhiều lắm… Chính
những câu chuyện đã giúp cháu biết yêu cái thiện, ghét điều ác, có ước mơ và
hy vọng. Thỉnh thoảng, tìm về tuổi thơ là tìm đến những điều như vậy, nghe
lịng mình kể lại lời bà ấm áp. Tâm hồn sẽ được thanh lọc và trong sáng hơn.
Cái ranh giới hư thực trong suốt như chính tuổi thơ con người vậy. Dễ tin, dễ
nhớ và cũng dễ quên.


Lớn lên một chút cũng là lúc phải đối mặt với hiện thực, cái đói trở thành nỗi
ám ảnh triền miên:


<i>Cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng</i>


<i>Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm</i>


Đọc câu thơ ta bỗng nhớ về khoảng thời gian:



<i>Năm ấy là năm đói mịn đói mỏi</i>


<i>Bố đi đánh xe khơ rạc ngựa gầy</i>


<i>Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu</i>


<i>Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Cịn lại gì giữa nỗi nhớ cái bình n ngày trước? Nó có là hồi niệm thương
đau, chua xót?


<i>Bom Mỹ giội, nhà bà tơi bay mất</i>


<i>đền Sịng bay, bay tuốt cả chùa chiền</i>


<i>thánh với phật rủ nhau đi đâu hết</i>


<i>bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn</i>


Quê hương ngày khốc liệt in sâu vào tiềm thức khi mà những hình ảnh sự vật
thân thuộc bị hủy hoại. Bom đạn khơng chỉ phá nát đất q hương mà cịn xóa
nhịa đi tuổi thơ tươi đẹp. Bên cạnh khơng gian thiên đường thuở nào là đổ nát,
hoang tàn. Nhà bà, đền, chùa, tất cả tan biến đi dường như quá nhanh đối với
những đứa trẻ chưa kịp lớn hoàn toàn. " thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết " lay
dậy niềm xót xa, như khẽ chạm vào vết đau nhạy cảm. Cái boăn khoăn hết sức
trẻ con lại là niềm đau trong lịng người hiểu chuyện như bà. Khơng cịn q
ngây thơ, có lẽ lũ trẻ hơm nào đã hiểu được cái nguyên cớ đằng sau nó. Nhưng
như chưa tin vào chính mình nên mới thành nỗi băn khoăn chưa dám hỏi.
Khơng cịn nữa thánh, Phật mơ hồ, huyền diệu, thực tế dữ dội đối lập lại hồn
tồn. Cịn bà vẫn vậy, lam lũ tháng ngày: "Bà tôi đi bán trứng ở ga lèn"



Khi lớn lên, con người nhận thức được đầy đủ hơn, làm thành một hành trình
trở về man mác:


<i>Tơi đi lính, lâu khơng về q ngoại</i>


<i>dịng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi</i>


<i>khi tôi biết thương bà thì đã muộn</i>


<i>bà chỉ cịn là một nấm cỏ thôi.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

mang theo tất cả những điều đẹp nhất của tuổi thơ cháu bình n trong khó
nhọc. Mất đi khơng phải là kết thúc. Bà khơng cịn- cháu lớn lên cống hiến cho
đất nước, đó là cách tiếp nối sự sống đầy ý nghĩa. Nấm cỏ của bà chôn chặt mọi
niềm đau, giữ lại miền ký ức trong sáng cho con người tìm về lúc mỏi mệt.


Đất nước mình có biết bao người bà như thế! Bà là hiện thân cho phụ nữ Việt
Nam hiền hậu, tảo tần hôm sớm. Những ngày đất nước chiến tranh, bà thay cha
mẹ nuôi nấng con cháu, giữ cho cháu trọn vẹn một tuổi thơ. Đâu đâu ta cũng
nghe nhắc về bà như một hình ảnh thiêng liêng nhất. Người bà đi vào trái tim
mỗi người như một lẽ tự nhiên, là miền ký ức vĩnh hằng:


<i>"Tiếng gà trưa</i>


<i>Mang bao nhiêu hạnh phúc</i>


<i>Đêm cháu về nằm mơ</i>


<i>Giấc ngủ hồng sắc trứng."</i>



Bà, tuổi thơ và những hình ảnh thân thuộc bình dị trong cuộc sống tạo nên giá
trị cao đẹp nhất. Đi tìm đâu cái xa xôi khi mà hạnh phúc luôn song hành trong
cuộc đời mỗi người. Nó là tình u thương vơ điều kiện, là những tháng ngày
vui chơi thỏa thích. Chúng như mảng màu rực rỡ chiếu sáng tâm hồn, hướng
con người về chỗ cái đẹp, cái thiện căn: "Nhân chi sơ tính bổn thiện" .


Cùng với bà, quê hương Đò Lèn hiện lên sống động giữa tuổi thơ chan hịa. Nó
hiện diện trong cái nghịch ngợm thiếu thời, trong từng giấc mơ trẻ thơ, là nơi
con người vẫy vùng, ngụp lặn. Mảnh đất khi thanh bình, lúc đau đớn oằn mình
vì đạn bom nhưng lúc nào cũng phảng phất hương huệ thơm ngần, cái thứ
hương vị đã trở thành đặc trưng tồn tại giữa tiềm thức.Đò Lèn của cống Na,
chùa Trần, con sông 2 bờ bồi lở , cái tên mộc mạc mà chân tình thiết tha. Đị
Lèn – nơi đó có bà, có cháu, có tất cả hồi niệm yêu thương tồn tại vĩnh hằng
cùng nỗi nhớ!


<b>Bài làm 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nam,... đều cùng mạch suy tư khởi nguồn từ những điều bé nhỏ. Đọc thơ
Nguyễn Duy ta thường bắt gặp những xúc cảm đầm ấm, hồn hậu đã lắng kết
trong ta thành kí ức cội nguồn, thành tâm thức văn hoá, như mùi hương tuổi
thơ, dẫu phảng phất mơ hồ mà khơng thể nào qn được. Đị Lèn, được viết sau
ngày đất nước đã im tiếng súng, con người trở lại quỹ đạo của đời sống hồ
bình, nhưng ở đây vẫn nguyên vẹn là một Nguyễn Duy đắm sâu triết lí mà
thanh thốt nhẹ nhõm trong hơi thơ dân dã tự nhiên, một cái tôi nghệ sĩ có khả
năng nối kết từ hồi ức riêng tư đến lịch sử dân tộc.


Bài thơ triển khai kết cấu theo dịng chảy của hồi niệm tuổi thơ, ngỡ ngọt
ngào mà hố ra xa xót, ngậm ngùi:



- Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá


- Thuỏ nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị rồi giãi bày:


- Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế rồi suy tưởng:


- Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực rồi kể lể:


- Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất


- Tơi đi lính, lâu khơng về q ngoại.


Đại từ "tơi" bé nhó, cá nhân, có vẻ âm thầm nữa, không phải cái thế kiêu bạc
của người lính chiến "ung dung buồng lái ta ngồi" (Phạm Tiến Duật) mà trĩu
nặng những ân tình, những bộc bạch, sẻ chia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

cũng là tâm linh ("cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm") và một hình ảnh
đời thực: "bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn". Sức mạnh của con người trong đời
thực, vượt qua những chấn động lịch sử, sẽ còn ám ảnh hơn cả "mùi huệ trắng,
hương trầm". Cảm hứng về cái đẹp (hồi ức tuổi thơ) sẽ dần chuyển sang cảm
hứng về cái thường nhật (trong sự đối sánh với cái thiêng - giờ đã bị giải
thiêng).


Ngôn ngữ thơ ở Đị Lèn giản dị, trong sáng, khơng một từ nào khó hiểu,
nhưng khi đứng cạnh nhau trong một câu thơ, những câu cạnh nhau thành bài
thơ, tất cả tạo nên một ám ảnh da diết lạ lùng.


Kí ức về tuổi thơ như ánh chớp loé lên những ấn tượng sống động, hiện
hữu: hành động (níu váy bà), thú vui (câu cá, bắt chim sẻ, hái trộm nhãn), mùi
hương (mùi huệ trắng, khói trầm), một âm thanh điệu hát chầu văn, một dáng


người lảo đảo,... Những địa danh cống Na, Bình Lâm, chùa Trần, đền Sòng,
đền Cây Thị,... thân thuộc với tác giả, cũng không hề xa lạ với bất cứ người dân
Việt Nam nào từng sống ở thôn quê.


Nguyễn Duy thật tài tình khi chỉ phác vài nét bút đã có thể làm rõ, chẳng hạn
hình ảnh một cậu bé "níu váy bà đi chợ Bình Lâm", "chân đất đi đêm xem lễ
đền Sịng"; nhưng tài tình hơn là khả năng làm mờ, làm ảo hố khơng gian,
bằng và trong ngôn ngữ, ở hai câu thơ đẹp như ảo ảnh:


mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm


điệu hát văn lảo đảo bóng cơ đồng.


Ngoài từ "thơm lắm" là một ấn tượng rõ (một xúc cảm ngây thơ) thì mỗi
chữ trong hai câu này đều ảo. Mùi huệ thơm, nhưng là mùi thơm "trắng", lại
quyện với khói trầm trắng đục trở thành mùi hương duy nhất, hương kỉ niệm,
hương tuổi hoa niên "thơm lắm", khơng gì thay thế được. Điệu hát văn là âm
thanh, nhưng cũng là hình ảnh cơ đồng "lảo đảo". Những từ ngữ đều nghiêng
về cảm giác, hoặc nhìn ra cái hư ảo: mùi, trắng, quyện, khói, thơm, bóng, lảo
đảo,...


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

huệ"/"trắng quyện khói" xem ra vẫn ổn. Cũng vậy, ở câu thứ hai có thể là:
(trong) "điệu hát văn" "lảo đảo bóng cơ đồng"/ "điệu hát văn" (làm) "lảo đảo
bóng cơ đồng"/ "điệu hát văn" và "bóng cơ đồng" cùng "lảo đảo",... Câu trên là
một hương thơm ảo, màu sắc ảo (hương huệ, hương trầm, màu trắng hoa huệ,
màu khói) câu dưới là một hình bóng ảo (cơ đồng), một âm thanh ảo (điệu hát
văn), bóng cô đồng lảo đảo đi ra từ điệu hát văn, chứ không phải một cô đồng
thật (huống hồ lại là "bóng"!).


Kí ức của nhà thơ làm sống dậy một không gian say người: say vì hương


thơm và âm nhạc, say vì một cái gì thuộc về tâm linh, ảo diệu. Một cặp câu thơ
tạo khơng gian "nhập đồng". Và đó là cái nhìn của hồi ức, là nét vẽ của hồi ức,
phi lí tính. Nó cũng giống như khi Nguyễn Duy viết về Đà Lạt một lần trăng:


Trăng ảo ảnh lập lờ trong sương trắng


Ngọn gió nhà ai thấp thống bên đồi


Tiếng vó ngựa gõ ròn trên dốc vắng


Nghe mơ hồ một tiếng lá thông rơi...


Mỗi câu thơ đều tinh đến từng chữ, mà cái tinh cứ tự nhiên như khơng chút
dụng cơng. Những câu lạ của Đị Lèn chính là những câu thơ đưa dẫn về phía
tâm linh, bằng cảm nhận nguyên sơ của con trẻ:


Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực


giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần


cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng


cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

-độ trong nhìn xun thấu, một trạng thái tồn tại khơng cịn thân thể, một trạng
thái hồ nhập tâm linh. Trong suốt chứ không phải trong veo trẻ thơ ("Tiếng ve
trong veo xé đơi hồ nước" - Hồng Nhuận Cầm), khơng phải trong trắng, trong
sạch, trong biếc,... Trong suốt, là một cảm giác tâm linh.


Trong dòng hồi ức của người cháu, hình ảnh người bà là một ám ảnh, một


niềm vui, một xa xót, một ăn năn,... Trở lại câu hỏi: Người bà là hiện thực hay
là hình ảnh của tâm linh ? Nhiều bạn đọc chắc còn nhớ đến người bà tảo tần
cùng bếp lửa sưởi ấm tuổi thơ của Bằng Việt:


Một bếp lửa chờn vờn sương sớm


Một bếp lửa ấp iu nồng đượm


Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.


(Bếp lửa)


Và đây, người bà cơ cực như biết bao người bà, người mẹ Việt Nam, trong
thơ Nguyễn Duy:


Tôi đâu biết bà tơi cơ cực thế


bà mị cua xúc tép ở đồng Quan


bà đi gánh chè xanh Ba Trại


Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

khắc hoạ hình tượng mẹ theo cách này: "Mẹ ta khơng có yếm đào - Nón mê
thay nón quai thao đội đầu - Rối ren tay bí tay bầu - Váy nhuộm bùn áo nhuộm
nâu bốn mùa").


Đị Lèn cịn một hình ảnh về người bà được viên nổi trong không gian
hiện thực dữ dội:



Bom Mĩ giội, nhà bà tơi hay mất


đền Sịng bay, bay tuốt cả chùa chiền


thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết


bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn.


Cách dùng khẩu ngữ và giọng suồng sã của đời sống với lối nói "bay mất",
"bay tuốt", "rủ nhau đi đâu hết" mang nét nghĩa mai mỉa càng làm rõ cái khốc
liệt của chiến tranh. Tác giả không chỉ tạo một cảm giác "sốc" về sự kiện (bom
Mĩ giội), mà còn tạo một cơn "sốc" cảm xúc hẫng hụt ("thánh với Phật rủ nhau
đi đâu hết"),... Chùa chiền, thánh, Phật là huyền thoại, là tín ngưỡng, nhưng
cũng vẫn là cái khả biến, hoặc có thể chỉ là cái vỏ của huyền thoại mà tuổi thơ
cả tin chẳng thể nhận ra.


Vậy đó, chiến tranh, bom Mĩ và sức tàn phá dữ dội của nó làm người ta thấy
rõ: chẳng có gì kì diệu hơn sức mạnh của con người, kì diệu sao là sức mạnh
của con người bình thường, bé nhỏ: "Bà tơi đi bán trứng ở ga Lèn". Bình tâm
như khơng là cái phi thường nhất trong bối cảnh hiện thực bất thường ấy!


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Tơi đi lính, lâu khơng về q ngoại


dịng sơng xưa vẫn bên lở, bên hồi


khi tôi biết thương bà thì đã muộn


bà chỉ cịn là một nấm cỏ thỏi.


Cách kể "Tôi đi lính, lâu khơng về q ngoại" tưởng như lời tự sự bình


thường, nhưng ngẫm ra, nó chất chứa trong đó cả một quá khứ, nén dồn thời
gian dằng dặc của một cuộc chiến tranh, những nén dồn tâm trạng, vì con
người bị cuốn theo dịng chảy lịch sử, khơng được sống với đời thường.


Nhiều người đã biết đến cái "nấm cỏ khâu xanh rì" như một triết lí buồn về
thân phận con người ("Trăm năm nào có gì đâu - Chẳng qua một nấm cỏ khâu
xanh rì" - Cung ốn ngâm khúc), hay cái nấm đất "sè sị" của Nguyễn Du bên
con dường dập dìu bước chân trai thanh gái lịch như định mệnh dành cho kẻ
"hồng nhan đa truân" ("Sè sè nấm đất bên đường - Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng
nửa xanh" - Truyện Kiều). Ở Đò Lèn của Nguyễn Duy, cái "nấm cỏ khâu" kia,
cái "nấm đất sè sè" ấy, tròn nhỏ lại thành "nấm cỏ" ám ảnh hơn vì nó Việt Nam
hơn, và càng ám ảnh khi đặt nó vào dịng thác cuộn chảy của lịch sử. Thiên
nhiên thì vẫn vậy "dịng sơng xưa vẫn bên lở, bên bồi", chỉ có con người đã
thành hư vô. Những cuộc biến thiên dâu bể tác động mạnh không chỉ đến một
dân tộc, đến những cái thuộc về tín ngưỡng của dân tộc, khơng chỉ làm bay mất
cả đền chùa miếu mạo mà cụ thể hơn, máu thịt hơn, nó hằn dấu lên kí ức con
người, lên thân phận con người. Từ cách nhìn đó, bài thơ tưởng chừng rất cá
nhân (cá nhân đến từ cái nhan đề Đò Lèn) lại mang đậm một cảm hứng lịch sử,
một cách nhìn lịch sử, một sự "nhận thức lại lịch sử". Nằm trong mạch suy
ngẫm đó, những tác phẩm tự sự sẽ có tiếng nói lớn hơn (chẳng hạn Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh hay một số truyện ngắn mượn chất liệu lịch sử của
Nguyễn Huy Thiệp,...). Tuy nhiên, thơ "nói nhỏ", nói nhẹ và buồn nhưng thấm
thía theo cách riêng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

con người xứng đáng là huyền thoại ấy lại trở về với "nấm cỏ" vô danh, khiêm
nhường, nhỏ bé mà vĩnh hằng. Người ta vốn chỉ quen nhớ lịch sử theo những
dấu mốc sự kiện; cịn những phần chìm lấp, dễ bị lãng quên, những cá nhân
nhỏ bé sẽ được ai nhớ đến nếu không phải thơ ca, không phải nghệ thuật ? Cái
buồn ở bài thơ để lại ấn tượng đậm nét hơn cái đẹp, cái lãng mạn tâm linh,
nhưng hoàn toàn có cơ sở để tin rằng thánh thần, chùa chiền có thể bay mất,


riêng cái mùi hương trầm, huệ trắng vẫn sẽ thơm mãi trong kí ức con người
-đó là một sức mạnh tâm linh khơng gì huỷ diệt được.


Quả là sức nén, sức ám ảnh của một bài thơ, có thể đáng sợ hơn một tiểu
thuyết, điều này khơng phải là một cách nói ngoa.


<b>Bài làm 3</b>


Điều q giá nhất đối với mỗi người có thể khác nhau, song quan trọng
nhất là ta biết trân trọng và gìn giữ giá trị ấy như thế nào. Thật vậy, đối với
Nguyễn Duy, tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm bà cháu luôn là một ký ức
đẹp trong tim. Qua Đò Lèn, tác giả đã bộc lộ những suy nghĩ sâu lắng về bà
gắn liền với sự tỉnh ngộ, nhận ra được tình thương vơ bờ mà bà dành cho cháu.


Nhà thơ đã thể hiện hình ảnh của người bà qua sự hồi nhớ:


Tôi đâu biết bà tơi cơ cực thế


bà mị cua xúc tép ở đồng Quan


bà đi gánh chè xanh ở Ba Trại


Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn….


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

đêm, để có thể tiếp tục làm việc ni cháu. Bà hiện lên với sự mảnh mai, nhỏ
bé nhưng trên đôi vai bà gánh chè rong như gánh cả một gia đình, một tương
lai của con cháu. "Mị cua xúc tép", "gánh chè xanh" là cả một cuộc sống vất vả
mưu sinh. Tuy tác giả khơng nói đến, nhưng hình ảnh người bà hiện lên in đậm
dấu thời gian. Một người bà chịu thương chịu khó bền bỉ trong cuộc sống lam
lũ, khuya sớm tảo tần. Để rồi từ đó tác giả thể hiện niềm xót xa, ái ngại cho bà.


Qua hình ảnh ấy ta nhận ra đâu đó thống chút hình ảnh người mẹ thân thương
ở thi phẩm Bên kia sông Đuống:


Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong


Bước cao thấp bên bờ tre hun hút


...


Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ…


Cũng từ trong ướt lạnh sương gió, người mẹ hiền từ với hình ảnh "bước
thấp bước cao", nhọc nhằn trên đôi vai mẹ gánh hàng rong mong kiếm được
miếng ăn, tất cả cuộc sống và tương lai của các con phụ thuộc vào gánh hàng
rong của mẹ. Không biết bao nhiêu người con sông Đuống đã lớn lên sau gánh
hàng rong ấy. Để rồi từ đó hình ảnh người bà, người mẹ hiện lên với đức hi
sinh và tấm lòng bao dung to lớn.


Thế nhưng, nhà thơ nói đến những điều ấy với tâm trạng "Tôi đâu
biết…" khắc họa được những nghẹn ngào trong câu nói. Đó là cả một tuổi thơ
nghịch ngợm, vô tư và hồn nhiên gắn với những trò chơi, trò đùa nghịch của trẻ
con như câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim, ăn trộm nhãn, chơi đền, xem lễ… Thế
nhưng để cháu được như thế, bà đã phải nhọc nhằn như thế nào. Qua đó thể
hiện sự vơ tư đến vơ tâm, vơ tính của người cháu. Phải chăng lúc ấy cháu còn
thơ bé để ngẫm đến những cực khổ của bà!


Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực


giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần



cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng


cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm….


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

tình yêu thương của bà, và thế giới hư ảo, vô thực của những "tiên, Phật, thánh,
thần", những câu chuyện cổ tích… Nhà thơ khơng sống tất cả vì hiện tại, vì
tình thương của bà, mà mải bận mơ về những chuyện hư ảo. Điều đó cho thấy
tác giả sống với thế giới hư và thế giới thực lẫn lộn với nhau. Để rồi hai câu thơ
sau nhấn mạnh mức độ của sự lẫn lộn ấy: những mùi hương cứ trộn lẫn lại với
nhau. Hiện thực khó khăn "năm đói" làm người bà càng phải khổ cực hơn nữa.
Cậu bé nhỏ khi ấy chỉ biết vui chơi chứ chưa biết nghĩ đến bà mình, lại khơng
nhận ra giá trị "củ dong riềng luộc sượng" vất vả bà kiếm được, không biết
thương bà, vô tâm, vơ tính trước nỗi cơ cực của bà… Để rồi sau này, khi tác
giả đã lớn, đã trưởng thành, đã nhận ra được tình yêu thương của bà dành cho
mình, đã biết thương u bà thì bà chỉ cịn là nấm cỏ:


Tơi đi lính, lâu khơng về q ngoại


dịng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi


khi tôi biết thương bà thì đã muộn


bà chỉ cịn là một nấm cỏ thôi….


Lúc này cháu đã trưởng thành trong nhận thức về cuộc đời, khơng cịn
sống trong niềm tin về sự gần gũi, tương đồng giữa hai thế giới thực và ảo, mà
đã "đi lính", đã biết cầm súng chống lại cái ác cái xấu. Quê hương vẫn còn đấy,
những địa danh vẫn còn lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ, "dịng sơng xưa vẫn
bên lở bên bồi", nhưng hình bóng của bà thì khơng cịn nữa. Sự thức tỉnh gắn
liền với sự ân hận bởi lúc cháu biết thương bà thì cơ hội đền đáp đã khơng cịn.


Chính sự tỉnh ngộ ấy khiến cho tình thương bà càng tức tưởi xót xa vì tất cả đã
q muộn màng…


Thật vậy, trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có điều đáng để hối
tiếc. Nhưng quan trọng nhất phải biết sống sao cho trọn vẹn với tất cả, nhất là
những người thân yêu của mình. Đừng để khi có tình thương ấy mà khơng nhận
ra, khơng biết gìn giữ, khơng biết trân trọng với những gì mình đang có cũng
như để những thương u ta phải buồn lòng; mà mải mê mong muốn, theo đuổi
những giá trị xa vời để rồi khi nó mất đi ta mới biết thương, biết quý thì tất cả
cũng đã quá trễ, quá muộn…


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Tuổi thơ và quê hương luôn là những kỉ niệm cháy bỏng trong nỗi nhớ của
nhà thơ Nguyễn Duy. Nỗi nhớ ấy ngày đêm da diết, vấn vương từng bước đi
trong đường đời của nhà thơ người lính Nguyễn Duy. Thời thơ ấu, sớm mồ côi
mẹ, Nguyễn Duy được bà ngoại hiền từ, nhân hậu nuôi nấng, thương yêu.
Trong tâm hồn Nguyễn Duy, bà ngoại là hình ảnh gần gũi, thân thiết đến vơ
cùng. Đã có bao bài thơ Nguyễn Duy sáng tác khi đi xa người bà kính yêu đã
trở thành những bài thơ đẹp nhất của hồn quê hương sâu lắng và mặn mà nỗi
nhớ thương.


Có những bài thơ được Nguyễn Duy sáng tác để bộc lộ nỗi nhớ thương và
biết ơn đối với người mẹ nơi quê xa, nhưng ở đó lại lâp lánh vẻ đẹp của hình
ảnh người bà cao quý, tảo tần. Đối với Nguyễn Duy, bà là mẹ, là người đã cho
cháu mình lịng u thương và cả sự hi sinh vơ bờ bến. Bài thơ Đị Lèn đã trở
thành một trong những bài thơ ngập tràn tình u thương đằm thắm như thế.


Có thể nói: Đị Lèn là một bài thơ hay, giản dị và dễ hiểu. Một bài thơ
được khơi nguồn từ tình u q hương và lịng biết ơn sâu sắc với người bà
nặng công nuôi nấng, vỗ về thương yêu như bài Đò Lèn, thực sự đã đem đến
cho người đọc một tình cảm nhân bản sâu sắc. Đị Lèn với bao câu thơ xúc


động đó đã gợi cho người đọc nhiều xúc cảm về những kỉ niệm tuổi thơ của
Nguyễn Duy bên người bà thân thiết, giữa quê hương êm đềm một thời quá
khứ.


Vì thế, những cái tên địa danh thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa,
quê hương của Nguyễn Duy đã được nhà thơ nhắc đến thật nhiều như bao tình
trìu mến dành cho mỗi một nơi: nào là cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền
Cây Thị, đền Sòng, Đồng Quan, Ba Trại… Tất cả hiện lên để gắn với kỉ niệm
ấu thơ day dứt lòng người. Và tất cả đã lùi vào quá khứ, nhưng đó lại là một
q khứ đẹp đến vơ cùng. Cái "thuở nhỏ của "tôi" được Nguyễn Duy nhớ kỹ
đến từng cử chỉ của con trẻ nghịch ngợm: đi câu cá ở cống Na, níu váy bà vì
ngơ ngác giữa chợ Bình Lâm: sợ lạc mất người bà thân thiết hay cái gì cũng lạ
lẫm đối với chú bé sớm thiếu thốn tình thương vỗ về? Rồi cùng bạn nhỏ "tôi"
leo lên "bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật". Rồi cả cái ưò "ăn trộm nhãn chùa
Trần" cũng được "cái tơi" Nguyễn Duy nhớ đến trong kí ức long lanh giọt nước
mắt ngậm ngùi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

thương của người con đi xa quê lâu lắm chưa trở về. Thế mà, những bước
"chân đất đi đêm xem lễ", "điệu hát văn lảo đảo bóng cơ đồng" và cả sắc màu
của đời sống tâm linh lại bỗng trở thành rõ nét, rõ hình trong nỗi nhớ của
Nguyễn Duy. Nét và hình ấy làm xao xuyến tất cả những ai đã đi qua thời thơ
bé đáng yêu, bây giờ nhớ lại chợt thấy lòng se thắt tiếc nhớ.


Nào đâu chỉ có tiếc nhớ mà thơi, vì cịn có cả lời xót xa, ân hận cho một
sự dại khờ. Bởi vì:


Tơi đâu biết bà tơi cơ cực thế


bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan



bà đi gánh chè xanh Ba Trại


quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn.


Người bà của "tôi" vất vả, nhọc nhằn như thế đó. Bước chân "thập
thững" qua suốt những nơi ở quê "tôi" nơi Hà Trung, rồi đến cả những nơi
thuộc giáp ranh Ninh Bình cũng có bước "bà đi". Hình tượng người bà vì thế đã
có sức ám ảnh, cuốn hút nhà thơ và cả những ai từng có một người bà, người
mẹ, người chị lam lũ suốt bốn mùa như thế. Bà của "tôi" là Tiên, là Phật, là
Thánh, Thần. Dù "tơi" có ngây thơ sống giữa hai bờ hư thực, dù "cái năm đói,
củ dong riềng luộc sượng" thì "bà tơi" vẫn cứ mãi là hình ảnh thánh thiện đến
trong trẻo ở trong "tơi". "Cái năm đói" trong q khứ có ý nghĩa gì đâu! Vì với
tơi, đứa cháu bé bỏng hồi nào của bà, nay dù có lớn khơn thì hình ảnh trong
veo ấy vẫn cịn đó quyện lẫn mùi "thơm huệ trắng, hương trầm". Bước chân
vững vàng hôm nay của Nguyễn Duy qua mọi nẻo đường cuộc sống luôn chập
chờn êm đềm quá khứ thần tiên về "bà tôi".


Rồi nhọc nhằn đâu đã hết đối vđi "bà" của "tôi". Chiến tranh tàn khốc cơ
cực càng nhiều không kể xiết:


Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất


đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền


thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Bà của "tôi" vẫn sừng sững một ngoan cường giữa cuộc đời trần trụi vẫn
tảo tần, vẫn chịu đựng tất cả để tồn tại, để thách thức mọi khổ đau. "ga Lèn "
quê hương yêu dấu vẫn đậm bóng liêu xiêu, vẫn in "bước cao thấp" của "bà
tôi". Bà vẫn chờ đợi tin tức đứa cháu yêu thương của bà. Cháu sẽ về với bà. Bà


ơi, dù nhà, đền Sịng, chùa chiền và cả Thánh, Phật có bay đi hết, nhưng vẫn
còn đây một bà Tiên đức độ giữa cuộc đời của cháu phải không? Bà Tiên ấy đã
tiếp thêm sức mạnh đến vô tận cho cuộc đời một Nguyễn Duy ln vươn tới
mãi. Dù đó là một Nguyễn Duy:


Khi tôi biết thương bà tơi đã muộn


Bà chỉ cịn là một nấm cỏ thơi


Bài thơ Đị Lèn kết thúc bằng nỗi nhớ, sự ân hận muộn màng của cháu
là "tôi" dành cho "bà". Nhưng tất cả lại là những câu thơ chan chứa yêu thương
và sự ấm áp nhất. Bởi ai đã hiểu hết sự hi sinh của những người bà, người mẹ
như Nguyễn Duy thì người đó chính là người trưởng thành nhất và người đó
ln có trái tim nhân ái, nồng ấm nhất giữa trần gian phàm tục này.


<b>Bài làm 5</b>


Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở xã Đơng
Vệ, huyện Hà Trung, Thanh Hóa. Mẹ mất sớm, Nguyễn Duy ở với bà ngoại từ
nhỏ, cho nên trong tâm hồn nhà thơ, bà ngoại là hình ảnh gần gũi, thân thuộc
nhất. Năm 1966, Nguyễn Duy nhập ngũ, tham gia chiến đấu ở các chiến trường
gian khổ ác liệt như Khe Sanh, Đường 9 – Nam Lào, Quảng Trị… Từ chiến
trường trở về, Nguyễn Duy học tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp
Hà Nội. Năm 1976, ông là biên tập viên báo Văn nghệ Giải phóng. Từ năm
1977 đến nay, ông làm việc tại báo Văn nghệ. Với những đóng góp đáng kể
cho thơ ca hiện đại, năm 2007, Nguyễn Duy đã được tặng Giải thưởng Nhà
nước về văn học nghệ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Các tác-phẩm chính, về thơ: Cát trắng (1973), Ánh trăng (1984), Mẹ và
em (1987),… về các thể loại khác: Em – Sóng (kịch thơ,. 1983), Khoảng cách


(tiểu thuyết, 1986), Nhìn ra bể rộng trời cao (bút kí, 1986),… Nhà thơ sáng tác
bài Đị Lèn năm 1983, trong một dịp trở về quê hương để sống lại với những kỉ
niệm buồn vui thời thơ ấu. Có thể coi bài thơ này tiêu biểu cho phong cách
sáng tác và vẻ đẹp của thơ Nguyễn Duy:


Thuở nhỏ tơi ra cống Na câu cá


níu váy bà đi chợ Bình Lâm


bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật


và đơi khi ăn trộm nhãn chùa Trần


Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị


chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng


mùi huệ trắng quyện khói trầm-thơm lắm


điệu hát văn lảo đảo bóng cơ đồng


Tơi đâu biết bà tơi cơ cực thế


bà mò cua xúc tép ở đồng Quan


bà đi gánh chè xanh Ba Trại


Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn


Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực



giữa bà tơi và tiên, Phật, thánh, thần


cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng


cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm


Bom Mĩ giội, nhà bà tơi bay mất


đền Sịng bay, bay tuốt cả chùa chiền


thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Tơi đi lính, lâu khơng về q ngoại


dịng sơng xưa vẫn bên lở, bên bồi


khi tơi biết thương bà thì đã muộn


bà chỉ cịn là một nấm cỏ thôi.


Bài thơ là tâm tư, nỗi niềm của tác giả khi nhớ về tuổi thơ hồn nhiên, khờ
dại, về nỗi vất vả mưu sinh của bà ngoại để nuôi mình, về sự ân hận muộn
màng khi biết thương bà thì bà đã qua đời. Thơng qua đó, tác giả muốn nói với
mình, với mọi người là hãy sống tử tế đối với những người ruột thịt thân yêu.


Bài thơ mang cái tên rất bình dị, mộc mạc: Đị Lèn. Đó là tên quê hương
tác giả, cũng giống như trăm nghìn cái tên làng xóm quen thuộc khác ơ nơng
thơn Việt Nam như thơn Đơng, thơn Đồi, xóm Thượng, xóm Hạ… Nhưng khi
tác giả đưa vào thơ thì nó đã trở thành một trời nhớ thương da diết khôn nguôi


về những năm tháng tuổi nhỏ sống bên bà ngoại kính yêu, xen lẫn nỗi ân hận,
xót xa…


Mạch cảm xúc liên kết hiện tại với quá khứ. Đứa cháu bé nhỏ ngày xưa
nay đã là người lính, sau bao trận chiến vào sống ra chết và những sóng gió
cuộc đời, trong giây phút hồi tưởng, hình ảnh quê hương và kỉ niệm tuổi thơ
sống dậy.


Bài thơ chia làm ba phần. Phần một là hai khổ đầu: Tuổi thơ hồn nhiên
nghịch ngợm. Phần hai là ba khổ tiếp theo: Hình ảnh bà ngoại vất vả, lam lũ
trong cuộc sống nghèo khổ. Phần ba là khổ cuối : Tình thương yêu chân thành
và lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với bà ngoại kính u và sự day dứt xót
xa, ân hận muộn màng.


Trong bài thơ, “cái tôi” thuở nhỏ được tác giả tái hiện chân thực và sống
động. Tác giả không giấu giếm mà thật thà kể rằng thời thơ ấu mình cũng
nghịch ngợm, dại khờ giống như bao đứa trẻ khác ở vùng quê nghèo. Đó là thái
độ thẳng thắn, tơn trọng sự thật, khơng thi vị hóa q khứ của mình. Chính vì
thế, tác giả đã đem lại cho người đọc cảm tình pha chút ngạc nhiên, thú vị.
Thời thơ bé hiện lên rõ ràng như một cuốn phim quay chậm trong kí ức nhà
thơ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

níu váy bà đi chợ Bình Lâm


bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật


và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần


Tác giả không đơn thuần kể về tuổi thơ mà gửi gắm vào đó sự ăn năn hối
hận về những suy nghĩ và hành động nơng nổi của mình khi sống với bà ngoại.


Vì thế, kí ức tuổi thơ hiện lên trong tâm tưởng thật sống động, rưng rưng cảm
xúc, vừa rất riêng vừa gần gũi với mọi người.


Trong cảm nhận hồn nhiên, ngây thơ của cậu bé, hình ảnh làng quê thật
yên bình, tươi đẹp với bao thú vui con trẻ : câu cá, bắt chim, hái trộm hoa quả,
đi xem lễ ở đền, ở chùa, theo bà ra chợ… Cậu bé nông thôn hiếu động, nghịch
ngợm : câu cá ở cống Na, bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật, thậm chí đơi khi
ăn trộm nhãn chùa Trần. Có người sẽ cho rằng đó là những trị quậy phá quá
đáng, xem thường tiên, Phật, nhưng thật ra, những chuyện ấy cũng bình
thường. Ở nơng thơn, khơng nơi nào linh thiêng bằng như đình chùa, đền miếu,
nhưng cũng chẳng nơi nào yên bình, thân thuộc hơn chốn ấy đối với trẻ thơ. Vì
thế, khi nhớ vể thời nhỏ dại, tác giả kể tất chẳng giấu chuyện gì nên giọng kể
rất tự nhiên, pha chút hóm hỉnh. Hết kỉ niệm này đến kỉ niệm khác cứ lần lượt
hiện lên. Dường như nhà thơ kể để cho vơi nỗi nhớ, để mà hoài niệm, để mà
sung sướng về một thời thơ ấu hồn nhiên không thể nào quên:


Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị


chân đất đi đêm xem lễ đền Sịng


mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm


điệu hát văn lảo đảo bóng cơ đồng


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Trên cái nền là quá khứ tuổi thơ, hình ảnh người bà hiện lên cùng khung
cảnh thân thiết của quê hương. Nhà thơ cảm thơng, thương mến bà mình và
cũng là cảm thông, thương mến quê hương. Các địa danh: cống Na, chợ Bình
Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng, đồng Quan, Ba Trại, Quán Chảo,
Đồng Giao, ga Lèn hiện lên rõ mồn một trong kí ức nhà thơ bởi nơi nào cũng in
dấu kỉ niệm, cũng mang bóng dáng người bà. Bà ngoại chính là sợi dây nối quá


khứ với hiện tại, nối con người đang sống hôm nay với người đã khuất, nối mỗi
cá nhân với gốc rễ của mình. Bởi vì, người ta thường sống trong hiện tại với cả
quá khứ và tương lai.


Sau những đoạn thơ hồi tưởng với âm điệu bâng khuâng, da diết, bây giờ
lời kể và cảm xúc của nhà thơ đã là của một người lính lâu khơng về q ngoại.
Bắt đầu là lời hối lỗi chân thành về sự hồn nhiên đến vô tâm của đứa cháu thơ
dại ngày xưa:


Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế


Bài thơ mang tên Đò Lèn nhưng nội dung chủ yếu lại viết về bà ngoại ,
kính u của nhà thơ. Hình ảnh bà ngoại trở thành hình tượng nghệ thuật gây
xúc động sâu xa trong tâm hồn người đọc. Bài thơ chỉ có 24 câu nhưng từ bà
xuất hiện tới 9 lần. Ngay cả ở khổ thơ thứ hai tuy không nhắc tới bà nhưng hình
ảnh bà vẫn thấp thống trong mỗi dịng thơ, mỗi chi tiết nghệ thuật. Đó là hình
ảnh người bà với cuộc đời cơ cực, vất vả, tất tả ngược xi chẳng lúc nào ngơi
nghỉ: khi đi chợ Bình Lâm, khi mò cua xúc tép, lúc gánh chè xanh Ba Trại
ngược về Quán Cháo, Đồng Quan trong những đêm giá rét. Kể cả khi máy bay
giặc Mỹ đánh phá làng quê, bà vẫn lặn lội đi bán trứng ở ga Lèn. Tất cả đều vì
cuộc sống của đứa cháu u dấu. Thấp thống trong đoạn thơ là hình ảnh của
những người bà, người mẹ Việt Nam bao đời luôn chịu đựng nhọc nhằn, vất vả,
tảo tần khuya sớm, chịu thương chịu khó hi sinh thầm lặng cả đời cho chồng,
cho con, cho cháu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

bà Tú trong bài thơ Thương vợ của Tú xương: Lặn lội thân cò khi qng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đị đơng. Nhắc đến người bà kính yêu


</div>

<!--links-->

×