Tải bản đầy đủ (.docx) (268 trang)

xây dựng bài tập tự nhiên và xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp ba

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.93 MB, 268 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Phương Anh

XÂY DỰNG BÀI TẬP TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
HỖ TRỢ RÈN KĨ NĂNG ĐỌC, VIẾT CHO
HỌC SINH LỚP BA

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


Kett--noii..com kho taiti lieuli2 mieni phii
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phạm Phương Anh

XÂY DỰNG BÀI TẬP TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
HỖ TRỢ RÈN KĨ NĂNG ĐỌC, VIẾT CHO
HỌC SINH LỚP BA
Chuyên ngành:

Giáo dục học (Tiểu học)

Mã số:


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ LY KHA

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014


3

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Cùng với nghe và nói, đọc và viết là những kĩ năng ngơn ngữ cần được chú ý
rèn luyện, phát triển trong mọi hoạt động của con người. Vì thế, việc rèn luyện hai kĩ
năng này ngay từ cấp Tiểu học nói chung và lớp Ba nói riêng là rất quan trọng. Đề cập
đến nhiệm vụ rèn các kĩ năng ngơn ngữ nói chung và kĩ năng đọc, viết nói riêng, trong
chương trình giáo dục bậc Tiểu học, đây là nhiệm vụ chính của mơn Tiếng Việt, mơn
học có tính thực hành, ứng dụng và tích hợp cao.
Bàn về vấn đề dạy học tích hợp, có thể nói, trong thời đại ngày nay, đây là xu
thế ngày càng thiết yếu của quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh (HS). Đặc biệt,
đây cũng là một trong những quan điểm chỉ đạo việc xây dựng chương trình giáo dục
phổ thơng Việt Nam sau năm 2015 trên cơ sở tăng cường tích hợp để hình thành năng
lực tổng hợp và giải quyết vấn đề cho HS. Để việc tích hợp đạt hiệu quả cao, sự phối
hợp đồng bộ giữa chương trình các mơn học, các tài liệu dạy học, sự vận dụng linh
hoạt các phương pháp tích hợp là rất quan trọng. Như vậy, có thể thấy rằng, việc xây
dựng chương trình tích hợp, xây dựng tài liệu dạy học dựa trên nền tảng của một
chương trình tích hợp nhằm tăng cường năng lực liên môn cho HS, tạo điều kiện cho
các em phát triển kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng sáng tạo là một
việc làm quan trọng và cấp thiết.

Ở bậc tiểu học, cùng với các môn học khác, chương trình, sách giáo khoa

(SGK) mơn Tự nhiên và Xã hội (TN&XH) cũng được cấu trúc theo quan điểm tích
hợp, thể hiện trên ba phương diện: tích hợp kiến thức tự nhiên và xã hội; tích hợp
phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học; tích hợp trong việc hình thành
và phát triển các kĩ năng khác nhau cho HS tiểu học. Đồng hành với sách giáo khoa,
vở bài tập Tự nhiên và Xã hội (VBTTN&XH) là nguồn tài liệu phù hợp nhằm giúp HS
thực hiện các hoạt động học tập độc lập và đa dạng trong các tiết học để rèn luyện các
kĩ năng học tập, thực hành, củng cố và khắc sâu kiến thức. Xét trên bình diện chung về
chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt được, SGK và VBTTN&XH đã chuyển tải khá tốt nội


Kett--noii..com kho taiti lieuli4 mieni phii
dung kiến thức và giúp HS phát triển năng lực bản thân thông qua việc học tập mơn
TN&XH. Tuy nhiên, nếu xét trên bình diện rèn luyện kĩ năng ngơn ngữ - nhiệm vụ
chính của môn Tiếng Việt, mà cụ thể hơn, đề tài này xin xét đến kĩ năng đọc, kĩ năng
viết, VBTTN&XH vẫn chưa được thiết kế trên cơ sở chú trọng tích hợp rèn luyện thêm
hai kĩ năng này nhằm phối hợp với mơn Tiếng Việt trong việc hình thành, phát triển kĩ
năng ngơn ngữ cho HS.
Như đã đề cập phía trên, trong chương trình học tập cấp Tiểu học, mơn Tiếng
Việt giữ vai trị chủ yếu nhất đối với việc hình thành, phát triển kĩ năng ngơn ngữ cho
trẻ. Chương trình Tiếng Việt lớp Ba là giai đoạn “chuyển mình” quan trọng nhằm củng
cố cho HS những kiến thức, kĩ năng ngôn ngữ đã học ở lớp 1, 2 (giai đoạn HS tư duy
trực quan hình ảnh) và trang bị những kiến thức, kĩ năng cao hơn, cần thiết cho việc
học tập Tiếng Việt ở lớp 4, 5 (giai đoạn HS tư duy trực quan trừu tượng). Vì thế, có thể
nói nhiệm vụ của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp Ba nói riêng là
khơng hề nhẹ. Tuy vậy, những nhà giáo dục, nhà sư phạm không nên xem đây chỉ là
nhiệm vụ của riêng môn Tiếng Việt mà cần xem nó như một nhiệm vụ không thể tách
rời các môn học khác mà TN&XH là một ví dụ. Do đó, nếu thực hiện được việc tích
hợp kĩ năng đọc, viết thơng qua hệ thống bài tập mơn TN&XH ngay trong giai đoạn

này thì trẻ sẽ có một tiền đề thuận lợi cho việc phát triển kĩ năng đọc, viết sau này.
Theo tìm hiểu của người thực hiện, các nghiên cứu ở Việt Nam về tích hợp
trong mơn TN&XH chủ yếu nêu lên quan điểm tích hợp và việc vận dụng nó trong vấn
đề xây dựng chương trình theo hướng: tích hợp kiến thức của một số ngành khoa học,
tích hợp bồi dưỡng kĩ năng sống, tư tưởng, lối sống đạo đức cho trẻ vào chương trình
mơn TN&XH, chứ chưa tìm hiểu việc tích hợp rèn các kĩ năng ngôn ngữ thông qua hệ
thống bài tập. Trong khi đó, trên thế giới, vấn đề này được đề cập khá nhiều. Tuy
nhiên, hầu hết các tài liệu, cơng trình lại tập trung nghiên cứu việc tích hợp rèn kĩ năng
đọc, viết cho trẻ thông qua môn “Science

(1)

(1)

” ở các lớp 4, 5 và các lớp cao hơn.

Trên thế giới, thuật ngữ “Science” được dùng để gọi các môn Khoa học cho tất cả các lớp. Tại Việt Nam, mơn
“Science” có tên là mơn Tự nhiên và Xã hội (đối với lớp 1, 2, 3); Khoa học, Lịch sử và Địa Lý (đối với lớp 4, 5).


5

Chương trình “Science A - Z” () chỉ tập trung thiết kế các
bài tập khoa học giới hạn trong bốn chủ đề nhỏ “Đời sống, Trái Đất, Vật lý, Tiến trình”
(Life, Earth, Physical, Process). Chương trình Hạt giống Khoa học/ Gốc rễ của việc
đọc (Seeds of Science/Roots of Reading) cung cấp các hoạt động học tập khoa học đa
dạng trong mục đích phát triển đồng thời kĩ năng đọc, viết và kĩ năng khoa học; tuy
nhiên, số lượng bài học ở đây chỉ giới hạn trong một vài bài cụ thể và chia theo các
nhóm lớp (nhóm lớp 2 - 3, nhóm lớp 3 - 4, nhóm lớp 4 - 5), thiếu sự phân hóa thành
một lớp cụ thể. Hơn nữa, do đặc trưng ngơn ngữ, văn hóa, cấu trúc chương trình mơn

học, việc áp dụng các bài tập này vào chương trình giáo dục mơn TN&XH3 ở Việt
Nam có sự chênh lệch và khó khăn rất lớn. Như vậy, có thể nói, hệ thống bài tập
TN&XH tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ.
Xuất phát từ thực tiễn trên; đồng thời, với mong muốn tìm hiểu về quan điểm
tích hợp nói chung và việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết thông qua hệ thống bài tập
TN&XH lớp Ba nói riêng, đón đầu xu hướng đổi mới chương trình và sách giáo khoa
theo định hướng phát triển năng lực sau 2015, để tìm kiếm, tham khảo, xây dựng và
thử nghiệm các bài tập phù hợp góp phần rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba, chúng
tôi chọn đề tài “Xây dựng bài tập Tự nhiên và Xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết
cho học sinh lớp Ba” nhằm tìm hiểu và xây dựng hệ thống bài tập TN&XH3 theo
hướng tích hợp và chứng minh giả định bài tập TN&XH3 được thiết kế theo dạng tích
hợp sẽ là một nguồn tài liệu hiệu quả trong việc hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS
lớp Ba.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Ngày nay, tích hợp trở thành xu thế tất yếu trên thế giới ở mọi lĩnh vực mà giáo
dục là một yếu tố trong đó. Nói đến tích hợp trong giáo dục, các nhà nghiên cứu và
những người quan tâm có thể tìm thấy những thông tin chi tiết về vấn đề này ở tất cả
các khía cạnh: định nghĩa, nguyên nhân, cách tiếp cận, lợi ích của việc tích hợp trong

Vì vậy, để tránh bị nhầm lẫn, chúng tôi vẫn giữ nguyên thuật ngữ “Science” khi đề cập đến mơn học này trong
khi trình bày các nghiên cứu của thế giới về vấn đề liên quan đến đề tài.


Kett--noii..com kho taiti lieuli6 mieni phii
giáo dục về mặt thiết kế chương trình cũng như phương pháp dạy học ở nhiều tài liệu
và nghiên cứu của các chuyên gia, nhà giáo dục như Fan (2004), Drake & Burns
(2004), Đào Thị Hồng (2005), Cao Văn Sâm (2006), Hoàng Thị Tuyết (2012). Ngồi
ra, khi xét đến các mức độ tích hợp trong giáo dục, các tác giả Drake & Burns (2004),
Hoàng Thị Tuyết (2012) cũng trình bày ba hướng tiếp cận tích hợp và các phương án

khác nhau để tạo nên một chương trình tích hợp đa mơn, tích hợp liên mơn và tích hợp
xun mơn. Chính sự đa dạng về các nguồn tài liệu tích hợp trong giáo dục giúp cho
người đọc có một cái nhìn đa chiều, thuận lợi cho việc lựa chọn các hướng tiếp cận xu
hướng dạy học tích hợp trong phạm vi mà người đọc quan tâm. [1, tr.27, 28], [5], [6],
[7], [9, tr. 13 - 24], [10], [18], [19].
Nằm trong hệ thống giáo dục của các quốc gia trên thế giới, việc dạy tiếng cũng
đã, đang được thực hiện theo xu hướng tích hợp với nhiều hình thức khác nhau. Và
“Language Arts

(2)

” được nhiều nơi lựa chọn, sử dụng linh hoạt như một mơ hình tích

hợp đem lại hiệu quả cao cho việc dạy tiếng. Trong “Language Arts”, ở một góc độ
tiếp cận, kĩ năng ngơn ngữ được tích hợp vào các mơn học khác. Điều này tạo điều
kiện cho HS phát triển các kĩ năng ngôn ngữ trong sự tương tác với các kiến thức khoa
học, xã hội đa dạng nhằm phát triển kĩ năng sống và khả năng tư duy, giao tiếp của các
em. Các tài liệu và nghiên cứu của Joyce, Malicky (1996), Cox (2007), O'Shaughnessy
(2001), Mildred (2008) nêu lên cái nhìn chung nhất về mơ hình “Language Arts” từ
định nghĩa, đặc điểm đến cách thức và phương pháp thực hiện. Thực hiện theo mơ
hình này, nhiều trang web, mà điển hình là trang , mục
“Online Language Arts Curriculum” (Chương trình “Language Arts” trực tuyến) cũng
tập trung vào việc cung cấp các bài học đa phương tiện nhằm giảng dạy, củng cố, phát
triển kiến thức về ngữ âm, độ trôi chảy, ngữ pháp, chính tả, từ vựng, đọc hiểu, ... Bên
cạnh đó, mục “Language Arts Games” (Trò chơi “Language Arts”) của các trang web

(2)

“Language Arts” là một thuật ngữ được hiểu trên 3 lĩnh vực: (1) các kĩ năng ngôn ngữ; (2) một mơn học


trong chương trình (liên quan đến các kĩ năng diễn đạt ý tưởng theo hình thức ngơn ngữ nói hoặc viết cũng như
các kĩ năng hiểu ý tưởng của người nói hay người viết); các lĩnh vực của chương trình giáo dục ngơn ngữ của
nhà trường.


7

,

,

, còn cung cấp các trò chơi
đa dạng nhằm “mềm hóa” việc học tập ngơn ngữ của trẻ. Đặc biệt, trong phạm vi của
đề tài, Jerine (2010) cho thấy tầm quan trọng của việc tích hợp giảng dạy ngơn ngữ
trong mơn “Science” và phác họa những khó khăn, thách thức mà giáo viên (GV) có
thể gặp phải khi áp dụng hướng tích hợp này thơng qua việc sử dụng vở bài tập khoa
học vào giảng dạy. [17], [28], [30], [39], [45], [60]
Ngoài ra, khi đề cập đến việc phát triển kĩ năng đọc, viết ở HS, các tài liệu và
một số trang web cũng chỉ ra các yếu tố có liên quan đến việc đọc, viết (kiến thức ngữ
âm, từ vựng; kĩ năng giải mã, tốc độ đọc, kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng diễn đạt, …) và đề
nghị một số cách thức cũng như trò chơi để phát triển các yếu tố này. [9], [11], [12],
[13], [25], [34], [37]
Bàn về vai trị của việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết vào chương trình
“Science”, thuật ngữ “science literacy” (đọc viết khoa học) khá quen thuộc với các nhà
giáo dục trên thế giới. Các nghiên cứu của Krupp(1994); Bowers (2000); Willoughby
(2005); Shin, Rueda, Simpkins, Lim (2009); Jerine (2010); Chen (2011); Sharrio
(2011); Sessoms (2012) cho thấy lý do và tầm quan trọng của việc tích hợp rèn kĩ năng
đọc, viết trong dạy học môn “Science” dựa trên việc so sánh tương quan các kĩ năng
trong học tập khoa học và các kĩ năng liên quan đến việc đọc, viết. Không dừng lại ở
đó, các tài liệu nêu trên cịn gợi ý một số cách để tích hợp việc dạy kĩ năng đọc, viết

thông qua môn học này mà một trong số đó là xây dựng các hình thức bài tập phù hợp
cho cả hai yêu cầu: kiểm tra kiến thức khoa học và tạo môi trường để trẻ phát triển kĩ
năng đọc, viết, … Cụ thể, trong nghiên cứu của mình, tác giả Sessoms (2012) cho thấy
ý nghĩa của việc sử dụng các các hình thức văn bản đa dạng (thơ, văn, truyện, thơng

báo, áp phích, ...) trong mục tiêu phát triển kĩ năng đọc, viết cho trẻ thông qua chương
trình mơn “Science” [50, tr.13, 14]. Mặt khác, Stewart (2010) còn nhấn mạnh việc sử
dụng các tài liệu học tập mơn “Science” trong nhiều cách thức khác nhau: chương
trình “Cùng đọc sách”, chương trình “Đọc kịch bản”, kết nối kết nối sách hư cấu và
phi hư cấu. Đặc biệt, Bowers (2000) trình bày hai hướng để phát triển một bài học tích


Kett--noii..com kho taiti lieuli8 mieni phii
hợp. Đó là bắt đầu bằng một văn bản bên ngồi và tìm kiếm nội dung khoa học trong văn
bản hoặc bắt đầu với nội dung khoa học và tìm kiếm tài liệu tương ứng với chủ đề. Mặt
khác, các nghiên cứu này cũng cho thấy vai trò của các yếu tố thuộc đồ họa, vai trị của
việc dạy học đa phương tiện, đa hình thức, … đối với việc phát triển kĩ năng đọc viết khoa
học của HS. Bên cạnh những vấn đề như các tài liệu trên đã nêu, đáng lưu ý phải kể đến
tài liệu do Colluns Educational xuất bản (1998), tài liệu của Glynn, S., Muth, K. (1994),.
Các tác giả của hai tài liệu này xác định rằng HS có thể nắm được các khái niệm khoa học
và mối quan hệ giữa chúng bằng cách đọc, viết các dạng văn bản khác nhau có liên quan
đến khoa học (các câu chuyện, bài báo về sự phát triển, tiến bộ trong khoa học và công
nghệ; các loại tài liệu tham khảo khác nhau có chủ đề khoa học; tiểu sử của các nhà khoa
học; các tác phẩm văn chương của các nhà khoa học, ...). Nhờ cách thức này, tư duy phê
phán và kĩ năng tổng hợp vấn đề, kĩ năng tìm ý, lập dàn ý và kĩ năng diễn đạt của trẻ sẽ
phát triển. Qua đó, tác giả giới thiệu một số mơ hình và cách thức để tích hợp rèn luyện kĩ
năng đọc, viết thông qua học tập khoa học. Đó là các chiến lược SQ4R
MURDER

(4)


(Dansereau, 1985) chiến lược Dạy học tương hỗ

(5)

(3)

, chiến lược

(Palincsar, 1986), chiến

lược DARTs (Direct activities related to texts - Các hoạt động định hướng có liên quan
đến văn bản). Đặc biệt, tài liệu của Collins Educational (1998) cịn trình bày các bước để
phát triển kĩ năng viết của HS theo tiến trình: làm quen với nhiều dạng văn bản khác nhau



chia sẻ cùng

(3)

Chiến lược SQ4R: S (Survey - khảo sát): Xem trước văn bản, sử dụng các tiêu đề và mục lục, hướng dẫn nội

dung; Q (Question - câu hỏi): Xây dựng các câu hỏi về nội dung văn bản; R (Read - đọc): Đọc văn bản, sử dụng
các câu hỏi và hướng dẫn; R (Reflect - phản ánh, đối chiếu): Xem xét những gì đã đọc, nội dung văn bản liên
quan đến kiến thức cơ bản; R (Recite - kể lại): Xem xét những gì đã được đọc, nội dung văn bản liên quan đến
kiến thức; R (Review - xem lại): Tổ chức thông tin của văn bản, đọc lại những nội dung khó.
(4) Chiến lược MURDER: M (Mood - Lối) : lập kế hoạch cho việc học văn bản, theo dõi sự chú ý; U
(Understanding - Hiểu): xác định nội dung văn bản khó và quan trọng; R (Recall - Gợi nhớ): Diễn giải ý tưởng
của văn bản và lập sơ đồ cho những nội dung quan trọng; D (Digest - Phân loại, sắp đặt có hệ thống): Phản ánh,

xác định các ý tưởng quan trọng và những phần khó hiểu; E (Expand - Mở rộng): Hỏi để biết cách áp dụng các
thông tin trong văn bản; R (Review - Xem lại): Phân tích lỗi trong bài kiểm tra.

(5) Chiến lược dạy học tương hỗ: Tóm tắt ý chính của văn bản, xây dựng câu hỏi để tổng kế văn bản, lọc ra
những nội dung có thể gây nhiễu trong văn bản; dự đốn thơng tin sẽ xuất hiện trong văn bản tiếp theo.


9



nhau cấu trúc của văn bản sẽ viết cung cấp các khung viết mẫu để HS có định hướng

và học tập cách tư duy, tổng hợp, phân tích và triển khai vấn đề viết độc lập. [22, tr.
1057 - 1069], [42, tr. 7 - 18]
Cũng với tinh thần dạy học khoa học theo hướng tích hợp, trang web
và chương trình Hạt giống Khoa học/ Gốc rễ của việc đọc
(Seeds of Science/Roots of Reading) ( thiết kế các
hoạt động học tập trong mục đích tích hợp dạy khoa học và kĩ năng ngôn ngữ. Thông
qua các nguồn tài liệu phong phú như truyện khoa học có hình ảnh minh họa, các bài
đọc nhanh, các bài tập thơng qua hình thức trò chơi, trang web giúp HS tiếp cận kiến
thức khoa học một cách nhẹ nhàng; đồng thời tạo cơ hội cho các em phát triển kĩ năng
ngơn ngữ nói chung, và kĩ năng đọc, viết nói riêng. Đặc biệt, chương trình Hạt giống
Khoa học/ Gốc rễ của việc đọc (Seeds of Science/Roots of Reading)
( cung cấp các hoạt động thực hành khoa học tích
hợp. Thơng qua bốn hoạt động Làm - Nói - Đọc - Viết trong suốt q trình học tập, HS
được tạo cơ hội gắn kết với các khái niệm khoa học và phát triển kĩ năng đọc, viết,
thảo luận. Trong chương trình này, các chủ đề theo khối lớp (từ lớp 2 đến lớp 5) bao
gồm nhiều bài học khác nhau và mỗi bài học đều có mục tiêu rõ ràng về mặt kiến thức
khoa học, kĩ năng đọc, kĩ năng viết, kĩ năng nghe, nói cũng như có hướng dẫn cụ thể

về các bước cần thực hiện. Do đó, có thể nói, chương trình Hạt giống Khoa học/ Gốc
rễ của việc đọc là một người bạn đồng hành cho những người quan tâm đến mảng tích
hợp giữa khoa học và kĩ năng đọc, kĩ năng viết ở đối tượng HS lớp 2 - 5.
Như vậy, về việc thiết kế các bài tập khoa học tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng đọc
viết, tác giả đề tài chưa tìm thấy các tài liệu của nước ngồi và Việt Nam nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề này, nhưng trong những đề tài về giải pháp tích hợp phát triển kĩ
năng đọc, viết thông qua môn “Science”, các nghiên cứu có đề cập đến cách thức xây
dựng các bài tập này với các hướng: đa dạng ngữ liệu học tập, phương tiện dạy học với
các hình thức phong phú (thơ, văn, truyện, thơng báo, áp phích, ...); sử dụng các hình
thức đồ họa (tranh ảnh minh họa, biểu đồ, …), các khung viết mẫu, trò chơi mở rộng
vốn từ để phát triển khả năng diễn đạt, kĩ năng tư duy, kĩ năng phân tích - tổng hợp của


Kett--noii..com kho taiti lieuli10 mieni phii
HS trên cơ sở của việc học tập thực hành, tương tác.
Khía cạnh đánh giá kĩ năng đọc viết khoa học cũng là một vấn đề mà nhiều tổ
chức giáo dục và những nhà nghiên cứu quan tâm. Các nghiên cứu của Chương trình
đánh giá quốc gia Úc (2012), tổ chức PISA (2000), Cox (2007) trình bày các yếu tố
cần đánh giá trong vấn đề này (kiến thức, khái niệm khoa học; kĩ năng khoa học; kĩ
năng áp dụng các hiểu biết, kĩ năng khoa học vào hồn cảnh xác định, ...), mục đích và
nhiệm vụ đánh giá. Đồng thời, các nghiên cứu cũng cung cấp các hướng dẫn cụ thể
cho việc đánh giá và giới thiệu các mẫu bài kiểm tra. Qua đó, người đọc sẽ có một cái
nhìn cụ thể hơn về đọc viết khoa học và nắm rõ việc đánh giá khả năng này ở trẻ. [14],
[17], [46]
Có thể thấy rằng, việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết qua mơn “Science” là xu
hướng rất phổ biến trên thế giới, nhưng vẫn chưa được tập trung nghiên cứu nhiều ở
Việt Nam. Tại Việt Nam, các nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở các vấn đề tích hợp
trong dạy học nói chung (khái niệm, định nghĩa, cách tiếp cận, cách xây dựng kế hoạch
dạy học theo hướng tích hợp) chứ chưa tìm hiểu về mảng tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng
đọc, viết thông qua môn TN&XH. Trên thế giới, hầu hết các nghiên cứu liên quan

thường đề cập đến các đối tượng HS một cách chung nhất hoặc tập trung nghiên cứu
trên các lớp đối tượng lớp 4, lớp 5 (ở bậc Tiểu học) và các lớp cao hơn với việc phân
tích cách thức tiến hành, tổ chức các hoạt động thực hành, thực nghiệm khoa học để
qua đó, HS thực hành và phát triển đồng thời kiến thức khoa học và kĩ năng đọc viết.
Trong các nghiên cứu này, đối tượng HS lớp 3 chưa được tập trung chú ý cụ thể. Hơn
nữa, các đề tài chủ yếu hướng vào việc nghiên cứu các biện pháp dạy học để rèn luyện
kĩ năng đọc viết khoa học ở HS chứ chưa có đề tài nào đi sâu vào việc xây dựng, phân
tích các bài tập hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba. Chỉ có chương trình Hạt
giống Khoa học/ Nguồn gốc của việc đọc cung cấp một số hoạt động học tập với các
hướng dẫn cụ thể cho đối tượng này. Tuy nhiên, do đặc trưng ngôn ngữ, văn hóa,
chương trình đào tạo, ... việc áp dụng các bài tập môn “Science” trên thế giới vào Việt
Nam có sự chênh lệch nhất định. Như vậy, có thể nói, bài tập TN&XH tích hợp hỗ trợ
rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba vẫn là một vấn đề cịn bỏ ngỏ. Do đó, nếu có thể


11

xây dựng bài tập TN&XH trong mục đích nêu trên thì HS, GV và những người quan
tâm sẽ có thêm một nguồn tài liệu hỗ trợ cho việc phát triển đồng thời kiến thức, kĩ
năng khoa học TN&XH hội và kĩ năng đọc, viết. Đó là mong muốn mà người thực
hiện đề tài “Xây dựng bài tập Tự nhiên và Xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS
lớp Ba” hướng đến.
3. Mục đích nghiên cứu

Xây dựng bài tập TN&XH tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba,
nhằm củng cố, phát triển kiến thức, kĩ năng TN&XH cũng như kĩ năng đọc, viết cho
HS, góp phần đồng hành cùng mơn Tiếng Việt trong việc rèn luyện các kĩ năng ngôn
ngữ cho các em.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu


Để đạt được mục đích đặt ra, người nghiên cứu tiến hành thực hiện các nhiệm
vụ sau:
 Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề tích hợp rèn kĩ năng đọc, kĩ năng viết

thông qua môn TN&XH nói chung và thơng qua các bài tập TN&XH nói riêng, đặc
biệt tìm hiểu các bài tập mơn TN&XH được xây dựng theo hướng tích trên thơng qua
việc nghiên cứu các tài liệu liên quan và phân tích các dạng bài tập này.
 Xây dựng các bài tập TN&XH tích hợp nhằm hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết
cho HS lớp Ba.
 Thực nghiệm các bài tập TN&XH đã xây dựng.
5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

5.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba thông qua môn TN&XH.
5.2. Đối tượng nghiên cứu
Bài tập TN&XH hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba.
6. Giả thuyết nghiên cứu

Hiện nay, VBTTN&XH 3 chưa được thiết kế trên cơ sở chú trọng tích hợp rèn
luyện hai kĩ năng đọc, viết nhằm phối hợp với mơn Tiếng Việt trong việc hình thành,
phát triển kĩ năng ngơn ngữ cho HS. Vì thế, việc xây dựng và sử dụng bài tập TN&XH


Kett--noii..com kho taiti lieuli12 mieni phii
tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết một cách khoa học, hợp lí có thể góp phần quan
trọng vào q trình phát triển đồng thời kiến thức, kĩ năng khoa học, xã hội và kĩ năng
đọc, viết cho HS lớp Ba.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nghiên cứu: Vì điều kiện nghiên cứu hạn chế, đề tài chỉ nghiên cứu


việc xây dựng 17 bài tập TN&XH (tính theo đơn vị bài học) nhằm hỗ trợ việc rèn kĩ
năng đọc, viết cho HS lớp Ba.
- Phạm vi nghiên cứu: Vì điều kiện nghiên cứu hạn chế, chúng tôi chỉ tập trung

khảo sát 294 GV lớp Ba, nhà quản lý trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Bình Dương,
TP.HCM; thực nghiệm 97HS của trường tiểu học LCT2., Hóc Mơn, TP.HCM và
trường tiểu học NTT., Q3, TP.HCM.
8. Phương pháp nghiên cứu

8.1. Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề nghiên cứu, đề tài tập trung tìm lời giải cho các câu hỏi
sau:
 Làm thế nào để xây dựng bài tập TN&XH theo hướng tích hợp hỗ trợ rèn kĩ
năng đọc, viết cho HS lớp Ba.
 Việc sử dụng các bài tập này vào chương trình dạy - học mơn TN&XH được
thực hiện như thế nào?
 Những dạng hoạt động nào có thể được sử dụng để tích hợp nội dung rèn kĩ
năng đọc, viết vào nội dung TN&XH3?
 Các bài tập được xây dựng có tác dụng như thế nào đối với sự hình thành, phát
triển kiến thức, kĩ năng Khoa học và kĩ năng đọc, viết của HS lớp Ba?

8.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành qua việc phối hợp đồng bộ các nhóm phương pháp sau:
 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này được sử dụng để thu thập, nghiên cứu tài liệu trong
nước và ngoài nước về các vấn đề liên quan đến đề tài: kĩ năng đọc, kĩ năng viết; vấn
đề dạy học tích hợp nói chung và dạy học tích hợp ngơn ngữ với khoa học nói riêng,


13


việc xây dựng các bài tập TN&XH theo hướng tích hợp rèn kỹ năng đọc, viết. Sau đó,
người thực hiện tiến hành phân loại các tài liệu đã tìm được thành năm mảng: với năm
mảng chính có liên quan trực tiếp đến đề tài: các tài liệu về dạy học tích hợp nói
chung; tài liệu về đọc viết khoa học; tài liệu về “Language Arts”; tài liệu về kĩ năng
đọc, kĩ năng viết; tài liệu về tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết vào học tập “Science” và
một số biện pháp để thực hiện điều này. Việc làm này được thực hiện giúp người thực
hiện xác lập các căn cứ khoa học và cách thức hợp lý để xây dựng các bài tập TN&XH
theo hướng tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba.
 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát

Trong đề tài, phương pháp quan sát khoa học được sử dụng để thu thập thông
tin về thái độ, khả năng chú ý, sự u thích khi làm bài của HS nhóm thực nghiệm
trong quá trình thử nghiệm bài tập TN&XH hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp
Ba. Mặt khác, việc quan sát này cịn bao hàm cả q trình quan sát hoạt động dạy - học
của cơ và trị trong những tiết học TN&XH có sử dụng các bài tập thử nghiệm.
- Phương pháp điều tra

Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu ý kiến của GV dạy lớp Ba về vấn
đề tích hợp trong chương trình TN&XH; sự cần thiết của việc rèn kĩ năng đọc, viết cho
HS lớp Ba qua mơn TN&XH; thực tế tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp 3 qua
môn TN&XH trong chương trình TN&XH hiện nay; cách thức tích hợp rèn kĩ năng
đọc, viết cho HS lớp Ba qua môn TN&XH.
Theo đó, việc khảo sát được thực hiện từ tháng 1 - tháng 5/2014 trên 294GV
lớp Ba của 35 trường tiểu học trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và TP.HCM.
Khi tiến hành khảo sát, các GV sẽ trả lời phiếu khảo sát gồm 8 câu hỏi về các vấn đề
liên quan. (xin xem phụ lục 1)
- Phương pháp phỏng vấn


Trong đề tài, phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu về vấn đề tích hợp rèn
kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba thông qua các bài tập TN&XH.
Đồng thời, phương pháp này cũng được người nghiên cứu sử dụng để kết hợp


Kett--noii..com kho taiti lieuli14 mieni phii
với phương pháp xin ý kiến chuyên gia về lĩnh vực dạy học TN&XH ở tiểu học. Việc
làm này giúp người nghiên cứu có cái nhìn nhiều chiều về thực tế của việc tích hợp rèn
kỹ năng đọc, viết trong chương trình mơn TN&XH, tầm quan trọng của việc tích hợp
rèn kĩ năng đọc, viết thông qua các bài tập TN&XH cũng như nội dung, cách thức xây
dựng các bài tập TN&XH tích hợp nhằm rèn luyện kĩ năng đọc, viết cho HS. Bên cạnh
đó, việc phỏng vấn cũng được tiến hành để tìm hiểu ý kiến chuyên gia về sản phẩm mà
đề tài đã xây dựng ở các mặt nội dung, các hoạt động sử dụng trong các câu hỏi bài
tập, câu hỏi bài đọc, hình thức thể hiện (màu sắc, kiểu chữ, cỡ chữ), sự phù hợp với đối
tượng học sinh lớp Ba, ... Nhờ đó, người nghiên cứu có những điều chỉnh, cải tiến phù
hợp đối với các bài tập TN&XH đã xây dựng.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học

Thực nghiệm khoa học là phương pháp quan trọng trong đề tài nhằm thực
nghiệm và đưa ra những đánh giá cần thiết về tính hiệu quả của các bài tập TN&XH
mà đề tài đã xây dựng trong việc phát triển đồng thời kiến thức khoa học và kĩ năng
đọc, viết cho HS. Thông qua q trình thực nghiệm, người nghiên cứu có thể thấy
được những ưu điểm, hạn chế của các bài tập đã xây dựng; từ đó, cải tiến, phát huy
những ưu điểm, khắc phục những hạn chế để các bài tập ngày càng hồn thiện hơn.
Q trình thực nghiệm được tiến hành với việc chọn mẫu nghiên cứu là 194HS
ở trường tiểu học LCT2., Hóc Mơn, TP.HCM và trường tiểu học NTT., Q3, TP.HCM.
Việc chọn mẫu nghiên cứu được dựa trên các tiêu chí: các trường được chọn đều chấp
thuận và tạo điều kiện cho người nghiên cứu thực hiện khảo sát và thực nghiệm, HS
được chọn để khảo sát là các em có sự phát triển bình thường về trí tuệ. Bên cạnh
những tiêu chí nêu trên, đề tài thực hiện chọn mẫu bằng cách ngẫu nhiên thuận tiện

nhằm đảm bảo tính đại diện và tin cậy đối với kết quả nghiên cứu. Theo đó, các HS
lớp 3 của hai trường đều tham gia thực hiện bài kiểm tra ban đầu. Dựa trên kết quả bài
kiểm tra này, người nghiên cứu chọn các lớp có kết quả tương đương nhau để làm mẫu
nghiên cứu.
Sau khi tiến hành chọn mẫu, mẫu nghiên cứu của đề tài bao gồm 194HS chia
thành hai nhóm: 97HS ở nhóm thực nghiệm và 97HS ở nhóm đối chứng. Trong đó,


15

mỗi trường đều có một nhóm thực nghiệm (trường TH LCT2., Hóc Mơn, TP.HCM:
48HS; trường TH NTT., Q3, TP.HCM: 49HS) và một nhóm đối chứng (trường TH
LCT2., Hóc Mơn, TP.HCM: 48HS; trường TH NTT., Q3, TP.HCM: 49HS). Điểm cần
lưu ý là HS trong nhóm thực nghiệm hoặc nhóm đối chứng trong một trường sẽ học
cùng một lớp. Sở dĩ chúng tơi khơng chọn ngẫu nhiên theo từng trình độ (Giỏi, Khá,
Trung bình, Yếu) và chia ngẫu nhiên số HS này thành hai nhóm đối chứng và thực
nghiệm sao cho số HS ở từng trình độ của mỗi nhóm là như nhau là vì việc lựa chọn
này có thể gây nên một số vấn đề: Trong cùng một lớp sẽ có em được chọn vào nhóm
thực nghiệm, có em khơng được chọn. Điều này dẫn đến những khó khăn khi đề tài
tiến hành thực nghiệm bài tập ở giai đoạn hai. Mặt khác, điều này tạo nên sự không
công bằng giữa các đối tượng HS vì trong cùng một lớp sẽ có em được chọn, có em
khơng được chọn để tham gia nghiên cứu.
Trong đề tài, việc thực nghiệm được tiến hành qua hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Thu thập, phân tích cơ sở dữ liệu về HS lớp Ba mà nhà trường
cung cấp; tiến hành bài kiểm tra ban đầu để xác định nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm; khảo sát ý kiến của GV và chuyên gia về việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết
thơng qua các bài tập TN&XH; xây dựng và thí điểm các bài tập để đánh giá độ phân
biệt, độ tin cậy, ưu và khuyết điểm của bài tập để đưa ra những lưu ý cần thiết cho việc
xây dựng, cải tiến và thử nghiệm bài tập ở giai đoạn 2.
Giai đoạn 2: Thử nghiệm bài tập trên nhóm thực nghiệm; tiến hành bài kiểm tra

cuối đợt, so sánh kết quả trước và sau thực nghiệm; phỏng vấn chuyên gia, GV và HS
về những bài tập TN&XH mà đề tài đã thiết kế; rút ra các kết luận và đề xuất.
 Nhóm các phương pháp tốn học

Nhóm các phương pháp này giúp chúng tơi thống kê, phân loại, phân tích, so
sánh hệ thống các cứ liệu thực tế để có thể đánh giá, phân tích và rút ra kết luận, một
số đề nghị trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Cụ thể, đề tài tiến hành thu thập thông
tin từ trường TH LCT2., Hóc Mơn, TP.HCM, trường TH NTT., Q3, TP.HCM để có số
liệu ban đầu về HS lớp Ba. Sau đó, kết quả bài kiểm tra khảo sát ban đầu sẽ được
thống kê, đánh giá, so sánh để chọn ra nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Trong


Kett--noii..com kho taiti lieuli16 mieni phii
quá trình thực nghiệm, kết quả thực hiện các bài tập TN&XH được thiết kế theo hướng
tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết của nhóm thực nghiệm cũng như các thông tin thu được
từ việc ghi chép nhật ký thử nghiệm sẽ được ghi chú phân tích. Cuối cùng, kết quả bài
kiểm tra cuối đợt được so sánh với kết quả bài kiểm tra ban đầu, thực hiện phân tích,
so sánh số liệu, đánh giá chi tiết để đưa ra các kết luận và kiến nghị cần thiết.
9. Đóng góp của đề tài

9.1. Đóng góp về mặt lý luận
Đề tài góp phần tìm hiểu vấn đề tích hợp trong giáo dục nói chung và vấn đề
tích hợp rèn kĩ năng đọc viết trong học tập môn khoa học về TN&XH ở cấp Tiểu học,
mà đặc biệt là lớp Ba nói riêng trên thế giới và ở Việt Nam. Mặt khác, đề tài cũng tìm
hiểu việc thể hiện xu hướng tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết trong các tài liệu học tập
môn “Science” lớp Ba trên thế giới và môn TN&XH lớp Ba ở Việt Nam. Qua đó, đề
tài góp phần giúp những người quan tâm có hiểu biết thêm về việc tích hợp trong dạy học TN&XH, việc xây dựng hệ thống bài tập TN&XH theo xu hướng tích hợp phù
hợp với mục đích đề ra.
9.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Đề tài mong muốn tạo nguồn tài liệu học tập TN&XH hỗ trợ cho việc phát triển

kĩ năng đọc, viết của HS lớp Ba. Qua đó, HS được phát triển đồng thời kiến thức, kĩ
năng khoa học, xã hội và kĩ năng đọc, viết để tạo tiền đề cho việc phát triển tư duy, kĩ
năng khoa học và các kĩ năng ngôn ngữ, đón đầu định hướng dạy học phát triển năng
lực của chương trình giáo dục phổ thơng Việt Nam sau 2015
9.3. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương: Chương 1. Cơ sở
lí luận và cơ sở thực tiễn; Chương 2. Bài tập môn Tự nhiên và Xã hội hỗ trợ rèn kĩ
năng đọc, viết cho học sinh lớp Ba; Chương 3. Thực nghiệm bài tập Tự nhiên và Xã
hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp Ba.
Bên cạnh các trang chính văn, luận văn cịn có các trang phụ lục gồm: Phiếu tìm
hiểu quan điểm về việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba qua môn
TN&XH; câu hỏi phỏng vấn; bài kiểm tra TN&XH; bài kiểm tra Tiếng Việt; các bài


17

tập TN&XH theo hướng tích hợp mà đề tài đã xây dựng; bảng kết quả thống kê về độ
tin cậy của các bài tập đã xây dựng; bảng kết quả nhóm đối chứng - nhóm thực nghiệm
trước - sau thực nghiệm; trích nhật ký thực nghiệm; hình ảnh thực nghiệm; v.v...


Kett--noii..com kho taiti lieuli18 mieni phii
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Kĩ năng đọc, kĩ năng viết và một số yếu tố liên quan
1.1.1.1. Kĩ năng đọc
Đọc là hoạt động mà ở đó người thực hiện sử dụng những kiến thức về ngôn
ngữ và hiểu biết liên quan để giải mã ký tự của văn bản viết và truy tìm ý nghĩa của nó
nhằm trao đổi, giao tiếp với người viết, để mở rộng vốn hiểu viết và phát triển nhân
cách cá nhân. [7, tr.86]

Đọc thành thạo là một kĩ năng phức hợp đòi hỏi sự phối hợp và tương tác của
nhiều kĩ năng. Mặc dù khó có thể tách rời các kĩ năng này trong một người đọc thành
thạo trưởng thành, nhưng cũng khơng thể tích hợp chúng hồn tồn trong những giai
đoạn đầu của quá trình học đọc. [7, tr.87]
1.1.1.2. Kĩ năng viết
Viết là một hoạt động mà ở đó người thực hiện thể hiện suy nghĩ của mình bằng
ngơn ngữ viết với việc dùng các hình thức diễn đạt, từ vựng hợp lý. Một người có kĩ
năng viết phải biết dùng từ phù hợp (sự phù hợp bao gồm phù hợp trong ngữ cảnh xác
định, phù hợp ngữ nghĩa và phù hợp với kiểu văn bản nhất định); biết đặt từ, đặt câu
vào vị trí thích hợp trong câu; biết sử dụng kiểu văn bản phù hợp với hoàn cảnh và đối
tượng tiếp nhận văn bản; biết cách diễn đạt để thể hiện trọn vẹn ý chính. [13]
1.1.1.3. Một số yếu tố liên quan đến kĩ năng đọc và kĩ năng viết
Theo nghiên cứu của nhiều tác giả, có nhiều yếu tố liên quan đến kĩ năng đọc và
kĩ năng viết nhưng nổi bật nhất có thể kể đến các yếu tố nền tảng sau đây:
 Ý thức văn bản in (Print awareness)
Ý thức văn bản in là sự hiểu biết rằng những từ ngữ hiển thị trên giấy là có ý

nghĩa và nó có liên quan đến ngơn ngữ nói.
Ý thức văn bản in giúp trẻ biết rằng văn bản nhìn sẽ khác nhau tùy thuộc vào

việc nó được sử dụng như thế nào. Khi trẻ bắt đầu có ý thức về văn bản in, trẻ sẽ nhận
thức được rằng những từ được in trong giấy thực sự là chữ in chứ khơng phải là biểu
tượng hình vẽ. Có thể nói, ý thức văn bản in là một kĩ năng nền tảng quan trọng vì nó


19

giúp cho HS biết rằng văn bản in được sử dụng như thế nào. Các nghiên cứu về phát
triển ngôn ngữ của trẻ cho thấy những trẻ em yếu kém về ý thức văn bản in sẽ khó có
thể trở thành người đọc thành công. [34]

 Khả năng nhận diện từ - giải mã kí tự (Word recognition and Phonics)

Kĩ năng giải mã là hoạt động tạo cơ sở cho việc hiểu nghĩa văn bản và được
nhấn mạnh trong giai đoạn học vần. Kĩ năng này được thực hiện theo cấp độ cấu tạo
của các đơn vị ngôn ngữ: vần, từ, ngữ, câu, đoạn và bài. Trong đó, việc phân tích ngữ
âm được thực hiện ở giai đoạn học vần. Ở giai đoạn sau, HS cần được hướng dẫn rèn
kĩ năng phân tích cấu trúc và kĩ năng phân tích ngữ cảnh. [7, tr.91]
Nhận diện từ là điểm then chốt của quá trình lĩnh hội năng lực đọc. Với tư cách
là một người đọc, HS cần phải có khả năng nhận diện từ. Để đạt được điều này, HS
cần đạt được các điều kiện sau đây:
- HS nhận ra được sự tồn tại của từ ngữ trong bản chữ viết và trong chuỗi lời nói,

hiểu rằng biểu tượng chữ viết được mã hóa thành lời nói.
- HS được ni dưỡng và phát triển thông qua việc nghe đọc và quan sát người

khác đọc.
- HS có ý thức ngữ âm.
- HS hiểu biết về các chữ cái.

Để phát triển kĩ năng nhận diện từ, GV có thể lưu ý một số cách như sau:
- Dạy cho HS tính tương hợp giữa âm và chữ. Bên cạnh đó, HS phải nắm vững

cách kết hợp các chữ cái thành tiếng và cách tách tiếng thành các chữ cái riêng biệt.
- Giúp HS chú ý vào trật tự chuỗi với sự tương hợp âm - chữ; chú ý đến tốc độ

đọc âm, tiếng, từ, câu
- Làm mẫu các âm, từ mới; sửa chữa lỗi kịp thời và tường minh; hướng dẫn HS

đọc các bài luyện đọc từ dễ đến khó.
- Tạo cơ hội cho HS thực hành và luyện tập mỗi ngày dựa trên khả năng và sự ưa

thích của trẻ. [7, tr. 21, 27]
 Vốn từ (Vocabulary)

Từ vựng giữ một vai trò rất quan trọng trong việc đọc và viết vì nếu khơng có


Kett--noii..com kho taiti lieuli20 mieni phii
vốn từ, trẻ sẽ gặp khó khăn trong việc hiểu nội dung mà ngữ liệu muốn truyền tải.
Thêm vào đó, nếu có vốn từ nghèo nàn, trẻ sẽ khó có thể diễn đạt trọn vẹn điều mình
muốn bằng ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết. [34, tr.22]
Bàn về vấn đề vốn từ của HS, có thể nói, vốn từ nhận biết có vai trị rất quan
trọng. Đó là những từ ngữ mà HS có thể nhận ra ngay để đọc mà không cần thời gian
ngừng để suy nghĩ. Vốn từ nhận biết chỉ những từ ngữ mà học sinh có thể nhận ra ngay
để đọc mà không cần thời gian để ngừng và suy nghĩ. Vốn từ nhận biết là những từ
được truy xuất nhanh dựa vào các mơ hình chữ viết được lưu trữ trong trí nhớ hơn là
việc giải mã những mơ hình âm thanh riêng lẻ thể hiện bằng các con chữ. Vốn từ này
được hình thành thơng qua những lần đọc lặp lại một từ nào đó một cách chính xác.
Việc giải mã trôi chảy phụ thuộc vào rất nhiều vào sự phát triển của vốn từ nhận biết.
Vì vậy, vốn từ nhận biết có vai trị quan trọng đối với quá trình phát triển năng lực đọc
của học sinh, giúp các em có thể nhận ra, hiểu và đọc lớn được các từ ngữ ấy ngay lập
tức trong văn bản. Nói cách khác, đây là yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng đến khả
năng nhận diện từ của HS. [7, tr. 90, 91]
Khi dạy từ vựng cho HS, GV cần lưu ý một số vấn đề sau đây:
- Dạy từ vựng vừa theo cách trực tiếp, vừa theo cách gián tiếp: GV cung cấp định
nghĩa chính xác và đưa ra các ví dụ về từ đó để HS học từ hoặc có thể dạy từ thơng
qua việc cho HS làm quen với từ điển hoặc cho từ xuất hiện trong các ngữ cảnh khác
nhau để các em có thể đốn được nghĩa của từ khơng quen thuộc.
- Dạy từ ngữ trên cơ sở đặt từ trong nhiều ngữ cảnh khác nhau: trong những ngữ
cảnh khác nhau, việc sử dụng từ ngữ cũng sẽ khác nhau. Do đó, GV cần lựa chọn ngữ
liệu lựa chọn phù hợp với các ngữ cảnh để đưa các từ vựng cần thiết vào và hướng dẫn

HS nắm nghĩa, cách sử dụng các từ ngữ này.
- Tạo điều kiện cho HS làm việc với từ mới bằng nhiều con đường khác nhau:
Đặt từ mới trong một câu: Đây là cách để củng cố và kiểm tra khả năng



nắm
nghĩa của từ của HS. Việc kết nối từ mới với kinh nghiệm cá nhân hoặc kiến thức cơ
bản là một cách để HS có thể hồn thành nhiệm vụ này.
Ví dụ: Cha mẹ dẫn tơi đi “đại dương” lần đầu tiên.



Sai


21



Nối định nghĩa với từ mới: Hoạt động này có thể được thay đổi để tạo

thành một trò chơi vui cho HS. Các định nghĩa được HS ghi ra có thể được sử dụng
cho rất nhiều hoạt động.


Sử dụng từ mới trong nhiều ngữ cảnh khác nhau: HS sẽ tiếp nhận và làm

quen với một từ mới trong một ngữ cảnh nhất định. Sau đó, GV cần mở rộng và tạo ra
nhiều ngữ cảnh khác nhau để HS có thể rèn luyện và phát triển khả năng hiểu sâu về từ

vựng.


Cung cấp cho HS nhiều cơ hội tiếp cận với từ mới: HS cần phải thấy, nghe,

nhìn, đọc, viết từ mới nhiều lần và trong nhiều ngữ cảnh khác nhau GV cần làm mẫu
cho HS thấy từ mới có thể được sử dụng trong nhiều môn học, nhiều chủ đề khác
nhau.
- Gắn kết một cách tích cực, chủ động từ vựng với việc học: GV cần tổ chức

nhiều hoạt động có liên quan đến việc học tập từ vựng hơn là việc chỉ làm việc một
cách thụ động, nhàm chán trên một vài hoạt động cố định, lặp lại.
- Kết hợp dạy từ mới với những từ đã biết để HS thấy được mối liên hệ, điểm

khác nhay giữa những từ này.
- Dạy từ mới trên cơ sở đặt từ trong câu, đoạn để củng cố và kiểm tra khả năng

nắm nghĩa của từ, khả năng sử dụng từ của HS.



Ví dụ: Cha mẹ dẫn tơi đi “đại dương” lần đầu tiên. Dùng từ khơng phù hợp.
- Có thể củng cố ý nghĩa của từ cho HS bằng hoạt động nối định nghĩa của từ với
từ tương ứng.
- Lựa chọn từ phù hợp và cần thiết để dạy cho HS. Trên thực tế, GV khơng có đủ

thời gian để dạy tất cả từ cho HS. Vì vậy, GV cần phải lựa chọn các từ phù hợp và thật
cần thiết để dạy. Có thể dựa vào một số tiêu chuẩn để lựa chọn từ ngữ cần dạy cho HS:



Xác định từ mà HS không biết



Xác định những từ quan trọng: Từ danh sách các từ mà GV xác định HS

không biết, GV xác định những từ khóa để HS có thể hiểu được ngữ liệu.


Xác định những từ mà HS không có khả năng tự đốn nghĩa một mình: GV

cần loại trừ những từ mà HS có thể xác định nghĩa dựa vào ngữ cảnh hoặc bằng việc
phân


Kett--noii..com kho taiti lieuli22 mieni phii
tích cấu trúc.


Xác định những từ mà HS sẽ gặp thường xuyên: GV cần xác định để

khoanh vùng các từ mà HS sẽ sử dụng thường xuyên. Sự xuất hiện này có thể là ở bên
ngồi mơn học, bên ngồi bài học mà HS sẽ gặp ở các môn học khác, các bài học khác.
Đối với những từ này, GV cần giải thích và đưa ra đa dạng các ví dụ minh họa để đảm
bảo rằng tất cả HS đều hiểu nghĩa của từ này trong nhiều loại ngữ liệu khác nhau. [10],
[32], [25], [34]
 Sự trơi chảy, lưu lốt (Fluency)

Đọc lưu lốt tức là đọc nhanh và đọc một cách tự động. Một người được xem là
đọc lưu lốt khi có khả năng đọc một cách nhanh chóng và chính xác mà khơng cần có

sự nỗ lực nào. Yếu tố này được tạo nên bởi ít nhất ba thành tố chính: tốc độ đọc, độ
chính xác trong nhận diện từ và khả năng đọc diễn cảm. [36, tr.2]
Ngoài những vấn đề trên, nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng đọc lưu
loát là một cầu nối giữa nhận diện mặt chữ, đọc chữ với đọc hiểu. Nói rõ hơn, nếu HS
có khả năng nhận diện từ ngữ tốt, các em có thể đọc các tổ hợp từ mượt mà; từ đó, có
thể nắm được nghĩa của câu, đoạn và nghĩa của toàn bài. Do đó, có thể nói đọc lưu lốt
đóng vai trò là tiền đề, là cơ sở cho đọc hiểu.
 Hiểu (Comprehension)

Đọc hiểu là q trình vận động trí tuệ để làm rõ nghĩa kí tự, nội dung và đích
thơng báo của văn bản. Đọc hiểu còn được gọi là đọc ý thức. Khả năng hiểu nội dung
văn bản thể hiện hiệu quả của hành động đọc thầm. Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy
đọc có ý thức, đọc hiểu.
Một số yếu tố quan trọng cho việc đọc hiểu: độ chính xác và lưu lốt của kĩ
năng đọc từ, ngôn ngữ bằng lời (vốn từ, mức độ hiểu biết khái niệm và thực tế, kiến
thức và chiến lược nhận thức để phát triển kĩ năng đọc hiểu), kĩ năng suy luận, động
lực học tập cũng như sự hứng thú đối với nhiệm vụ được giao và đối với ngữ liệu.
Ở bậc tiểu học, kĩ năng đọc hiểu có thể chia thành hai cấp độ:
- Sơ cấp: HS biết nắm bắt thơng tin với mục đích đã định; hiểu nghĩa hiển ngôn

của văn bản; phát triển một số thao tác tư duy cơ bản như phân tích, tổng hợp, phân


23

loại và khái quát hóa.
- Trung cấp: HS có thể nắm bắt được lớp nghĩa hàm ngôn của văn bản, phát triển

được một số thao tác suy nghĩ cao cấp như suy luận, phán đoán, đánh giá, giải quyết
vấn đề, ...[7, tr. 93 - 95]

Để trở thành một người đọc hiểu tốt, HS cần phải: sử dụng một loạt các chiến
lược đọc hiểu để đọc sâu và phát triển kĩ năng đọc hiểu. Trong đó, hai chiến lược đọc
hiểu phổ biến và hiệu quả cho việc phát triển kĩ năng đọc hiểu ở HS có thể kể đến là:
Sử dụng kiến thức nền và tạo ra câu hỏi.
- Chiến lược sử dụng kiến thức nền: Nhờ vào kiến thức nền, người đọc có thể xây

dựng mối liên hệ giữa những điều mà họ đọc được với những điều mà họ đã biết.
Những người đọc có kiến thức nền yếu kém ở một lĩnh vực cụ thể nào đó thường gặp
một khó khăn nhất định trong việc trả lời các câu hỏi u cầu tổng hợp, phân tích
thơng tin. Điều này xuất phát từ việc người đọc không nhận ra sự mâu thuẫn giữa điều
đọc được và kiến thức nền của các em.
- Chiến lược xây dựng câu hỏi: Việc tạo ra câu hỏi dựa trên ngữ liệu đem lại rất

nhiều lợi ích cho người đọc: Thứ nhất, nó giúp người đọc có thể kiểm sốt việc đọc
hiểu của bản thân. Những người thường tự đặt câu hỏi cho bản thân trong suốt q
trình đọc hoặc sau khi đọc đều có khả năng xác định các vấn đề đọc hiểu sớm hơn và
chính xác hơn hơn những người bình thường. Ngồi ra, việc tự đặt câu hỏi trong khi
đọc giúp HS phát triển kĩ năng đọc hiểu và có khả năng hồi tưởng lại thơng tin tốt hơn;
nhờ đó, các em có thể trả lời các câu hỏi chính xác hơn và xác định ý chính của ngữ
liệu tốt hơn.
Bên cạnh hai chiến lược trên, GV cũng cần chú ý phát triển cho HS các chiến
lược đọc hiểu khác:
- Kiểm soát việc đọc hiểu: Việc này được thực hiện bằng việc người đọc cần chú
ý xem khi nào thì họ bắt đầu không hiểu nghĩa của ngữ liệu mà họ đang đọc. Khi đó,

người đọc cần tóm tắt những điều đã đã đọc bằng từ ngữ của bản thân.
- Hợp tác trong học tập: GV cần chia lớp thành các nhóm nhỏ, cung cấp nhiệm

vụ xác định rõ ràng và đảm bảo các hoạt động này đều gắn kết với từng HS.



Kett--noii..com kho taiti lieuli24 mieni phii
- Nắm bắt chữ viết và các sơ đồ tổ chức ngữ nghĩa (sơ đồ mạng): GV dạy cho HS

cách vẽ các sơ đồ tổ chức ngữ nghĩa để trình bày các ý trong ngữ liệu mà các em đã
đọc để giúp các em ghi nhớ những gì đã đọc.[36, tr.31 - 38]
 Kĩ năng viết tay (Handwriting skill)

Chữ viết tay là một phương tiện để thể hiện ngôn ngữ cá nhân. Đây là một kĩ
năng phức tạp và bao gồm rất nhiều yếu tố liên quan. Trong đó, có thể kể đến một số
yếu tố chính như mơi trường, sự điều khiển vận động tinh, tầm nhìn, nhận thức/khơng
gian, sự tích hợp giữa động cơ và thị giác, bộ nhớ - sự chú ý, cảm xúc.
Kĩ năng viết tay có liên quan mật thiết đến kĩ năng viết vì nếu trẻ có kĩ năng
viết tay tốt, việc thể hiện các ý tưởng bằng ngôn ngữ viết sẽ được thực hiện trơn tru,
hiệu quả hơn. [41]
 Kĩ năng ngữ pháp (Grammartical skill)

Ngữ pháp là việc xem xét các quy tắc chủ yếu trong sử dụng ngơn ngữ. Đó là
những quy tắc chuẩn về văn phạm trong văn nói và văn viết. Bàn về vấn đề này, có thể
nói, nội dung ngữ pháp được xem xét ở hai cấp độ: từ và câu. Ngữ pháp ở cấp độ từ
như danh từ, động từ, cụm từ, cấu tạo từ. Ngữ pháp ở cấp độ câu và ngữ pháp ở cấp độ
ngôn bản như câu, đoạn. [36]
Ngữ pháp là một khía cạnh rất phức tạp và quan trọng của một ngơn ngữ. Và do
đó, việc rèn luyện kĩ năng ngữ pháp là cần thiết để mỗi người có thể nắm rõ ngơn ngữ
đó. Tuy nhiên, bàn về kĩ năng ngữ pháp trong việc phát triển kĩ năng đọc, kĩ năng viết,
nhiều nhà nghiên cứu xác định rằng kĩ năng ngữ pháp trong vấn đề này không phải là
khả năng nhớ tất cả các quy tắc ngữ pháp, mà là khả năng xây dựng được các câu có ý
nghĩa để có thể áp dụng cho việc phát triển kĩ năng đọc, viết. Theo đó, việc hiểu biết
và ý thức ngữ pháp không phải là một thành tố trực tiếp, chủ đạo tạo nên năng lực
ngôn ngữ của cá nhân mà nó chỉ là thành tố có tính hỗ trợ cho năng lực này. Vì thế,

việc dạy học ngữ pháp cần khai thác vai trò hỗ trợ này của hiểu biết ngữ pháp.
Để HS có thể nói, viết đúng, việc dạy học ngữ pháp cần đi theo hướng phát
triển lời nói, phát triển năng lực giao tiếp một cách có kế hoạch và hệ thống:
- Vận dụng kiến thức và kĩ năng phân tích ngữ pháp để tự sữa chữa các bài đã viết.


25

- Sử dụng những bài tập liên phân môn để tạo cơ hội cho HS sử dụng ngôn ngữ.
- Khuyến khích HS thường xun nghe và đọc ngồi SGK để gia tăng cơ hội cho

việc phát triển năng lực nói và viết đúng ngữ pháp một cách tự nhiên.
- Hướng dẫn HS sửa chữa lỗi ngữ pháp bằng cách cho HS khám phá ra ngun

nhân thơng qua việc tự nói lại những gì diễn ra trong suy nghĩ trong khi tạo ra các đơn
vị sai ngữ pháp. [10], [53]
1.1.2. Tổng quan về tích hợp trong giáo dục
1.1.2.1. Tích hợp
Tích hợp (integration) là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực.
"Integration" có gốc từ tiếng Latin (integer) có nghĩa là "whole" (tồn bộ, tồn thể). Đó
là sự phối hợp, xác lập cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở của những bộ
phận riêng lẻ.
Cùng bàn về vấn đề này, Clark (2002) cho rằng “tích hợp là cách tư duy trong
đó các mối liên kết được tìm kiếm; do vậy, tích hợp làm cho việc học chân chính xảy
ra”. Theo quan niệm đó, tích hợp trong giáo dục được xem như một yếu tố tất yếu của
quá trình học tập với việc tìm kiếm các mối liên hệ và kết nối các kiến thức. Nhờ đó,
HS được học tập toàn diện cả về kiến thức, kĩ năng.
Như vậy, trong dạy học, tích hợp có thể được hiểu như là sự liên kết các đối
tượng giảng dạy, học tập trong cùng một kế hoạch hoạt động dạy học để đảm bảo sự
thống nhất, hài hòa, trọn vẹn, của hệ thống dạy học nhằm đạt mục tiêu dạy học tốt

nhất. Hay nói cách khác, tích hợp là sự lồng ghép, sự kết hợp những nội dung các môn
học (hoặc các phân mơn trong một mơn học) theo những khía cạnh khác nhau: tích
hợp nội dung, phương pháp, tích hợp trong đánh giá,... Và cách tiếp cận tìm tịi - khám
phá này khuyến khích học thơng qua q trình tìm kiếm tích cực, sẽ kết hợp hơn là mở
rộng các kiến thức rời rạc. [10]
1.1.2.2. Chương trình tích hợp
Tích hợp chương trình được mơ tả như là một cách tiếp cận để dạy và học dựa
trên cở sở triết học và thực tiễn. Việc tích hợp diễn ra khi các thành phần của chương
trình được kết nối và liên quan một cách có ý nghĩa đến cả HS và GV.


×