Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tải Thuyết minh bài thơ Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu - 2 Bài văn mẫu lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.15 KB, 9 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Thuyết minh bài thơ Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu </b>
<b>-Ngữ văn 9</b>


<b>Thuyết minh bài thơ Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu - Bài văn</b>
<b>1</b>


Trương Hán Siêu là một nhân vật lớn đời Trần. Ông tên chữ Lăng Phủ, quê ở
làng Phúc Am, huyện An Khánh, Ninh Bình. Trương Hán Siêu lúc trẻ làm môn
khách của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, tham gia cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên lần thứ hai và thứ ba. Ông làm quan trải qua bốn triều vua
Trần (Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông, Dụ Tông). Trương Hán Siêu là một
người học vấn uyên bác, thông hiểu sâu sắc đạo Nho, đạo Phật, lại giàu lòng
yêu nước và có nhiều cơng lao đối với triều Trần, vì vậy ơng được các vua Trần
tơn kính, xem như bậc thầy.


Tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu non sông đất nước, tự hào về truyền
thống vẻ vang của lịch sử dân tộc, đượm sắc thái trữ tình hồi cổ. Ngơn ngữ
trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành cơng
những hình dung từ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển.
Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn
học yêu nước thời Lí – Trần.


Bài “Phú sơng Bạch Đằng” được sáng tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Nguyên Mông khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi dấu nhiều
chiến công oanh liệt của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của
Ngô Quyền, trận thắng quân Ngun Mơng năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Đã
có rất nhiều nhà thơ viết về con sông lịch sử đầy niềm tự hào này, nhưng bài
“Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. Tác
phẩm được viết theo lối phú cổ thể. Đây là một thể loại văn có nguồn gốc từ
Trung Quốc, viết bằng văn vần hoặc văn xi có xen lẫn văn vần, có nội dung
kể, tả khách quan các sự việc, phong tục, cảnh vật, bàn sự đời.



Mở đầu bài phú, tác giả bày tỏ ước muốn được đi đây, đi đó để thưởng ngoạn
và ngắm vẻ đẹp của quê hương, đất nước.


<i>“Khách có kẻ</i>


<i>Giương buồm giong gió chơi vơi,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Tác giả đã liệt kê một loạt những địa danh nổi tiếng, những thắng cảnh đẹp
được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như: Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ,
Tam Ngơ, Bách Việt… Đây là cách nói ước lệ tượng trưng nhằm bày tỏ niềm
khao khát mãnh liệt được đi du ngoạn nhiều nơi để ngắm cảnh, để cảm nhận vẻ
đẹp của thiên nhiên, đất nước của Trương Hán Siêu.


Ở phần sau, qua lời nhân vật khách, ta lại thấy cảnh sông Bạch Đằng là một
bức tranh sinh động, giản dị:


<i>“Bát ngát sóng kình mn dặm,</i>


<i>Thướt tha đi trĩ một màu</i>


<i>Nước trời một sắc</i>


<i>Phong cảnh ba thu.”</i>


Thông qua những từ láy gợi hình (bát ngát, thướt tha), kết hợp với việc nhắc
đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng. Tg đã gợi cho người đọc vẻ
đẹp hùng vĩ, bát ngát mênh mông của sông Bạch Đằng. Đồng thời tg cũng bày
tỏ được cảm xúc của mình khi đứng trước một nhân chứng lịch sử khi hoài
niệm về quá khứ oanh liệt.



<i>“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá</i>


<i>Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”</i>


Hơn thế nữa, ta còn thấy được hào khí của quân đội trong trận chiến Bạch
Đằng thông qua lời kể của các bô lão thật hào hùng và lớn mạnh qua phần
bình:


<i>“Thuyền bè mn đội,tinh kỳ phấp phới,</i>


<i>Hùng hổ sáu quân,giáo gươm sáng chói.”</i>


<i>…</i>


<i>“Khác nào như khi xưa:</i>


<i>Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Những chiến công vĩ đại của quân ta được kể bằng giọng văn gấp gáp, khẩn
trương, tái hiện được khí thế hào hùng, mang âm hưởng của bản anh hùng ca
tràn đầy niềm tự hào. Lời kể của các bô lão đã nhấn mạnh được chiến thắng vẻ
vang của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.


Tác giả còn đưa ra luận bàn về nguyên nhân của cuộc thắng lợi:


<i>“Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,</i>


<i>Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.”</i>



Các bơ lão đánh giá chiến thắng này có được khơng chỉ nhờ địa thế hiểm trở
mà cịn do có nhiều người tài. Một trong những nhân tài kiệt xuất thời bấy giờ
là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.


Cuối cùng, tác giả kết thúc bài phú bằng lời ca của hai nhân vật khách và các
bô lão. Đầu tiên là lời của các bô lão:


<i>“Sông Đằng 1 dải dài ghê,</i>


<i>Luồng to sóng lớn dồn về biển Đơng.</i>


<i>Những người bất nghĩa tiêu vong,</i>


<i>Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.”</i>


Những lời ca của bô lão cũng khẳng định được một triết lý vững chắc: người
bất nghĩa sẽ bị diệt vong,còn anh hùng thì sẽ được lưu danh mn thuở


Nhân vật khách cũng nối tiếp mà ca ngợi rằng:


<i>“Anh minh hai vị thánh quân,</i>


<i>Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.</i>


<i>Giặc tan mn thuở thăng bình.</i>


<i>Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Với cảm hứng và hoài niệm về quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, “Bạch
Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu đã thể hiện lịng u nước, niềm tự hào


dân tộc trước chiến cơng trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống
anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc Việt
Nam. Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai
trị, vị trí của con người trong lịch sử.


Bạch Đằng giang phú được coi là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn
học trung đại Việt Nam.Tác giả đã vận dụng thủ pháp kể, miêu tả về cảnh sông
Bạch Đằng sinh động, chân thật, giàu chất trữ tình. Đồng thời người đọc còn
cảm nhận được những cảm xúc, những hoài niệm về quá khứ oanh liệt. Bài phú
mang đậm chất sử thi hồnh tráng sử dụng nhiều điển tích, điển cố chọn lọc,
giàu sức gợi,những câu văn ngắn dài, phần cuối xen vào những câu thơ làm nên
âm điệu hào hùng và rất trữ tình cho tác phẩm.


Đây là tác phẩm khơng chỉ nổi tiếng thời Trần mà cịn là một trong những bài
phú viết bằng chữ Hán hay vào bậc nhất nước ta thời trung đại. Bài phú chứa
chan lòng tự hào, cảm hứng ngợi ca dân tộc vừa lắng đọng nỗi đau hồi cổ và
có tư tưởng triết lý sâu sắc. Đọc bài phú người đọc như được sống lại những
năm tháng hào hùng của một thời kì lịch sử, gắn liền với chiến cơng vĩ đại trên
sơng Bạch Đằng, từ đó thêm u mến, tự hào về quê hương đất nước con người
Việt Nam.


<b>Thuyết minh bài thơ Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu - Bài văn</b>
<b>mẫu 2</b>


Nhắc đến triều đại nhà Trần, ta không thể khơng nhắc đến một nhân vật lớn,
nhân vật có tầm ảnh hướng sâu sắc đến nhân dân là Trương Hán Siêu. Ơng là
một người có trình độ học vấn vô cùng sâu rộng, uyên bác, lại trải qua những
bốn đời vua nhà Trần là Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông và cả
hai cuộc chiến chống quân Ngun xâm lược, ơng đã đóng góp rất nhiều cho
nhà Trần, được các vị vua thời này tơn kính như một bậc thầy.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

năm 1342, vào đời vua Trần Dụ Tơng thì ơng giữ chức Tả ty lang trung kiêm
Kinh lược. Vào tháng 11 năm 1353, Trương Hán Siêu xin cáo bệnh về quê
nhưng chưa kịp đến kinh sư thì ơng mất. Sau khi ơng mất, vua đã truy tặng cho
ông các chức danh lần lượt là hàm thái bảo và thái phó. Năm 1972 được thờ tại
Văn miếu Quốc tử giám. Trong suốt cuộc đời của mình, Trương Hán Siêu đã
nhiều lần được giữ những chức vụ quan trọng và đóng góp đáng kể cho đất
nước. Kể cả cho đến khi ơng mất thì vua và các quan trong triều cũng vơ cùng
đau xót, truy tặng cho ông những danh huy chương đáng giá. Đặc biệt, việc
Trương Hán Siêu được thờ tại Văn miếu Quốc tử giám sau khi ông mất cho
thấy sự coi trọng của quân vương đối với ơng. Vai trị của Trương Hán Siêu đối
với đất nước được ví như những bậc hiền triết thời xưa.


Những tác phẩm của Trương Hán Siêu thường là những áng văn bất hủ, thể
hiện tình yêu quê hương, đất nước và lòng tự hào dân tộc. Một trong những nét
điển hình cho phong cách của Trương Hán Siêu là cái nhìn về lịch sử, mang
dấu ấn hồi niệm, hồi cổ nhưng vẫn đầy trữ tình. Và bài Bạch Đằng Giang
Phú (Phú sơng Bạch Đằng) chính là một tác phẩm minh chứng cho điều này.


Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông kết thúc thắng lợi, cuộc
sống tiếp diễn bình thường thì 50 năm sau, Trương Hán Siêu sáng tác bài Phú
sông Bạch Đằng, bài thơ là nỗi niềm hoài niệm của tác giả về một thời kỳ lịch
sử vàng son, chói lọi của dân tộc. Sơng Bạch Đằng là chứng nhân lịch sử, cùng
đồng hành với những sự kiện nổi tiếng như: Chiến thắng quân Nguyên Mông
năm 938 của Ngô Quyền, Chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần
Hưng Đạo. Tác phẩm được viết theo thể phú, một thể văn xuất phát từ Trung
Quốc. Thể loại này thường được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi xen lẫn văn
vần. Nội dung kể về những sự việc khách quan trong cuộc sống, từ những sự
vật, những phong tục, tập quán…. Về nghệ thuật của tác phẩm thì đây là một
trong những tác phẩm tiêu biểu nhất, đỉnh cao nhất của thể loại thơ phú. Bằng


tài năng tả cảnh, bút pháp trữ tình đan xen giọng kể mang tính sử thi của tác
giả, con sơng Bạch Đằng đã hiện lên với những chiến tích lịch sử oanh liệt, hào
hùng. Qua đó mà ta thấy thêm tự hào về lịch sử của dân tộc, đồng thời cũng
cảm nhận được tình u nước, nỗi niềm hồi cổ của tác giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>“Khách có kẻ:</i>
<i>Chèo quế bơi trăng</i>
<i>Buồm mây giong gió</i>
<i>Sớm ngọn Tương kia</i>
<i>Chiều hang Vũ nọ</i>
<i>Vùng vẫy Giang, Hồ</i>
<i>Tiêu dao Ngơ, Sở</i>
<i>Ði cho biết đây</i>
<i>Ði cho biết đó</i>


<i>Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:</i>
<i>Mà cái chí khí tứ phương, vẫn cịn hăm hở</i>


<i>Mới học thói Tử Trường</i>
<i>Bốn bể ngao du</i>


<i>Qua cửa Ðại Thần</i>
<i>Sang bến Ðơng Triều</i>
<i>Ðến sơng Bạch Ðằng</i>
<i>Ðủng đỉnh phiếm chu</i>


<i>Trắng xố sóng kình mn dặm</i>
<i>Xanh rì dặng ác một màu</i>
<i>Nước trời lộn sắc</i>



<i>Phong cảnh vừa thu</i>
<i>Ngàn lau quạnh cõi</i>
<i>Bến lách đìu hiu</i>
<i>Giáo gãy đầy sơng</i>
<i>Cốt khơ đầy gị</i>


<i>Ngậm ngùi đứng lặng</i>
<i>Ngắm cuộc phù du</i>


<i>Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?</i>
<i>Mà đây dấu vết vẫn cịn lưu”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Phần hai nói về những chiến công lịch sử của sông Bạch Đằng được thuật lại
qua lời kể của các bô lão:


<i>“Bên sông bơ lão, hỏi ý ta sở cầu?</i>


<i>Có lẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau,</i>


<i>Vái ta mà thưa rằng:</i>


<i>Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ơ Mã,</i>


<i>Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngơ chúa phá Hoằng Tháo.</i>


<i>Đương khi ấy:</i>


<i>Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới.</i>


<i>Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.</i>



<i>Trận đánh được thua chửa phân,</i>


<i>Chiến lũy bắc nam chống đối.</i>


<i>Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,</i>


<i>Bầu trời đất chừ sắp đổi.</i>


<i>Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,</i>


<i>Những tưởng gieo roi một lần,</i>


<i>Quét sạch Nam bang bốn cõi!</i>


<i>Thế nhưng: Trời cũng chiều người,</i>


<i>Hung đồ hết lối!</i>


<i>Khác nào như khi xưa:</i>


<i>Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,</i>


<i>Trận Hợp Phì Bồ Kiên hồn tồn chết trụi.</i>


<i>Đến nay nước sơng tuy chảy hồi,</i>


<i>Mà nhục qn thù khơng rửa nổi!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Thái độ của các bô lão đối với nhân vật khách thể hiện sự hiếu khách và nhiệt


tình. Họ là những người đại diện cho cả một thế hệ đi trước, những người
chứng kiến các cột mốc chói lọi khi xưa. Những lời kể của các bô lão về trận
đánh làm hiện ra sự thất bại nhục nhã của quân giặc và chiến thắng oanh liệt
của quân dân ta.


Phần 3 là lời nhận xét, bình luận về chiến cơng trên sơng Bạch Đằng:


<i>“Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.</i>


<i>Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,</i>


<i>Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.</i>


<i>Hội nào bằng hội Mạnh Tân: Như vương sư họ Lã,</i>


<i>Trận nào bằng trận Lưu Thủy: Như quốc sĩ họ Hàn.</i>


<i>Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,</i>


<i>Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn.</i>


<i>Tiếng thơm cịn mãi, bia miệng khơng mịn.</i>


<i>Đến bên sơng chừ hổ mặt,</i>


<i>Nhớ người xưa chừ lệ chan.”</i>


Lời bình luận của các bơ lão về những chiến tích lịch sử gợi ra nguyên nhân
thắng lợi của dân tộc. Đó là nhờ vào việc hội tụ đầy đủ các yếu tố từ con người,
thời điểm, hoàn cảnh....



Và phần cuối cùng, tác giả thể hiện sự ca ngợi con người với những chiến công
và tầm vóc của họ:


<i>“Rồi vừa đi vừa ca rằng:</i>


<i>Sơng Đằng một giải dài ghê,</i>


<i>Luồng to sóng lớn dồn về bể Đơng.</i>


<i>Những người bất nghĩa tiêu vong,</i>


<i>Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Anh minh hai vị Thánh quân,</i>


<i>Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.</i>


<i>Giặc tan muôn thủa thanh bình,</i>


<i>Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”</i>


Lời khẳng định của tác giả cho thấy đường lối tài tình của nhà Trần. Tác giả
khẳng định vai trị to lớn của con người trong cuộc chiến, thể hiện niềm tự hào,
lời ngợi ca của dân tộc đối với những con người trong lịch sử, họ đã dựng nước
và giữ nước bằng cả tấm lịng u q hương của mình.


Tác phẩm Phú sơng Bạch Đằng khơng chỉ có ý nghĩa và giá trị đối với riêng
nhà Trần. Nó cịn có ý nghĩa và giá trị đối với nền văn học trung đại Việt Nam
và xa hơn là còn được lưu giữ đến tận hiện tại. Qua đó thấy được tài năng của


tác giả và thêm hiểu biết về lịch sử của đất nước ta. Đọc tác phẩm, ta thấy trân
trọng những giá trị mà người xưa để lại, từ đó mà không ngừng nỗ lực cống
hiến cho đất nước để đất nước ngày càng phát triển, vươn xa ra thế giới.


</div>

<!--links-->

×