Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tải Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu ngưng bích" - 3 Bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.56 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng</b>
<b>được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu ngưng bích" - Văn mẫu 9</b>
<b>Đề bài: Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của</b>
<b>nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích"</b>


<b>Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu </b>
<b>Ngưng Bích mẫu 1</b>


Truyện Kiều, tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ kinh điển trong Nền
Văn học Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm
3254 câu, dựa theo tiểu thuyết "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân,
Trung Quốc. Đây là một trong những tác phẩm tạo nên tiếng tăm cho đại thi hào
dân tộc Nguyễn Du. Để nói về tài năng của ơng trong văn chương ví dụ như bút
pháp “Tả cảnh ngụ tình” chúng ta có thể tìm đọc đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
trong tập thơ Truyện Kiều.


Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích “kiều ở lầu ngưng bích”Bị Mã Giám
Sinh lừa gạt phẫn uất, Thúy Kiều dùng dao tự vẫn,Tú Bà sợ mất vốn mất lãi nên đã
thuốc thang rồi đưa Thúy Kiều, vờ hứa hẹn sẽ gả nàng cho một người tử tế, đưa
nàng vào ở trong lầu Ngưng Bích để giam lỏng. Ở chiếc lầu hoang vắng, xung
quanh chỉ có mây mù và những dãy núi xa xăm. Thúy Kiều làm bạn với mây trời và
sự cơ đơn.


<i>“Trước lầu Ngưng Bích khóa xn</i>


<i>Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung</i>


<i>Bốn bề bát ngát xa trông</i>


<i>Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”</i>



Mở đầu Nguyễn Du đã vẽ ra không gian tĩnh mịch làm nổi bật tâm trạng cơ đơn của
Thúy kiều. Hai từ “Khóa xn” có lẽ là tóm gọn nên bi kịch cho nàng Kiều. Không
gian thật là mênh mông với “vẻ non xa tấm”, “bốn bề bát ngát”, "cát vàng cồn nọ".
Cảnh lầu Ngưng Bích vì thế mà trở nên trống trải, hoang vắng và lạnh lẽo. Từ cảnh
vật lạnh lẽo, không gian rộng lớn mênh mông vô cùng, vô tận, Thúy Kiều lại ý thức
sâu sắc về cảnh ngộ bi kịch của bản thân.


<i>“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

“bẽ bàng”, “mây sớm về khuya” tạo nên cái sự cô đơn đến chống ngợp hay cảnh u
buồn khơng lối thốt, khơng kết thúc. Với khơng gian đó nàng chợt chìm đắm vào
sự nhớ nhung, tâm trạng được hiện rõ, trước hết nàng nhớ về người yêu của mình,
về chàng Kim:


<i>“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng</i>


<i>Tin sương luống những rày trông mai chờ</i>


<i>Bên trời góc bể bơ vơ</i>


<i>Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”</i>


Nỗi nhớ dành cho người đã từng thề nguyện hẹn ước trăm năm, nhớ những kỉ niệm
đêm trăng hẹn thề. Phương xa, có lẽ chàng vẫn đang trơng ngóng tin của nàng, đâu
biết nàng đã phải bán thân để đến nơi đất khách quê người. Nàng đau lòng khi nghĩ
thân phận mình bị vùi dập liệu gội rửa biết bao lần có xứng đáng để yêu chàng Kim
trọng.


Buồn thương nàng lại nhớ đến cha mẹ



<i>“Xót người tựa cửa hơm mai</i>


<i>Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”</i>


Kiều xót xa thương cảm vì cha mẹ hơm mai “tựa cửa” ngóng tin con nơi biệt xứ. Có
thể giải thích đơn giản việc nàng dành nỗi nhớ trước cho Kim Trọng vì nàng chưa
làm trịn câu thề với người u mà đã đi biệt tích. Cịn nơi cha mẹ, dẫu gì nàng cũng
đã đền đáp được một phần công lao và nơi quê nhà cha mẹ có em Vân đang chăm
sóc hộ mình.


Tiếp tục là những bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều:
<i>“Buồn trơng cửa bể chiều hơm,</i>


<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?</i>


<i>Buồn trông ngọn nước mới sa,</i>


<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu?</i>


<i>Buồn trông nội cỏ dàu dàu,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,</i>


<i>Ầm ám tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”</i>


Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông” nghĩa là nỗi
buồn đã sẵn tự trong lịng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn
ấy. Tả cảnh ngụ tình. Một nồi buồn lớn, khơng phải là nỗi buồn thoáng qua chốc lát,
mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Bốn bức tranh ấy cũng gợi liên tưởng về
thân phận bọt bèo, trôi nổi giữa dịng đời như “ hoa trơi” của Thúy Kiều.



Tâm trạng của Thúy Kiều được bộc lộ rõ nét và sâu sắc qua bút pháp tài hoa của tác
giả Nguyễn Du. Khơng chỉ thể hiện nỗi buồn mà cịn làm cho người đọc hiểu hơn
về tấm lòng son sắc, chung thủy và hiếu thảo của Thúy Kiều.


<b>Cảm nhận của em về tấm lịng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu</b>
<b>Ngưng Bích mẫu 2</b>


Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng
cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi
gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng
đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng.
Nguyễn Du đã gợi tả thành cơng hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn
lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.


Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày
đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập khơng xót
thương. Những kẻ mua thịt bán người đã khơng từ mọi thủ đoạn để có được Kiều,
và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thốt bản thân
nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo
tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc
Kiều tiếp khách.


Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:


<i>Bốn bề bát ngát xa trơng</i>


<i>Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và


quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành
cơng khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi.


Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa.
Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:


<i>Tưởng người dưới nguyệt chén đồng</i>


<i>Tin sương luống những rày trơng mai chờ</i>


<i>Bên trời góc bể bơ vơ</i>


<i>Tấm son gột rửa bao giờ cho phai</i>


Dù trong hồn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lịng son của Thúy Kiều vẫn
nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa
kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng cịn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình,
thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim.
Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì
kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây?
Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương.


Cảm nhận về Thúy Kiều


Nghĩ về người u đã xót, Thúy Kiều cịn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ:


<i>Xót người tựa cửa hơm mai</i>


<i>Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ</i>



<i>Sân Lai cách mấy nắng mưa</i>


<i>Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ơm</i>


Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo
lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay khơng. Nàng ân hận và chua xót khi
khơng được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ
nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.


Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và
chữ tình vẫn cịn da diết trong trái tim của Kiều.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Buồn trông của bể chiều hơm</i>


<i>Thuyền ai thấp thống cảnh buồn xa xa</i>


<i>Buồn trông ngọn nước mới sa</i>


<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu</i>


Những câu thơ chua xót, cứa vào lịng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải
trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu
thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như chờ
mong và như nén lại trong lịng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trơi” vơ định, khơng
có điểm dừng, khơng biết về đâu.


Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tái tê
hơn:


<i>Chân mây mặt đất một màu xanh xanh</i>



<i>Buồn trơng gió cuốn mặt ghềnh</i>


<i>Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi</i>


Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường
như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu
“xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người,
mờ mịt và đầy tối tăm.


Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một
khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du
với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê
lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.


<b>Cảm nhận của em về tấm lịng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu</b>
<b>Ngưng Bích mẫu 3</b>


Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là
chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả
cảnh mà cịn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ơng, hai yếu tố
tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cơ đơn, buồn
tủi, là tấm lịng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.


Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới thiệu
cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cơ đơn buồn tủi,
nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và
những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.



Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng
trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô
tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của
nàng lúc này:


<i>Trước lầu Ngưng Bích khố xn</i>


<i>Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung</i>


<i>Bốn bề bát ngát xa trông</i>


<i>Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia</i>


Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt
Kiều. Khơng gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:


<i>Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,</i>


<i>Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.</i>


Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán
ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn
khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như
chia tấm lịng. Bức tranh thiên nhiên khơng khách quan, mà có hồn, đó chính là bức
tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i>Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.</i>



<i>Tin sương luống những rày trơng mai chờ.</i>


<i>Bên trời góc bể bơ vơ,</i>


<i>Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.</i>


Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu!
Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim
đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào
nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành
kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng
vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi
người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ
của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình
đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cơ đơn của mình, và cũng hơn ai
hết, nàng hiểu rằng sẽ khơng bao giờ có thể gột rửa được tấm lịng son sắt, thủy
chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ khơng bao
giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.


Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc
có, quyết đền ba xn, cứu được cha và em thốt khỏi vịng tù tội, nhưng nghĩ về
cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lịng khi nghĩ đến
cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai
là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ,
điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ
nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ,
nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hồn cảnh của Kiều, những suy nghĩ,
tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.


Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh


ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh
vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và
nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của
Kiều được ngịi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng
điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?</i>


<i>Buồn trơng ngọn nước mới sa</i>


<i>Hoa trôi man mác biết là về đâu?</i>


<i>Buồn trông nội cỏ rầu rầu,</i>


<i>Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.</i>


<i>Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,</i>


<i>Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.</i>


Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua
con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi
ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trơng
ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều
mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thống,xa xa khơng rõ, như một ước
vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra
biển, ngọn sóng xơ đẩy cánh hoa phiêu bạt, khơng biết về đâu như thân phận của
mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm
mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một
nỗi kinh hồng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa


thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm
Kiều xuống vực.


Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp
ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử
dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thống, xa xa, man mác, rầu rầu,
ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của
Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9></div>

<!--links-->

×