Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận vận dụng tư tưởng hồ chi minh về cán bộ trong công tác đánh giá cán bộ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.38 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Cán bộ là những người có vai trị rất lớn đối với tồn bộ sự nghiệp cách mạng.
Vì vậy, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến cơng tác cán bộ, trong đó có đánh giá cán bộ.
Trên cương vị là người đứng đầu Đảng, Nhà nước, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những sai
lầm, khuyết điểm mà các cấp, các ngành, các cơ quamn, đơn vị có thể mắc phải
trong công tác đánh giá cán bộ. Người đã để lại cho Đảng ta nhiều chỉ dẫn vô cùng
quý báu về cơng tác cán bộ, trong đó có đánh giá cán bộ. Nghiên cứu vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh là một trong những cơ sở giúp cho Đảng ta thực hiện tốt công
tác đánh giá cán bộ hiện nay.
Trong q trình lãnh đạo, Đảng ta ln quan tâm đến nghiên cứu vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt là về cơng tác cán bộ nói chung và cơng tác đánh giá
cán bộ nói riêng. Có thể nói những kết quả đạt được trong công tác đánh giá cán bộ
của Đảng cũng chính là kết quả của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời
tình trạng nhiều nơi cịn thiếu khách qưuan, cơng tâm, chính xác, kịp thời… trong
công tác đánh giá cán bộ cũng cho thấy việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
cơng tác đánh giá cán bộ ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế cần khắc phục.
Phát huy những kết quả đạt được, đồng thời khắc phục những hạn chế nhằm
nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác đánh giá cán bộ ở
nước ta hiện nay là rất cần thiết và cấp bách. Vì có nâng cao hiệu quả vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ thì mới có thể thực hiện tốt các khâu cịn lại
của cơng tác cán bộ, từ đó mới xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh,
cũng cố được niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng; thực hiện
thắng lợi các mục tiêu trong thời kỳ cơng nghiệp hịa, hiện đại hóa đất nước. Vì
những lý do nêu trên nên em chọn đề tài : Vận dụng tư tưởng Hồ Chi Minh về cán
bộ trong công tác đánh giá cán bộ hiện nay.


NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CƠNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ:


Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập Đảng cộng sản
Pháp năm 1920; là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam đầu năm 1930; là cán
bộ của Ban Phương Đơng Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng
cộng sản Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đồng thời
là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh ln ln chú trọng đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hồn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
Về vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là giây chuyền của bộ
máy Đảng, Nhà nước, đồn thể nhân dân, “là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng”. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta
do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước,
đồn thể phân cơng, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ
là do nhân dân giao cho.
Về vai trị của cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: cán bộ là cái gốc của
mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém.
Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh t nhất
của xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trị cực kỳ
quan trọng của hệ thống chính trị nước ta.
Luận điểm khái quát nhất của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ là: cán
bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành, là trâu ngựa của
nhân dân.


1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác đánh giá cán bộ
Theo Hồ Chí Minh, thường xuyên quan tâm làm tốt công tác đánh giá cán bộ
là cơ sở cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; lựa chọn và sử dụng đúng cán bộ,

phát hiện, xử lý và thay thế kịp thời những cán bộ yếu kém, mắc sai lầm khuyết
điểm; giúp cán bộ phát huy ưu điểm, sửa chữa, khắc phục những hạn chế, yếu kém,
khuyết điểm; xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và cũng cố tình cảm,
niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung đánh giá cán bộ
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đánh giá cán bộ cần phải dựa vào
hai tiêu chuẩn cơ bản, đó là đạo đức và tài năng hay phẩm chất và năng lực, trong
đó đạo đức được coi là cái gốc.
- Tiêu chuẩn về đạo đức của người cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những phẩm chất đạo đức cần có của người
cán bộ cần:
Cán bộ là người phải có ý thức dân tộc, suốt đời nguyện hy sinh phấn đấu
cho sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước, phải biết đặt lợi ích của Tổ quốc,
của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân, phải “hết lịng hết sức phục vụ nhân
dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”.
Cán bộ là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lệnin, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và
kiên quyết đấu tranh để bảo vệ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Người khẳng định:
“Khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” và “thực tiễn khơng có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lý luận sng”. Do đó, người cách mạng ln ln phải nắm vững và vận
dụng lý luận một cách linh hoạt vào hoạt động thực tiễn, tránh rơi vào bệnh máy
móc, giáo điều hay bệnh cục bộ, địa phương chủ nghĩa.
Cán bộ là người thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng, đảm bảo kỷ luật chiến
đấu, kỷ luật lao động. Vì nếu trong một tổ chức mà người cách mạng khơng thực
hiện nghiêm kỷ luật thì sẽ dẫn đến mạnh ai nấy làm, khơng theo một quy định
chung, có sự xáo trộn và không tạo ra được sức mạnh tổng hợp.


Cán bộ phải là người ra sức học tập, không ngừng nâng cao trình độ lý luận

chính trị, trình độ chun mơn nghiệp vụ. Vì để hồn thành được những nhiệm
vụ, những cơng việc của mình, người cán bộ phải ln ln rèn luyện phấn đấu
khơng ngừng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ra sức học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin. Có nâng cao trình độ lý luận chính trị, người cán bộ mới vững
vàng trong cơng việc, mới có tri thức để vận động nhân dân tham gia tích cực vào
cơng cuộc giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng xã hội mới.
Cán bộ phải hiểu biết lý luận cách mạng thì sẽ kiên trì phấn đấu cho lý
tưởng cách mạng “bại cũng không nản, thắng cũng khơng kiêu”, vượt qua những
khó khăn thử thách, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ được giao với một tâm niệm
“quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng”; phải “biết thật thà tự
phê bình và thành khẩn phê bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ”.
Quan trọng hơn, Người còn chỉ rõ: Cán bộ là những người có đạo đức cách
mạng, là Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm và Người lấy những ví dụ đơn giản trong
cuộc sống để so sánh, làm nổi bật vai trò của đạo đức người cách mạng: “Đức là
gốc của người cách mạng”, cũng như “cây thì phải có gốc, khơng có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy
cũng không lãnh đạo được nhân dân”, làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ
thành xã hội mới là một nhiệm vụ rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất
nặng nề: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang”.
Chính việc tu dưỡng đạo đức của người cán bộ là tấm gương sáng cho quần
chúng noi theo. Người cán bộ có đạo đức cách mạng mới luôn gần gũi với nhân
dân, mới được dân tín nhiệm và cử vào các cơ quan lãnh đạo, cơ quan chính
quyền và khi đó mới có điều kiện để cống hiến trí và lực của mình cho cách
mạng, thông qua trường học quần chúng mà bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, phát
triển tài năng của mình.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng thì khi làm việc mới trung thực, thẳng
thắn, do vậy mọi công việc mới phát triển được, cách mạng mới tiến lên được.



Người cán bộ có đạo đức cách mạng mới quyết tâm phấn đấu vươn lên trong
học tập, trong cuộc sống và vượt qua những khó khăn thử thách. Người cán bộ
cách mạng phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, mà “không kèn cựa về mặt
hưởng thụ, không công thần, khơng quan liêu, khơng kiêu ngạo, khơng hủ hố”.
Với tinh thần đó, đạo đức cách mạng là một nguồn động lực giúp cán bộ vượt qua
mọi khó khăn cám dỗ trên con đường cách mạng khơng ít chơng gai, thử thách.
Như vậy, đạo đức cách mạng là đạo đức của những người đấu tranh qn
mình vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc. Đó là phẩm chất quan trọng hàng
đầu của người cán bộ, đảng viên trong chế độ mới. Bởi theo Người, đạo đức cách
mạng được hình thành từ chính thực tiễn đấu tranh cách mạng, từ quá trình tự tu
dưỡng, rèn luyện bền bỉ của cán bộ, đảng viên, đồng thời là cội nguồn sức mạnh
giúp cán bộ vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ
mà Đảng và Nhân dân giao phó.
- Tiêu chuẩn về tài năng của người cán bộ
Hồ Chí Minh vừa quan tâm xây dựng đạo đức cách mạng vừa coi trọng tài
năng của người cán bộ.
Trước hết, đó phải là người cán bộ có khả năng nắm vững những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt vào hoàn
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, người cán bộ phải nắm vững thực tiễn tình hình của đất nước để đề
ra đường lối đúng đắng, phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Các cán bộ ở địa
phương phải nắm vững tình hình kinh tế - xã hội ở địa phương mình để xây dựng
những kế hoạch cụ thể hay triển khai các chủ trương chính sách của Đảng, của
Chính phủ phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương mình.
Thứ ba, người cán bộ phải hiểu được tâm tư, nguyện vọng, những nhu cầu
lợi ích của quần chúng nhân dân. Có hiểu được tâm tư nguyện vọng của nhân dân
thì người cán bộ mới thương dân, gần dân và mới đề xuất được những kế hoạch,
biện pháp giúp nhân dân phát triển kinh tế - xã hội. Nếu “xa dân, không liên hệ
chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.



Thứ tư, người cán bộ phải có khả năng tổ chức quần chúng nhân dân, đưa
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, biến chúng thành
hành động của hàng triệu triệu quần chúng.
Thứ năm, người cán bộ có năng lực chun mơn, có khả năng sáng tạo, giải
quyết kịp thời những vấn đề vướng mắc nảy sinh. Đó chính là sự hiểu biết về tự
nhiên, khoa học xã hội và nắm vững những quy luật vận động, phát triển của đất
nước.
Thứ sáu, người cán bộ có khả năng thuyết phục quần chúng một cách khéo
léo, lôi kéo được mọi tầng lớp trong xã hội tham gia, có khả năng giáo dục,
thuyết phục, giác ngộ, tập hợp quần chúng để xây dựng lực lượng cách mạng và
năng lực tổ chức cho quần chúng hành động đúng quy luật của cách mạng. Rõ
ràng là tài ở đây không dừng lại ở sự hiểu biết lý thuyết khoa học mà điều quan
trọng hơn là kết quả hoạt động thực tiễn làm thước đo của tài năng.
Thứ bảy, người cán bộ phải có khả năng tổng kết thực tiễn để góp phần bổ
sung, phát triển lý luận, làm phong phú lý luận, từng bước làm sáng tỏ đường lối
cách mạng, những chính sách của Đảng, của Chính phủ, cụ thể hoá thành những
biện pháp giải quyết phù hợp với đặc điểm, truyền thống ở địa phương.
Tóm lại, Người nhấn mạnh về đạo đức là gốc của người cách mạng nhưng
không coi nhẹ tài năng. Người nói: Có đức mà khơng có tài làm việc gì cũng khó.
Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng. Với mọi cán bộ, đảng viên, Người yêu
cầu: Vững về chính trị, giỏi về chuyên môn; nghề nào cũng phải học, phải thông
thạo. Những yêu cầu trên đây không chỉ là căn cứ khoa học, là nội dung của việc
xác định tiêu chuẩn cán bộ, mà còn là điều kiện cơ bản, là “cái gốc” để một con
người có thể trở thành người cán bộ của Đảng.
1.2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về các u cầu có tính ngun tắc trong
đánh giá cán bộ
Đánh giá cán bộ cần phải tiến hành thường xuyên
Đánh giá đúng cán bộ sẽ giúp việc bố trí, sử dụng đúng đắn đội ngũ cán bộ,

phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, giúp Đảng phát hiện và phân biệt
chính xác thực chất đội ngũ cán bộ để có thể phát huy hết khả năng của họ. Đồng


thời, đánh giá đúng cán bộ còn giúp người cán bộ “thấy rõ mình” để tự hồn
thiện, vươn lên. Đánh giá cán bộ thường xuyên giúp cho tổ chức ‘biết rõ cán bộ”,
nắm chắc đội ngũ cán bộ để có chính sách và biện pháp thích hợp; đồng thời tạo
tâm lý an tâm cho đội ngũ cán bộ của Đảng trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: “Từ trước đến nay Đảng ta chưa thực hành cách thường xem
xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết: mỗi lần xem xét
lại nhân tài, một mặt tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác những người hủ
hóa cũng lịi ra”.
Đánh giá cán bộ địi hỏi phải khách quan và tồn diện
Đánh giá cán bộ là “xem xét” một con người, là vấn đề mang tính khoa học
và nghệ thuật. Vì vậy, “khách quan” là yêu cầu hàng đầu. Cho nên, phải căn cứ
vào tiêu chuẩn, hiệu quả công việc và đặc biệt là dựa vào quần chúng để đánh
giá cho chính xác và khách quan.
Mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng, thực tiễn đặt ra những yêu cầu và
chuẩn mực khác nhau đối với người cán bộ. Khi xem xét đánh giá cán bộ phải
chú trọng bản chất, năng lực, phẩm chất và hiệu quả công việc trong mối quan hệ
đa chiều. Tuy nhiên, cần thận trọng trong việc đánh giá phẩm chất và năng lực,
đức và tài, bởi vì trong thực tiễn sẽ khó có người trọn vẹn, người đời khơng phải
là thần thánh, khơng ai khơng có hạn chế, khuyết điểm. Quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ bao giờ cũng chú trọng phẩm chất đạo đức và
xem đây là cái gốc, là nền tảng, Người thường phân tích đánh giá cán bộ với cách
nêu những đặc trưng tốt - xấu rất cụ thể, rõ ràng, nhưng khơng cầu tồn.
Đánh giá cán bộ phải đảm bảo tính “tồn diện”. Người dạy rằng: Chẳng
những xem cơng tác của họ, mà cịn phải xem cách sinh hoạt của họ, chẳng
những xem cách nói, cách viết của họ mà phải xem xét việc làm của họ đúng với
lời nói, bài viết của họ hay khơng, chẳng những xem xét họ đối với ta như thế

nào. Ta nhận họ tốt cịn phải xem xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay
khơng? Phải biết ưu điểm của họ, mà cũng phải biết khuyết điểm của họ; không
chỉ xem công việc của họ trong một lúc mà xem cả công việc từ trước đến nay.
“Xem xét cán bộ, khơng chỉ xem ngồi mặt mà cịn phải xem tính chất của họ.


Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem tồn cả lịch sử, tồn cả cơng việc
của họ. Có người lúc phong trào cách mạng cao, họ vào Đảng, họ làm việc rất
hăng. Nhưng lúc phong trào hơi khó khăn thì đâm ra hoang mang. Lúc gặp sự
nguy hiểm thậm chí hóa phản cách mạng. Nếu ta khơng xem xét rõ ràng, thì lầm
nó là cán bộ tốt. Vì vậy, nhận xét cán bộ khơng nên chỉ xét ngồi mặt, chỉ xét một
lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả tồn bộ cơng việc của cán bộ”.
Hồ Chí Minh yêu cầu trong đánh giá phải đứng trên quan điểm “động” và
“phát triển”. “Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến
hóa. Vì vậy, cách xem xét cán bộ, quyết khơng nên chấp nhất, vì nó cũng phải
biến hóa... Một người cán bộ khi trước có sai lầm, khơng phải vì thế mà sai lầm
mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này khơng phạm
sai lầm? Q khứ, hiện tại và tương lai của một người không phải ln giống
nhau”.
Người đánh giá phải tự biết mình, phải sáng suốt, tỉnh táo
Người đánh giá phải đủ tư cách, nhất là “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ
tư”. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đã khơng tự biết mình thì khó mà biết người, vì vậy
muốn biết đúng sự phải trái ở người ta thì trước hết phải biết đúng sự phải trái
của mình. Nếu khơng biết sự phải trái ở mình, thì chắc khơng thể nhận rõ người
cán bộ tốt hay xấu”. Đặc biệt, Người còn nhắc nhở những người làm cơng tác cán
bộ, những cán bộ có quyền xem xét, đánh giá cán bộ cần phải dũng cảm nhìn
nhận và kiên quyết khắc phục, sửa chữa những hạn chế, khuyết điểm của mình.
Vì “mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”.
Hồ Chí Minh địi hỏi người cán bộ phải sáng suốt, tỉnh táo để phân biệt đúng
- sai, thật - giả, không để “bọn vu vơ bao vây, mà xa cách cán bộ tốt”. Đặc biệt là

bọn cơ hội, luồn lách, những kẻ xấu chui vào phá hoại nội bộ ta.


Tóm lại, đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng: Hiểu người là một việc
khó, nếu khơng hiểu đúng thì khơng dùng đúng, nếu khơng dùng đúng thì khơng
thể cất nhắc đúng. Vì vậy, trong đánh giá cần phải công tâm, khách quan, công
bằng, không thiên tư, thiên vị, định kiến hẹp hòi.


Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ HIỆN NAY VÀ GIẢI
PHÁP KHẮC PHỤC TRONG THỜI GIAN ĐẾN
2.1. Thực trạng công tác đánh giá cán bộ hiện nay
2.1.1. Ưu điểm
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh là trên cơ sở những chỉ dẫn của Người, xác
định những nội dung, yêu cầu đối với công tác đánh giá cán bộ hiện nay và tổ chức
thực hiện tốt những gì đã được xác định ở các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị.
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã có nhiều quy định, hướng dẫn về tiêu
chuẩn cán bộ, tiêu chí đánh giá và quy trình đánh giá cán bộ, vai trò của cấp ủy và
trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị trong công
tác đánh giá cán bộ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã
xác định: “Trách nhiệm đánh giá cán bộ thuộc về cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ
sinh hoạt, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của cán bộ và bản thân cán bộ tự đánh
giá”. Đồng thời, Nghị quyết cũng yêu cầu “Cán bộ được thông báo ý kiến nhận xét
của cơ quan có thẩm quyền về bản thân mình, được trình bày ý kiến, có quyền bảo
lưu và báo cáo lên cấp trên, nhưng phải chấp hành ý kiến kết luận của cơ quan có
thẩm quyền”.
Luật Cán bộ, cơng chức năm 2008 quy định, đánh giá cán bộ thực hiện theo 5

nội dung: a) Chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước; b) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm
việc; c) Năng lực lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; d) Tinh thần
trách nhiệm trong công tác; đ) Kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Đồng thời,
Luật cũng quy định rõ: Việc đánh giá cán bộ được thực hiện hằng năm, trước khi
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm, quy hoạch, điều động, đào tạo, bồi dưỡng, khi kết
thúc nhiệm kỳ, thời gian luân chuyển. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục đánh giá cán
bộ được thực hiện theo quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.


Trong những năm qua, trên cơ sở quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, các quy
định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, nhiều nới đã xây
dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh, tiêu chí đánh giá, thực hiện đúng quy trình
đánh giá cán bộ, có nhiều đổi mới về phương phát đánh giá, phát huy vai trò của
nhân dân tham gia vào quản lý, đánh giá cán bộ, công khai kết quả đánh giá cán
bộ...Các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị đã triển khai tương đối đồng bộ các
khâu trong công tác cán bộ như đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Qua sơ kết, tổng kết công
tác cán bộ của các địa phương, ban, ngành và trong cả nước thời gian qua cho thấy,
có những chuyển biến trong nhận thức, trong quan điểm về đánh giá cán bộ. Đánh
giá cán bộ không đơn thuần chỉ căn cứ vào thành tích cũ, q trình cơng tác, trình
độ học lực, thành phần lý lịch, mà đã chú trọng hơn về tiêu chuẩn cán bộ, nhất là
về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, kiến thức, lấy hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ, chức trách được giao trong điều kiện công tác cụ thể làm thước đo chủ yếu.
Công tác đánh giá cán bộ đã có sự phối hợp chặt chẽ hơn với các cấp ủy và đã thực
hiện tốt hơn nguyên tắc tập thể, dân chủ, công khai tự phê bình và phê bình; cá
nhân được đánh giá đã nghiêm túc tự đánh giá, quần chúng bước đầu tham gia
đánh giá cán bộ, đánh giá cán bộ có văn bản; một số nơi cán bộ được thông báo ý
kiến nhận xét của cơ quan có thẩm quyền...
2.1.2. Những hạn chế trong công tác đánh giá cán bộ

Một số tổ chức đảng đánh giá cán bộ chưa đúng thực chất, còn hình thức; tình
trạng nể nang, né tránh trách nhiệm, ngại va chạm và dân chủ hình thức trong đánh
giá cán bộ vẫn còn khá phổ biến ở các cấp; tinh thần tự phê bình và phê bình chưa
cao. Khơng ít trường hợp đánh giá cán bộ còn chủ quan, mang tính cá nhân, cục bộ
hoặc bị các mối quan hệ xã hội khác chi phối mà chưa phản ánh chính xác phẩm
chất, năng lực của cán bộ. Nguyên tắc đánh giá cán bộ là phải lấy hiệu quả công
việc làm thước đo chủ yếu để đánh giá, nhưng nhiều khi đặc trưng cơng việc khó
định lượng mà chỉ định tính.
Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của công tác cán
bộ và đánh giá cán bộ: “Việc đổi mới cơng tác cán bộ chưa có đột phá lớn. Đánh


giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất qua nhiều nhiệm kỳ nhưng chưa có những tiêu chí
cụ thể và giải pháp khoa học để khắc phục” (1). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XII về xây dựng Đảng cũng nhận định: “Đánh giá, bố trí sử dụng cán bộ còn
nể nang, cục bộ”.
Bản thân cán bộ, đảng viên vẫn chưa thực sự tự giác kiểm điểm tự phê bình
và phê bình. Nhận xét của cơ quan đơn vị với cán bộ hầu hết đều tốt, nên vẫn có
hạn chế trong việc đánh giá đúng thực chất, khách quan. Vẫn có tình trạng cán bộ
năng lực yếu vẫn được cất nhắc bổ nhiệm, thiếu gương mẫu vẫn được khen
thưởng, làm suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khiến việc tinh
giản biên chế khó thực hiện. Trên thực tế, có tình trạng cơ quan 100% cán bộ, cơng
chức được đánh giá là hồn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nhưng tập thể
cơ quan, đơn vị ấy lại chỉ được hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ trung bình.
Quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ một số nơi chưa đổi mới. Trong
nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý theo nhiệm kỳ hằng năm và cuối nhiệm
kỳ, hay trước khi bổ nhiệm, một số nơi chưa căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, năng
lực thực tế, hiệu quả hồn thành nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức, chưa đúng quy
trình, có nơi chưa thành nền nếp, cịn biểu hiện hình thức, chủ quan, tình cảm, nể
nang, nhất là chưa phát huy được nguyên tắc tập trung dân chủ.

Có những nơi cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, thậm chí là người
lãnh đạo, quản lý trực tiếp và cơ quan quản lý cấp trên chưa sâu sát, chưa nắm
chắc, chưa quản lý chặt chẽ, thiếu thông tin và chưa thực sự hiểu biết toàn diện,
sâu sắc về cán bộ. Có những nơi, những người có trách nhiệm đánh giá cán bộ,
nhưng chưa thật sự cơng tâm, khách quan, vì động cơ cá nhân, hoặc định kiến,
chấp nhặt đối với cán bộ, nên đánh giá cán bộ nhiều lúc, nhiều nơi vẫn nặng về ý
chí, chủ quan, cảm tính của người đứng đầu. Do vậy, đánh giá không thể đúng đắn,
chính xác về cán bộ, khơng ít trường hợp đánh giá hồn tồn khơng đúng về cán
bộ. Nhiều nơi, nhiều người chưa thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình một
cách thành khẩn, ráo riết, thường xun, cịn tình trạng nể nang, ngại đụng chạm,
“bằng mặt nhưng khơng bằng lịng”, khơng dám đấu tranh; hoặc cũng có tình trạng
lợi dụng phê bình để hạ bệ, bơi nhọ, cơng kích nhau bằng cả những thủ đoạn đê


hèn, những thơng tin thiếu chuẩn xác, thậm chí đơm đặt, dựng chuyện... không
được điều tra xác minh cụ thể, hoặc có thì cũng làm lỡ nhịp hay cơ hội để đề bạt sử
dụng.
Có những nơi hằng năm đều tiến hành nhận xét, đánh giá cán bộ nhưng qua
loa, chiếu lệ. Khơng ít nơi chưa thực hiện dân chủ, cơng khai trong thảo luận, bàn
bạc, nhận xét cán bộ; gần như kết quả đánh giá cán bộ của cơ quan có thẩm quyền
được giữ kín, khơng thơng báo cho cán bộ được đánh giá. Vì vậy, nhiều cán bộ thực
sự không biết được cấp trên đã nhận xét, đánh giá về bản thân mình như thế nào;
cho nên họ cũng khơng có cơ hội trình bày ý kiến khi có nhận xét chưa chính xác về
mình, tạo ra sự hồi nghi, hoang mang, khơng n tâm và mất lịng tin ở cán bộ.
Từ chỗ đánh giá, nhận xét cán bộ chưa chính xác, nên có những nơi đại đa số
cán bộ đều đạt xuất sắc hoặc tiên tiến, nhưng nhiệm vụ chung của đơn vị lại chưa
có chuyển biến tích cực, hoặc chưa hoàn thành. Một số cán bộ được đề bạt, bổ
nhiệm nhưng phát huy tác dụng không cao; cán bộ bất tài, kém đức, cơ hội, trục lợi
cá nhân chậm bị thay đổi, hoặc được điều chuyển đến vị trí tốt hơn, thậm chí được
nhanh chóng “thăng quan tiến chức”, cịn những người thực đức, thực tài thì bị bỏ

sót, khơng được trọng dụng, thậm chí bị vùi dập bởi những thủ đoạn khác nhau. Tệ
hơn nữa, có người đã phải thốt lên rằng, khuyết điểm chính của người nọ, người
kia khơng được trọng dụng là vì “bộc lộ trình độ hơn sếp”.
Những hạn chế, yếu kém trong công tác đánh giá cán bộ như đã nêu là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, khơng có ý thức tự phê bình và phê bình, thiếu rèn luyện, phấn
đấu…
2.13. Nguyên nhân của những hạn chế
- Công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh ở nhiều nơi cịn chung chung, hình
thức. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh chủ yếu cịn dừng lại ở tự phát, chưa có
hệ thống. Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa có sự thống nhất
về nhận thức đối với những điểm chủ yếu về tiêu chuẩn trong đánh giá cán bộ,
chưa thực sự lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo chủ yếu về phẩm chất


và năng lực cán bộ, cách đánh giá còn chung chung, thiếu cụ thể, hình thức, máy
móc.
- Kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế là một trong những nguyên nhân làm
gia tăng lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, những hiện tượng tiêu cực ở cán
bộ, đảng viên. Nó cũng nguyên nhân làm cho nhiều người có những nhận thức
không đúng đắn về phẩm chất và năng lực của cán bộ…
- Chậm đổi mới tư duy về công tác đánh giá cán bộ trong điều kiện mới.
Khơng ít tổ chức và người lãnh đạo nắm không chắc, đánh giá khơng trúng; thiếu
khách quan, thành kiến, hẹp hịi, định kiến. Vẫn cịn tình trạng bè phái, phe cánh,
cục bộ, vụ lợi, đánh giá sai lệch những cán bộ trung thực, có tinh thần đấu tranh
thẳng thắn, nhưng khơng hợp với mình, ưu ái những cán bộ có phẩm chất và năng
lực kém nhưng do thân quen, nể nang, chạy chọt...
- Tinh thần phê bình và tự phê bình chưa cao. Cấp có thẩm quyền đánh giá
cán bộ và người đứng đầu cơ quan, đơn vị còn thiếu kiên quyết, có biểu hiện sự nể

nang, sợ mất lịng, ngại đưa ra chính kiến nhận xét, đánh giá của mình đối với cấp
dưới, kể cả cán bộ, công chức chuyên môn khi nhận xét, góp ý kiến đối với cấp
trên của mình.
- Nội dung đánh giá cịn chồng chéo, thiếu thống nhất; chưa có hướng dẫn cụ
thể nên khi thực hiện cịn lúng túng.
- Bệnh thành tích trong đánh giá cán bộ vẫn cịn tồn tại ở một số ít cơ quan,
đơn vị; phương pháp, quy trình đánh giá chưa khoa học, còn qua loa, chiếu lệ;
chưa thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò giám sát, tham gia của
nhân dân vào công tác cán bộ.
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác đánh giá cán bộ
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá cán bộ trong thời gian tới,
cấp ủy các cấp tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ làm công tác tổ
chức cán bộ vững mạnh
Đây là đội ngũ có vai trị rất quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ, trong
việc đánh giá, sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Do vậy, đội ngũ này phải


thật sự là những người hội đủ cả đức lẫn tài, phải vừa có tâm vừa có tầm; phải biết
nhìn xa, trông rộng, phải hiểu biết về con người, thực sự quan tâm và yêu thương
cán bộ, phải thật sự vơ tư trong sáng, phải có tư chất của người làm công tác tổ
chức cán bộ, phải được đào tạo, huấn luyện về nghiệp vụ công tác này, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, đội ngũ này phải tránh những chứng bệnh “tự cao, tự đại”,
“ưa nịnh”, “do lòng yêu ghét của mình mà đối với người”, “Đem một cái khuôn
khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau”. Theo Người, cán
bộ lãnh đạo mà phạm một trong bốn bệnh đó thì cũng như mắt đã mang kính màu,
khơng bao giờ thấu rõ mặt thật của những cái mình trơng. Bởi vì, người lãnh đạo
mà khơng khiêm tốn, ln tự cao, tự đại thì khơng nhìn thấy, khơng thừa nhận
người khác tài giỏi hơn mình; thậm chí có nhìn thấy nhưng lại sinh lịng đố kỵ, sợ
người khác hơn mình, nên muốn dìm người giỏi, hại người ngay.

Bệnh thích xu nịnh dễ đưa đến lựa chọn lầm lẫn, cất nhắc nhầm kẻ xấu, bất
tài, lại giỏi nịnh hót người trên, khơng muốn cất nhắc, đề bạt hoặc bỏ sót người
ngay thẳng, tài giỏi thật sự. Đối xử với cán bộ mà dựa vào tình cảm cá nhân, vị kỷ
cũng khiến nhìn người khơng đúng. Hơn nữa, xét người phải có cái nhìn rộng rãi,
thống đạt, khơng nên nhìn mọi người theo một khn khổ chật hẹp, suy nghĩ nông
cạn, phiến diện, chủ quan.
Muốn hiểu biết đúng những phải trái ở người khác, hiểu biết cán bộ, thì đội
ngũ lãnh đạo và làm cơng tác tổ chức cán bộ, trước hết phải biết rõ sự phải trái của
mình, khơng hiểu được mình thì khó mà có thể hiểu người. Đội ngũ này phải biết
sửa chữa khuyết điểm của mình vì “mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán
bộ càng đúng”, và mình phải là những người “độ lượng vĩ đại”; phải thật sự công
tâm, khách quan, phải xác định rõ công tác cán bộ không phải là việc riêng ai, mà
là việc chung cho nhân dân, cho đất nước; phải có bản lĩnh và am hiểu, thực hiện
đúng quy trình, quy chế trong cơng tác đánh giá cán bộ.
Thứ hai, xây dựng bộ tiêu chuẩn chức danh đối với từng ngạch lãnh đạo,
quản lý ở từng cấp.
Cụ thể hóa bộ tiêu chí đánh giá cán bộ theo hướng xác định cụ thể công việc;
bảo đảm lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao làm


thước đo chủ yếu để đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ. Phương thức đánh
giá cần được bổ sung những yếu tố định lượng về công việc, thời gian hồn thành
cơng việc, tỷ lệ xử lý thỏa đáng tình huống và những giải pháp sáng tạo trong giải
quyết công việc.
Trước đây, công tác đánh giá cán bộ hằng năm chủ yếu dựa vào kết quả tự đánh
giá của từng đơn vị. Việc đánh giá cán bộ, công chức được phân loại theo bốn mức
theo quy định của Luật Cán bộ, cơng chức (năm 2008): a) Hồn thành xuất sắc
nhiệm vụ; b) Hoàn thành tốt nhiệm vụ; c) Hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế
về năng lực; d) Khơng hồn thành nhiệm vụ. Tuy vậy, việc đánh giá nhiều khi khơng
sát thực tế. Bởi vì định lượng của các tiêu chí chưa thật cụ thể, rõ ràng.

Xây dựng, cụ thể hóa tiêu chí đánh giá mức độ hồn thành công việc của
người đứng đầu dựa trên kết quả lãnh đạo đơn vị thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Quyết tâm đánh giá cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII: kiên
quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế hoặc cho từ chức đối với cán bộ làm việc yếu
kém, khơng hồn thành nhiệm vụ nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý và người đứng
đầu cơ quan.
Nội dung, tiêu chí đánh giá cần phải được thống nhất, cụ thể cho từng loại
hình cơ quan, đơn vị; được lượng hóa bằng thang điểm để thuận lợi trong đánh giá
phân loại, bảo đảm đánh giá đúng thực chất và khuyến khích, động viên cán bộ
làm việc có chất lượng, hiệu quả.
Trong đánh giá cán bộ, cần xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh làm
cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán
bộ; quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức
đảng và cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, hoàn thiện quy chế, quy định, quy trình đánh giá cán bộ, nhất là các
trường hợp bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và giới thiệu bầu cử.
Chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp về công tác cán bộ và đánh giá
cán bộ phải được thể chế, cụ thể hóa bằng quy chế, quy định, quy trình bảo đảm
dân chủ, chặt chẽ.


Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định,
quy chế, cơ chế trong cơng tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt
chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá
đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp...”(2).
Phải xây dựng cho được tiêu chí để đánh giá cán bộ. Hằng năm, trước khi kết
thúc nhiệm kỳ hoặc chuyển công tác, căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, hiệu quả cơng
việc thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân mà có đánh giá khách quan trên cơ sở
bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình của

cán bộ; chống đánh giá cán bộ thiếu khách quan, thiếu căn cứ khoa học.
Thực hiện chặt chẽ quy trình xét tuyển, thi tuyển, tiếp nhận, tuyển dụng công
chức, viên chức theo hướng đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường tự chủ cho
cơ quan, đơn vị. Tiêu chuẩn bằng cấp, chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống cũng cần phải có đánh giá, nhận xét của cấp ủy, cơ quan, đơn vị hay
trường học mà cán bộ được tuyển chọn đã từng công tác hay từng học, địa bàn nơi
cư trú.
Đánh giá cán bộ không chỉ xem xét trong một thời điểm, một thời gian ngắn
mà phải xem xét trong cả quá trình để thấy được sự chuyển biến; phải kết hợp theo
dõi thường xuyên với đánh giá định kỳ.
Đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong đánh giá cán bộ. Người đứng đầu
cơ quan, đơn vị phải nắm vững căn cứ, nắm chắc tiêu chuẩn đánh giá. Trên cơ sở
chức năng, nhiệm vụ, vị trí việc làm, từng cơ quan, đơn vị yêu cầu cán bộ, công
chức xây dựng kế hoạch các nhiệm vụ chính sẽ thực hiện; tiến hành phân công
nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân, làm cơ sở quan trọng trong việc đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Để đánh giá cán bộ, nhất là người đứng đầu,
lãnh đạo chủ chốt, không chỉ căn cứ vào kết quả lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành các
chỉ tiêu kinh tế - xã hội mà còn căn cứ vào sự hài lòng của người dân thơng qua
q trình thực hiện chính sách trên địa bàn.


Thực hiện công khai, minh bạch kết quả đánh giá cán bộ để phát huy vai trò
giám sát, tham gia ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và
nhân dân.
Thứ tư, cơng khai hóa, dân chủ hóa trong đánh giá cán bộ.
Đánh giá đúng cán bộ cịn là yếu tố quan trọng góp phần xây dựng tình đồn
kết, thống nhất trong cơ quan, địa phương, đơn vị. Do vậy, đánh giá cần thực hiện
dân chủ, cơng khai hóa với cơ chế, biện pháp rõ ràng, khoa học.
Trước hết, phải thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng về lấy phiếu tín nhiệm
hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận

Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội; gắn việc lấy phiếu tín nhiệm với đánh
giá cán bộ, kết hợp chặt chẽ giữa đánh giá nơi công tác và kết quả thực hiện nghĩa
vụ cơng dân nơi cư trú.
Đánh giá cán bộ phải tồn diện, dân chủ, bảo đảm khách quan, cơng tâm, vì
sự tiến bộ của cá nhân, tổ chức, trên cơ sở những tiêu chuẩn, lấy hiệu quả cơng tác
và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu.
Công khai, dân chủ, kết luận theo đa số là vấn đề có tính ngun tắc, được thể
hiện trong tồn bộ quy trình đánh giá cán bộ. Nhưng trên thực tế ở một số nơi
nguyên tắc này được thực hiện còn lệch lạc, đối tượng; nội dung, phạm vi, mức độ
công khai cũng khác nhau. Có nơi, việc đánh giá cán bộ vẫn được coi là việc riêng
của cấp ủy, chưa thật sự phát huy dân chủ, chưa lấy ý kiến của đông đảo quần
chúng trong cơ quan, đơn vị và địa bàn cư trú của cán bộ làm căn cứ đánh giá.
Thậm chí, một số cấp ủy, nhất là cấp cơ sở chưa thực hiện tốt quy định đánh giá
cán bộ thường xuyên và định kỳ, chỉ khi đề bạt, bổ nhiệm mới đánh giá.
Chính việc làm thiếu dân chủ, thiếu công khai, công bằng, công tâm, minh
bạch trong đánh giá cán bộ, là nguyên nhân dẫn tới nhiều hệ quả tiêu cực hiện nay.
Đó là, tình trạng cấp dưới phụ thuộc, thụ động vào cấp trên, thiếu tin tưởng vào cấp
trên, lo lắng xây dựng các mối quan hệ thân thiện hơn là lo lắng, chú tâm vào công
việc, lo lắng giữ mình hơn là đấu tranh cho lẽ phải.
Đẩy mạnh dân chủ hóa cơng tác đánh giá cán bộ, quy định rõ trách nhiệm,
thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ; hoàn thiện


tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm sốt việc thực thi cơng vụ; xác
định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Phải dựa vào quần chúng để xây dựng Ðảng. Trong điều kiện hiện nay, các
cấp ủy đảng cần biết lắng nghe các đoàn thể quần chúng, dư luận xã hội và báo chí
để tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân, phân tích, sàng lọc ý kiến có tính chất xây
dựng, bổ sung vào q trình nhận xét, đánh giá cán bộ.
Cũng cần có hình thức thơng báo công khai kết quả nhận xét, đánh giá cán bộ

cho người được đánh giá và cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị biết, cho quần
chúng theo dõi, giám sát và tiếp tục tham gia vào quá trình đánh giá cán bộ; đồng
thời lưu giữ, bổ sung vào hồ sơ cán bộ, làm căn cứ triển khai những khâu tiếp theo
trong công tác cán bộ.
Nâng cao năng lực cơ quan tham mưu về công tác cán bộ, bảo đảm việc đánh
giá cán bộ phải thật sự công tâm, khách quan, toàn diện; phải am hiểu, nắm chắc
cán bộ; cần mạnh mẽ, quyết liệt, kịp thời trong việc xử lý, thay thế những cán bộ
liên tục khơng hồn thành nhiệm vụ, không nhất thiết phải đợi hết nhiệm kỳ, thời
hạn bổ nhiệm.
Cần khắc phục đánh giá theo hình thức, giản đơn, qua loa; người đánh giá chỉ
nêu ưu điểm, thành tích, né tránh khuyết điểm. Nâng cao tinh thần phê bình và tự
phê bình của mỗi cá nhân; cá nhân biết nhìn nhận vào khuyết điểm, hạn chế của
bản thân mà có phương pháp, kế hoạch khắc phục những hạn chế ấy, chính điều đó
làm cho cán bộ dần trưởng thành hơn.
Đánh giá cán bộ là khâu cần thiết, gắn kết với tất cả các khâu khác liên quan
có ý nghĩa to lớn trong của công tác cán bộ của Đảng. Kết quả đánh giá cán bộ là
căn cứ quan trọng để tiến hành các khâu khác như quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
bố trí và sử dụng,... Các khâu công tác cán bộ đều được thực hiện đúng sẽ bảo đảm
việc phát triển đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất cách mạng, đủ tài và đức lãnh đạo
thành công sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐHvà
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.


Thứ năm, sáng suốt, tinh tường trong phân định cán bộ tốt và cán bộ kém.
Đội ngũ cán bộ nói chung là lực lượng chủ chốt của cách mạng, là tài sản quý
báu của đất nước. Nhưng trong thực tế không phải người người đều tốt, mọi việc
đều hay, không ít trường hợp “trắng - đen, vàng - thau” lẫn lộn; kẻ gian giảo lại quá
khéo léo tinh vi che đậy những suy nghĩ, hành vi chưa đúng của mình, người chính
trực lại thật thà, bộc trực dễ làm mất lịng người khác.... Thực tế mn vàn phức
tạp đó làm cho người lãnh đạo dễ bị nhầm lẫn, khó có thể xác định người tốt, kẻ

xấu, huống chi trường hợp người lãnh đạo lại thiếu cơng tâm, khách quan.
Có nhiều cách thức, kinh nghiệm khác nhau khi nhìn nhận về con người.
Những ai đã từng trải nghiệm, lăn lộn với cuộc sống, từng cộng tác, tiếp xúc, va
chạm với nhiều hạng người... thường tích lũy những kinh nghiệm hay về nhìn nhận
con người. Vốn là người đã từng bơn ba khắp năm châu, bốn biển, rất có kinh
nghiệm về việc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta nhận diện những tính
cách, hành vi của từng loại cán bộ, của người tốt, kẻ xấu:
“Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo
mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay cơng kích người khác, hay tự tâng bốc
mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt”
“Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, khơng
che giấu khuyết điểm của mình, khơng ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng
kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vơ luận hồn cảnh thế nào, lịng họ cũng
khơng thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”.
Hoặc là, khi nói chữ chính trong các đức tính của con người Việt Nam thời
đại mới, Người cũng giải thích rõ rằng, trên quả đất có hàng mn triệu người và
có thể chia làm hai hạng là người thiện và kẻ ác; trong xã hội tuy có trăm cơng
nghìn việc, song những cơng việc ấy có thể chia làm hai thứ là việc chính và việc
tà. “Làm việc chính, là người thiện. Làm việc tà là người ác”, “siêng năng (cần),
tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là tà,
là ác”. Sự hiểu biết, óc quan sát tinh tường về con người, về cán bộ như vậy, chắc
chắn sẽ giúp cho việc nhận xét, phân định cán bộ chính xác, rõ ràng, khoa học hơn.


Thứ sáu, đánh giá cán bộ phải xem xét cả một q trình.
Khi đánh giá cán bộ khơng thể chỉ xét một lúc, một thời điểm, một thời gian
ngắn, hoặc chỉ thấy hiện tại, mà cần có thời gian dài, có một q trình. Bởi vì, mọi
việc đều có sự biến chuyển, con người cũng có sự thay đổi về nhiều mặt, cho nên
nhận xét về một con người không thể cố định bất biến mà phải trong quá trình vận
động, biến đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trong thế giới, cái gì cũng

biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ, quyết
khơng nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa....
Một người cán bộ khi trước có sai lầm, khơng phải vì thế mà sai lầm mãi.
Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai
lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau.
Muốn đánh giá cán bộ đúng đắn, chính xác, người có trách nhiệm phải kiên
nhẫn tìm hiểu, theo dõi cán bộ trong một thời gian dài. Do đó, người làm cơng tác
này phải có kế hoạch thật chặt chẽ, hợp lý trong quản lý cán bộ, phải có các bước
đánh giá phù hợp, khoa học, phải hợp lực với nhiều người, tham khảo ý kiến số
đông trong đánh giá cán bộ. Muốn vậy, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng
và quần chúng.


KẾT LUẬN
Vấn đề cốt yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc phải gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một cuộc
cách mạng mang tính tồn diện bao gồm 3 lĩnh vực: Chính trị tư tưởng, Cơ cấu
kinh tế, Văn hóa xã hội. Nhưng muốn xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội thì
trước hết phải hoàn thiện được yếu tố chủ đạo là tư tưởng và con người xã hội chủ
nghĩa, trong đó người cán bộ rất quan trọng bởi: “Con người xã hội chủ nghĩa là
con người có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư, một lịng một dạ phục
vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”. Thấm nhuần những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong mọi thời điểm của tiến trình cách mạng, cán bộ và cơng tác cán bộ
ln là vấn đề trọng yếu, chẳng những có ý nghĩa to lớn đối với công tác xây dựng
và chỉnh đốn Đảng mà cịn góp phần quyết định sự thành bại trong tổ chức và công
tác lãnh đạo của Đảng. Đánh giá cán bộ là khâu có ý nghĩa quyết định trong công
tác cán bộ. Kết quả đánh giá cán bộ là cơ sở đặc biệt quan trọng để đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đề bạt, cất nhắc, đãi ngộ cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ sẽ phát
huy được khả năng của từng cán bộ và đội ngũ cán bộ. Những nội dung cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta nhận thức và khẳng định sự cần thiết phải

vận dụng, thực hiện trong công tác đánh giá cán bộ ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quy định, hướng dẫn của Đảng, đánh giá cán bộ đảng
viên ở nhiều nơi đã đảm bảo được sự khách quan, công tâm, kịp thời. Nâng cao
chất lượng công tác đánh giá cán bộ sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ ngang
tầm với yêu cầu nhiệm vụ mới, nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước trước nhân
dân. Đây là vấn đề cần được quan tâm đầy đủ ở tất cả các cấp, các ngành, địa
phương, cơ quan, đơn vị, đồng thời là vấn đề cấp thiết trong công tác xây dựng
Đảng. Thời gian tới, để triển khai có hiệu quả công tác đánh giá cán bộ của Đảng,
cần tập trung hơn nữa trong việc nghiên cứu vận dụng một cách khoa học, sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác đánh giá cán bộ, góp phần nâng cao đội ngũ cán
bộ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003): Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX - Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII .
3. Hồ Chí Minh,(2000), Tồn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh,(2000), Tồn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh,(2000), Tồn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh,(2000), Tồn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh,(2000), Tồn tập, tập 8, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh,(2000), Tồn tập, tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh đường trường mn dặm, dâng hiến và tỏa sáng – của
PGS,TS. Trần Đình Huỳnh.
10. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cuộc cải cách nền hành chính
Nhà nước hiện nay - của PGS,TS. Trần Đình Huỳnh.



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
Chương 1..................................................................................................................2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ.............2
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ:...................................................2
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác đánh giá cán bộ..................................................3
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung đánh giá cán bộ...........................................3
1.2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về các u cầu có tính ngun tắc trong đánh giá cán bộ....6

Chương 2................................................................................................................10
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ HIỆN NAY VÀ GIẢI
PHÁP KHẮC PHỤC TRONG THỜI GIAN ĐẾN.............................................10
2.1. Thực trạng công tác đánh giá cán bộ hiện nay....................................................................10
2.1.1. Ưu điểm.......................................................................................................................10
2.1.2. Những hạn chế trong công tác đánh giá cán bộ...........................................................11
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao công tác đánh giá cán bộ................................................14
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ
vững mạnh.............................................................................................................................14
Thứ năm, sáng suốt, tinh tường trong phân định cán bộ tốt và cán bộ kém..........................20
Thứ sáu, đánh giá cán bộ phải xem xét cả một quá trình......................................................21

KẾT LUẬN............................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................23




×