Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tải Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu - 5 Bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.78 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu Ngữ văn 11</b>
<b>Dàn ý chi tiết</b>


<b>1. Mở bài</b>


Giới thiệu bài thơ "Chạy giặc".
<b>2. Thân bài</b>


- Hai câu đề:


+ Khung cảnh tan tác khi thực dân Pháp nổ súng xâm chiếm Nam Bộ.
+ Tình cảnh đó diễn ra bất ngờ, nhân dân ta không kịp trở tay.


- Hai câu thực: Cảnh chạy giặc hoảng loạn, tang thương.


- Hai câu luận: Thực dân Pháp tàn bạo, phá hủy không thương tiếc những mảnh
đất trù phú của dân tộc ta.


- Hai câu kết:


+ Nỗi niềm trăn trở của nhà thơ đối với vận mệnh dân tộc.
+ Bày tỏ lòng yêu nước thương dân sâu sắc của tác giả.
<b>3. Kết bài</b>


Cảm nhận về bài thơ "Chạy giặc".
<b>Bài làm</b>


Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một gia đình nhà nho. Khi thực dân Pháp
tiến hành đánh chiếm quê hương,trong thời điểm đó ông đã bị mù nhưng nỗi
đau đớn của một người dân yêu nước chứng kiến cảnh nước mất nhà tan nên
ơng đã hình dung tưởng tượng ra thảm cảnh thê lương ấy.Ông đã vẽ lên bức


tranh đầy máu và nước mắt ở một thời điểm đen tối của dân tộc.Bài thơ "chạy
giặc" là bức tranh hiện thực của những ngày đất nước rơi vào nạn xâm lăng và
đây cũng là một tấm lịng của Nguyễn Đình Chiểu đối với đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>"Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây</i>


<i>Một bàn cờ thế phút sa tay".</i>


Hai câu thơ đã diễn tả hoàn cảnh bi thảm của nhân dân Nam bộ lúc bấy giờ.
Hai câu thơ cho thấy thời gian diễn ra tình ảnh éo le ấy thật nhanh chóng chỉ
chốc lát khi mà bọn tay sai lùng sục khi đi qua khu chợ. Đó là thời điểm mới
tan chợ, đây là một thời điểm khá vắng vẻ hiu quạnh. Không gian lúc này như
đang chìm vào trong vẻ tĩnh mịch lặng lẽ mọi người cịn đang chìm vào trong
giấc ngủ trưa thế nhưng tiếng súng đột ngột khiến cho khung cảnh thanh bình
đó bỗng chốc tan biến vào q khứ và một cảnh tượng chạy giặc kinh hồng và
cực kì đau xót. Đó là nỗi đau cũng là nỗi kinh hoàng của nhân dân thành Gia
Dinh Và cũng là của chính tác giả khi mà cảnh tượng đau thương ấy diễn
ra.Cảnh chiến trận đã bắt đầu "một bàn thế cờ" là hình ảnh ẩn dụ nói về cuộc
chiến và thế giằng co giữa quân triều đình và quân giặc. Ba tiếng "phút sa tay"
thể hiện sự thất thủ của quân triều đình tại thành Gia Định diễn ra q nhanh
chóng. Đằng sau hia câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước
thảm họa về quê hương đất nước mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.
Hai câu tiếp theo là cảnh chạy giặc chạy loạn trong nỗi kinh hoàng của nhân
dân trước thảm cảnh:


<i>Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy</i>


<i>Mất tổ bầy chim dáo dác bay</i>


Nếu viết "Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy" và "Đàn chim mất ổ dáo dát bay" thì ý vị


câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ khơng cịn gì nữa! Cặp từ láy "lơ xơ" và "dáo
dát" gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim
vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy
giặc vô cùng thảm thương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

đảo ngữ lơ xơ, dáo dác lên trước trong trường hợp này làm nổi bật lên trước
mắt người đọc dáng vẻ xơ xác, tan tác của lũ trẻ và bầy chim nhưng cũng khắc
họa được tâm trạng hoang mang và ngơ ngác của chúng. Hai câu tiếp theo là
cảnh tan thương của một vùng đất bị giặc chiếm đóng.


<i>"Bến Nghé của tiền tan nước bọt</i>


<i>Đồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây".</i>


Một vùng đất vốn được coi là trù phú và khá là sầm uất mà bỗng chốc roi vào
cảnh nhà tan cửa nát, một cảnh tượng tan thương. Bến Nghé và Đồng Nai vốn
là một vựa lúa sầm uất trên bến dưới thuyền mà chỉ trong phút chốc đã bị thực
dân Pháp phá tan tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch "tan
bọt nước". Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi
ngút "nhuốm màu mây". Hai hình ảnh so sánh "tan bọt nước" và "nhuốm màu
mây" là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra.
Hai câu cuối bài thơ thể hiện niềm đau đớn lo toan cho số phận của đất nước
dân tộc ta trước cảnh mất nước.


<i>"Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng</i>


<i>Lỡ để dân đen mắc loạn này"</i>


"Trang dẹp loạn" cũng là trang anh hùng hào kiệt. "Rày đâu vắng": hôm nay,
bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan qn


Triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi
người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh
lầm than. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu
đối với nhân dân đang quằn quai với bom đạn giặc.


Bài thơ "Chạy giặc" được viết bằng một thứ ngơn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc
màu sắc Nam bộ. Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp
nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc,
biểu cảm. "Chạy giặc" là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện
đau thương của đất nước ta cuối thế kỷ 19. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc
và cũng là khát vọng độc lập, tự do.


<b>Bài làm 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thể hiện được thái độ căm ghét của Nguyễn Đình Chiểu với thực dân Pháp và
sự đồng cảm sâu sắc đối với nhân dân.


Trong hai câu đề, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện chân thực hoàn khung cảnh
hoảng loạn, tan tác khi nghe tiếng súng xâm lược:


“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”


Tiếng súng nổ ra đột ngột bất ngờ khiến cho khung cảnh huyên náo, nhộn nhịp
của phiên chợ trở nên hoảng loạn đến tột độ, người dân sợ hãi bỏ chạy tạo nên
khung cảnh loạn lạc, rối ren vô cùng căng thẳng. Không gian yên bình của cuộc
sống bị phá vỡ “Một bàn cờ thế phút sa tay”, hình ảnh bàn cờ vừa gợi liên
tưởng đến hình ảnh tả thực về bàn cờ đang chơi dở dang thì bị bỏ dở để gợi tính
chất bất ngờ, dữ dội của tình cảnh. Hơn hết, hình ảnh bàn cờ cịn ẩn dụ cho
cuộc đối kháng giữa quan quân triều đình với quân xâm lược. Tiếng súng rền


trời cũng là báo hiệu cho sự thất thế của qn lính triều đình trong việc bảo vệ
đất nước.


Hai câu thơ thực, Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục miêu tả khung cảnh chạy giặc
trong hoảng hốt, kinh hoàng của người dân:


“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay”


Đảo động từ “bỏ nhà”, “mất ổ” lên đầu câu Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được
hiệu ứng nghệ thuật đặc biệt cho câu thơ khi không chỉ gợi ra tình thế nguy
cấp, trạng thái hoảng sợ đến đáng thương của con người mà còn lên án mạnh
mẽ đối với tội ác của quân giặc. Những đứa trẻ vô tội nghe tiếng súng Tây thì
sợ hãi chạy tốn loạn, đàn chim mất tổ dáo dát bay, tất cả tạo nên một cục diện
rối rắm, tang thương của cuộc sống và thế sự.


“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

đốt làng đốt xóm làm khơng khí tang thương, u ám bao phủ cả bầu trời “nhuốm
màu mây”, đó khơng chỉ là khói đen của những ngơi nhà bị đốt mà cịn là sự u
ám của thế sự, của lòng người trước biến động dữ dội của đất nước.


Hai câu kết, nhà thơ bộc lộ sự trăn trở với vận mệnh đất nước, về số phận
tương lai của những người dân vô tội:


Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này


Trang dẹp loạn là những người anh hùng có thể dẹp bỏ tai họa, bảo vệ cho cuộc


sống của người dân. Mỗi khi đất nước loạn lạc thì những trang anh hùng sẽ
xuất hiện. Thế nhưng trước thế sự rối ren, đa đoan như hiện tại thì trang anh
hùng ở đâu? Triều đình phong kiến, những người tự xưng mẫu nghi thiên hạ lại
là những kẻ hèn nhát, chấp nhận bán nước để đổi lấy sự yên bình cho bản thân.
Câu thơ là lời lên án đối với sự nhu nhược, hèn nhát của triều đình đồng thời
thể hiện khát vọng về một tương lai tương sáng của đất nước.


Chạy giặc là bài ca yêu nước điển hình cho tình u và tấm lịng của Nguyễn
Đình Chiểu cho dân cho nước, bài thơ đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn
hiện thực rõ nét về tình cảnh đất nước trong những năm 1958 – 1959 đồng thời
bộc lộ được tinh thần yêu nước, thương dân của cụ đồ Chiểu.


<b>Bài làm 3</b>


"Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của
ta" (Hồ Chí Minh). Điều ấy khơng chỉ thể hiện trực tiếp qua hành động ra chiến
trường chiến đấu với quân xâm lược mà nó cịn thể hiện qua những vần thơ
căm thù giặc sâu sắc. Bài thơ "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm
tiêu biểu cho lịng u nước của một người con Nam Bộ.


Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh tan tác, bi thương khi thực dân Pháp nổ tiếng
súng đầu tiên báo hiệu cuộc xâm chiếm Nam Bộ:


"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay".


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả lại khung cảnh chợ vẫn đang họp thì tiếng súng
bắt đầu nổ lên khiến ai nấy đều hoảng sợ. Chợ là nơi mọi người bn bán, trao
đổi hàng hóa, là nơi thu hút nhiều người dân. Những đứa trẻ thơ luôn háo hức
chờ đến lúc chợ tan để nhận được thức q giản dị như tấm mía, gói kẹo hay bộ


quần áo từ người bà, người mẹ, người chị mua từ phiên chợ. Vậy mà thực dân
Pháp chọn đúng thời điểm ấy để nổ súng xâm lược. Buổi chợ đang sôi nổi,
đông đúc bỗng tan tác chỉ trong chốc lát. Bao nhiêu niềm háo hức, chờ mong
trên gương mặt của những đứa trẻ thơ cũng khơng cịn nữa. "Bàn cờ thế phút sa
tay" là ẩn dụ cho tình hình thời cuộc nước ta lúc bấy giờ. Cuộc xâm chiếm xảy
ra quá bất ngờ khiến nhân dân ta không kịp trở tay, đối phó. Khi chơi cờ, người
chơi phải suy tính thật kĩ càng, đi những nước cờ một cách cẩn thận nhưng bàn
cờ lúc sa tay là bàn cờ đã rơi vào tình thế bí bách, nếu đi sai một bước thì sẽ
nhận sự thua cuộc về mình. Niềm mong chờ sự chỉ đạo sáng suốt của người
cầm quân đã hoàn toàn lụi tắt khi tiếng súng vang lên. Sự hi vọng của nhà thơ
cũng vì thế mà tan vỡ.


Tiếng súng đột ngột ấy đã phá tan đi khung cảnh n bình, ấm êm vốn có của
mảnh đất Gia Định:


"Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay".


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

thảm của chiến tranh. Bạn đọc có thể hình dung ra những đứa trẻ đang chạy hết
sức mình để tìm được chỗ trú ẩn. Chúng hớt hải, ngơ ngác giữa súng đạn kẻ
thù. Con người, đàn chim sẽ trú ngụ ở đâu khi "bỏ nhà", "mất ổ"? Liệu nơi
chốn nào sẽ là nơi trú ngụ dành cho họ khi quân địch ngày càng mở rộng phạm
vi xâm chiếm? Cuộc sống của họ sẽ ra sao khi khơng có nơi chốn để đi về,
khơng có nghề nghiệp để sinh sống?


Đi sâu vào sự tàn phá của quân địch, Nguyễn Đình Chiểu đã nhắc đến từng địa
danh cụ thể bị quân xâm lược giày xéo:


"Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây".



Bến Nghé, Đồng Nai là hai miền quê trù phú của Nam Bộ cũng chịu sự càn
quét, đốt phá của thực dân Pháp. Bỗng chốc những của cải vật chất của nhân
dân ta bị quân địch cướp bóc hết. Tất cả đã tan thành bọt nước. Nhân dân ta
đau xót nhường nào khi mồ hơi, cơng sức của mình bị kẻ thù xâm chiếm.
Chúng làm náo loạn hết cả không gian và cuộc sống con người, chúng không từ
một thủ đoạn nào để đàn áp nhân dân. Màu của những mái nhà bị đốt đã nhuốm
cả màu mây trời. Không gian ngập chìm trong lửa khói. Có ai chứng kiến cảnh
tượng tang tóc, điêu tàn ấy mà khơng khỏi đau lịng? Ẩn sau hai câu thơ là sự
căm thù giặc vô cùng sâu sắc của tác giả. Tuy không thể trực tiếp ra chiến
trường giết giặc nhưng ơng đã dùng ngịi bút của mình để tấn cơng chúng trên
phương diện tinh thần. Chúng là những kẻ dã man, khơng có lương tâm khi tàn
phá quê hương ta không thương tiếc. Những tội ác của chúng đáng bị tố cáo,
lên án.


Đất nước rơi vào thảm cảnh bi thương mà không thấy những hành động cứu
dân, cứu nước của các trang dẹp loạn:


"Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này".


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

sống. Vậy mà lại bị mắc trong nạn xâm lược, nạn diệt vong của kẻ thù tàn ác.
Dường như cụ Đồ Chiểu đang nghẹn ngào tiếng khóc trước cảnh tượng tan tác,
thê lương ấy. Triều đình đã bỏ mặc dân đen vô tội, không quan tâm đến sự
sống cịn của nhân dân. Câu thơ mang tính chất trách móc nhưng đồng thời
cũng thúc giục tinh thần chiến đấu của những anh hùng xả thân cứu nước. Đó
là lời kêu gọi mọi người hãy dũng cảm đứng lên chiến đấu để chiến thắng kẻ
thù, mang lại cuộc sống ấm no như thuở trước.


Thể thơ thất ngôn bát cú với kết cấu chặt chẽ cùng ngôn từ giản dị nhưng vơ


cùng hàm súc đã thể hiện tấm lịng yêu nước thương dân của nhà thơ mù
Nguyễn Đình Chiểu. Ông đã làm rất tốt nhiệm vụ chiến đấu của mình khi dùng
những vần thơ để chĩa thẳng mũi súng tinh thần vào thực dân Pháp xâm lược.
Ông xứng đáng được coi là "ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc" (Phạm
Văn Đồng).


<b>Bài làm 4</b>


"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.


Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.


Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

“Tiếng súng Tây nổ đúng vào lúc đó,
Bất ngờ, đột ngột, dữ dội vơ cùng."


Súng Tây thời ấy nổ ghê gớm lắm: “súng giặc đất rền". Nghe tiếng súng thì bọn
giặc đã ở ngay bên cạnh. “Vừa nghe" thế mà cả bàn cờ thế đã hỏng "phút sa
tay". Thất bại ập đến nhanh quá. Thời gian ngắn ngủi càng tăng thêm tính chất
đột ngột, bất ngờ, căng thẳng của tình thế. Và vì thế, thay cho cảnh sum họp
đầm ấm là cảnh tượng lộn xộn sẻ nghé tan đàn:


“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay."



Súng vừa nổ, giặc đã ập đến. Người lớn còn chưa kịp đi chợ về hoặc cịn đang
ở ngồi đồng. Cho nên hốt hoảng lũ trẻ dắt díu nhau chạy lơ xơ. Đặt chữ "lơ
xơ" lên trước chữ “chạy” là rất gợi tả. Dường như ta chỉ nhìn thấy sự rã rời, hốt
hoảng sắp kiệt sức của những em bé, rồi sau mới biết là các em chạy. Hình ảnh
so sánh đàn chim mất ổ dáo dát với lũ trẻ bỏ nhà chạy lơ xơ thật là đặc sắc.
Nhưng cũng phải thấy thêm rằng khi giặc đến, chẳng những con người khốn
khổ mà chim muông cũng không được yên ổn. Giặc đến làm đau cả sông núi,
đau cả chim muông, đau cỏ cây.


Tả chạy giặc, một cuộc chạy vội vã, đột ngột không hề được chuẩn bị, chỉ đặc
tả lũ trẻ và bầy chim là rất thành công. Xa hơn cảnh tượng sống động, bối rối,
hốt hoảng, lộn xộn của lũ trẻ và bầy chim là sự mất mát, thiệt hại của cả một
vùng quê rộng lớn:


“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màn mây."


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Nguyền Đình Chiểu cũng phải chạy giặc và ông thấu hiểu sâu sắc những cảnh
đó. Ơng cất lên tiếng hỏi và cũng là lời trách móc phê phán những người có
chức, có quyền, có trách nhiệm của triều đình:


"Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này "


Không phải chỉ là một câu hỏi gay gắt và lời phê phán nghiêm khắc những
trang dẹp loạn của triều đình. Hình như câu thơ cịn là một tiếng khóc nghẹn
tràn đầy nước mắt của con người mù lòa hết lòng yêu nước thương dân mà
khơng thể làm gì cho dân trong cơn loạn lạc.



<b>Bài làm 5</b>


Nguyễn Đình Chiểu được coi là ngôi sao sáng của nền văn học Việt Nam, ông
gắn bó cả cuộc đời mình với sự nghiệp văn chương và ơng đã để lại rất nhiều
sáng tác có giá trị to lớn. Bài thơ “Chạy giặc” tiêu biểu cho những sáng tác của
ơng nói về cuộc chiến đấu của dân tộc ta. Nó có ảnh hưởng to lớn cho người
đọc hôm nay và cả mai sau.


Bài thơ này nói về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, một cuộc kháng
chiến đầy gian khổ khiến cho cuộc sống của nhân dân rơi vào cảnh lầm than.
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một hình tượng thơ và đó là những hình ảnh
chân thực nhất, bộc lộ rõ nét nhất tội ác của quân giặc.


Mở đầu bài thơ là hình ảnh cuộc sống yên bình của nhân dân ta bị phá vỡ do
quân xâm lược. Những hình ảnh vô cùng đau thương mà người dân phải trải
qua:


“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay”


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

lúc tiếng súng vang lên thì mọi thứ đã trở nên xáo trộn, khơng cịn là cuộc sống
bình yên, giản dị như trước nữa. Quân giặc ập đến quá nhanh khiến chi “bàn cờ
thế phút sa tay”, thời gian rất ngắn ngủi càng tăng thêm sự đột ngột, căng
thẳng. Thay vì cảnh sum họp thì đó là sự xôn xáo, nháo nhác, tan đàn sẻ nghé.
Lũ trẻ thì “lơ xơ” bỏ nhà chạy vì người lớn vừa tan chợ chưa về đến nhà. Chữ
“lơ xơ” được tác giả đặt lên trước chữ “chạy” càng làm tăng thêm tính căng
thẳng, dường như ta cảm nhận được sự sợ hãi, hốt hoảng, mệt mỏi của những
đứa trẻ đang bỏ chạy để tìm cho mình nơi ẩn nấp. Đàn chim mất ổ “dáo dát”


bay được ví như lũ trẻ, chúng cũng lạc đàn, mất ổ và mất phương hướng. Lũ
giặc đến làm đau cả núi sông, đau cả chim muông và đặc biệt là đau con người.
Cảnh chạy giặc được miêu tả thật vội vã, đột ngột và không hề có sự chuẩn bị
từ trước. Xa xa là cảnh lũ trẻ xơ xác chạy tìm nơi ẩn náu và hình ảnh đàn chim
mất ổ dáo dát bay là cảnh cả một vùng quê đau thương dưới tiếng súng của
quân xâm lược:


“Bến Nghé của tiền tan bọt nước


Đồng Nai tranh ngói nhuốm màn mây”


Cả một vùng quê rộng lớn bị thiệt hại về tất cả mọi mặt, đó là sự mất mát vơ
cùng to lớn của những người nông dân chân chất. Không chỉ của cải bị mất mà
cịn thiệt hại cả về tính mạng con người. Lũ trẻ lạc cha mẹ tìm chỗ trốn ắt
khơng thể tránh khỏi được sự mất mát đau thương. Ta đã tường thấy hình ảnh
này được tái hiện qua những hình ảnh đau thương: “Đau đớn bấy mẹ già ngồi
khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều. Não nùng thay vợ yếu chạy tìm
chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.


Giặc đến gieo bao tội ác của chúng lên đầu nhân dân khiến cho đời sống của
nhân dân lầm than, đau khổ. Người dân cả một đời côi cút nhằm mong được
hạnh phúc bên gia đình mình những quân xâm lược đã đến và cướp đi sự bình
yên ấy chỉ trong giây lát.


“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

như thế này. Ông đã phải cất lên tiếng “hỏi”, đó khơng chỉ dừng lại ở tiếng hỏi
mà cịn là sự phê phán, trách móc bộ máy nhà nước cấp cao, phê phán triều
đình để cho nhân dân phải lâm vào cảnh khổ cực, đau thương, mất mát về cả


vật chất và tinh thần.


Câu thơ như một tiếng khóc nấc nghẹn ngào của những con người u nước
hết lịng mà trước tình cảnh như thế này khơng biết làm gì hơn để giúp đất
nước giành được độc lập, tự do. Tác giả đặt ra câu hỏi như muốn hỏi rằng liệu
còn bao nhiêu con người phải chịu những cảnh đau thương như thế này nữa, và
liệu có được bao nhiêu người dám đứng lên đấu tranh để dẹp loạn.


</div>

<!--links-->

×