Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.73 KB, 31 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Vơ chồng A Phủ - Tơ </b>
<b>Hồi Ngữ văn 12</b>
<b>Dàn ý chi tiết</b>
<b>1. Mở bài</b>
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
<b>2. Thân bài</b>
- Khái niệm:
+ Giá trị hiện thực
+ Giá trị nhân đạo
- Giá trị hiện thực trong Vợ chồng A Phủ
+ Phản ánh chân thực bức tranh đời sống của người nông dân miền núi trước
cách mạng tháng Tám bị áp bức, bóc lột.
+ Bộ mặt tàn bạo của bọn phong kiến miền núi
+ Phản ánh chân thực những phong tục tập quán, hủ tục của người miền núi
vùng Taya Bắc
- Giá trị nhân đạo:
+ Tác giả phát hiện, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn của con
người Tây Bắc.
+ Tin tưởng và miêu tả khả năng cách mạng của người dân miền núi trong cuộc
đấu tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến .
+ Biểu lộ sự căm ghét đối với chế độ thực dân, phong kiến.
<b>3. Kết bài</b>
- Khái quát lại vấn đề
<b>Bài làm</b>
Truyện Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi đã phản ánh được một cách khá chân
thực và sinh động bức tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc
trước ngày giải phóng Điện Biên. Đó là một thành cơng có ý nghĩa khai phá
của nhà văn Tơ Hồi về đề tài miền núi trong văn học Việt Nam hiện đại.
Dưới ngòi bút của nhà văn người đọc thấy được trong vùng giặc Pháp chiếm
đóng thời bấy giờ vẫn tồn tại chế độ lang đạo Thổ Ty, một kiểu phong kiến ở
miền núi còn khắc nghiệt tàn ác hơn nhiều so với chế độ phong kiến thực dân ở
miền xuôi mà đã được các nhà văn hiện thực khác như Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng mô tả chân thực trong các tác phẩm trước Cách
mạng tháng Tám. Hiện thân của chế độ lang đạo Thổ Ty dã man ấy là cha con
nhà thống lý Pá Tra. Bọn chúng đã lợi dụng và dùng cường quyền cùng hủ tục
phong kiến miền núi để biến những người lao động thành nô lệ không công, lao
động khổ sai như trâu ngựa để làm giàu cho chúng. Nhà thống lý Pá Tra đã bắt
Mị về làm con dâu trừ nợ! Đã bao lần Mị định trốn về với bố nhưng vì đã bị
trình con ma nhà thống lý nhận mặt nên đành phải cam chịu chờ đến ngày mà
rũ xương ở đây thôi. Sau này A Phủ cũng bị buộc vay nợ nộp phạt và phải ở nợ
đời đời, khơng mong gì thốt ra được. Để củng cố cho chính sách cai trị ấy,
chúng dùng tư tưởng mê tín dị đoan tạo thành một thế lực vơ hình trói buộc và
hù dọa người dân lao động miền núi, làm cho họ sợ hãi, cam chịu trong vịng
kìm kẹp. Cướp vợ về trình ma đã đành, cho vay cúng trình ma. Cảnh Pá Tra đốt
hương khấn vái lầm rầm kêu con ma về nhận mặt người vay nợ tạo nên một
cảnh tượng ma quái hãi hùng như địa ngục trần gian, nơi giam hãm những
người dân vơ tội.
Ngịi bút giàu tính hiện thực của Tơ Hồi cũng đã cung cấp cho độc giả những
trang mô tả về cảnh trói người, đánh người tàn nhẫn hơn cả thời trung cổ.
Chồng MỊ không xem cô là người, chẳng năm nào cho Mị đi chơi ngày Tết.
Khi thấy Mị muốn đi chơi, A Sử liền bước lại xách cả thúng đay trói đứng Mị
lại rồi quấn tóc vợ lên cột nhà làm cho vợ không cúi, không nghiêng đầu được
nữa. Sau đó hắn trói vợ cũng như thắt cái dây lưng, tắt đèn, khép cửa, dửng
dưng lạnh lùng không suy nghĩ, khơng xúc động. Sau này, khi Mị bóp thuốc
cho A Sử, mệt quá thiếp đi, A Sử liền đạp chân vào mặt Mị một cách tàn nhẫn,
phũ phàng. Mà Pá Tra đã có lần trói đứng một cơ con dâu cho đến chết. Đến
lượt A Phủ, bị đánh khi anh dám đánh lại con quan thống lý: A Phủ quỳ giữa
nhà chịu đòn, im như cái tượng đá. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập
chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ kể lể chửi bới. Cứ như thể suốt chiều,
suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh. Chưa ở đâu mạng sống và phẩm giá
con người bị coi nhẹ như thế!
Vợ chồng A Phủ không chỉ vạch trần tội ác của bọn phong kiến miền núi mà
còn phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp lâu nay đang chiếm đóng Tây Bắc.
Bọn chúng đã tìm đến những bản làng xa xôi đốt phá nhà cửa, cướp nhà, cướp
cửa và bắt nhân dân phải đi phục dịch cho chúng.
Vợ chồng A Phủ còn là bức tranh chân thực về cuộc sống đau thương bi thảm
của người lao động miền núi. Dưới hai tầng áp bức của phong kiến và đế quốc
thực dân, người lao động phải chịu đựng biết bao nỗi khổ đau. Cuộc đời của Mị
và A Phủ trước khi bỏ trốn khỏi Hồng Ngài về Phiêng Sa trong lòng bàn tay
cha con Pá Tra là tượng trưng cho nỗi khổ đó. Mị vốn là một cơ gái đẹp mang
trong mình biết bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp. Thế mà kể từ khi bước chân về
làm con dâu trừ nợ, thực chất là nô lệ không công cho nhà thống lý, dưới mắt
tầng áp bức cường quyền, thần quyền và hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải
sống một chuỗi ngày đau thương tăm tối tủi nhục. Mị không chỉ bị hành hạ về
Sự đau khổ tủi cực đã cướp mất tuổi thanh xuân của Mị, biến cô thành một kẻ
cam chịu. Cơ gái Mèo trẻ đẹp, tài hoa, giàu lịng u đời thủa nào giờ gần như
đã chết, chí cịn là người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo trống vắng,
Mị ngày càng khơng nói.
Mị mất hết cảm giác thời gian, không dĩ vãng, không hiện tại, khơng tương lai.
Cuộc đời Mị chỉ cịn thu nhỏ lại qua cái ô cửa sổ bằng bàn tay mờ mờ trăng
trắng không biết sương hay nắng. Mị gần như tê liệt hết sức sống lùi lũi như
con rùa trong xó cửa. Băng những chi tiết ấy, Tơ Hồi đã làm cho bức tranh
hiện thực càng thêm sinh động, vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu.
Sự xuất hiện của nhân vật chính A Phủ cũng bị bắt làm con ở trừ nợ đã làm
hoàn chỉnh thêm bức tranh hiện thực và giá trị tố cáo của tác phẩm. A Phủ là
một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc u chính nghĩa, vốn khơng nợ nần gì nhà
thống lý Pá Tra, lại lao động giỏi, sống phóng khống tự do như con chim trời
giữa núi rừng Tây Bắc. Vậy mà cuối cùng cũng khơng thốt khỏi ách áp bức
của bọn chúa đất phong kiến, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà
thống lý Pá Tra. Chỉ vì dám đánh lại con quan là A Sử trong việc phá đám chơi
ngày Tết mà A Phủ bị bắt về làm đứa ở gạt nợ, làm con trâu, con ngựa cho nhà
thống lý. Cũng như Mị, những ngày sống ở nhà Pá Tra, A Phủ chịu biết bao sự
đày đọa nhục hình cả thể xác lẫn tinh thần. A Phủ gần như tê liệt hết sức phản
kháng. Anh đã từng phải ngồi im như tượng đá để chịu đòn và phải bất lực để
cho những dòng nước mắt chảy trong những đêm bị trói đứng trong góc nhà,
thần chết dường như đã vẽ những nét đen ngòm trên hai hõm má xám đen lại vì
tuyệt vọng và đau khổ của A Phủ.
những con người tự do, những con người tự chủ chiến đấu chống lại mọi thế
lực bạo tàn để xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho mình. Hiểu giá trị nhân đạo
Tác phẩm đã lên án gay gắt thế lực thực dân phong kiến mà điển hình là cha
con thống lý Pá Tra, đã lợi dụng cường quyền, thần quyền, hủ tục phong kiến
miền núi để biến người lao động thành nô lệ không công và đối xử với họ lạnh
lùng, tàn nhẫn như đối xử với con vật. Ngòi bút của Tơ Hồi thấm nhuần tinh
thần nhân đạo thể hiện ở việc đã khám phá ra những nét phẩm chất tốt đẹp của
người lao động và đặt niềm tin, sự trân trọng đối với những khát vọng sống tốt
đẹp của những con người bị đọa đày đau khổ. Đó cũng là sự kế tiếp truyền
thống nhân đạo của dân tộc và phát triển ở mức cao hơn. Tác phẩm cũng chỉ ra
con đường giải phóng thực sự của người lao động từ tự phát đến tự giác, tư tăm
tối đau thương vươn lên dưới ánh sáng của tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đó cũng là sự tỏa sáng của chủ nghĩa nhân đạo mới khác hẳn với chủ nghĩa
nhân đạo thời phong kiến mà một số nhà văn nhà thơ xưa kia trong tác phẩm
của mình đề cao quyền sống của con người, khát vọng tự do của con người
nhưng chưa tìm ra con đường đi cho họ.
Vợ chồng A Phủ đã cho người đọc thấy được một cách chân thực, sinh động về
cuộc sống và con người ở vùng cao Tổ quốc. Tác giả đã lên án những thế lực
phong kiến miền núi, thế lực thực dân xâm lược, thông cảm sâu sắc với số phận
của người nông dân miền núi đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp
của họ. Và tác phẩm sống mãi với thời gian là nhờ có ngịi bút hiện thực sắc
sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn khi viết về đồng bào Tây Bắc
giàu tình nghĩa, thuỷ chung với cách mạng.
Bài tham khảo 2
Tơ Hồi trước 1945 nổi tiếng với tiểu thuyết “Dế mèn phiêu lưu ký”. Đi theo
thống lí (H’Mơng). Dưới chế độ thống trị tàn bạo man rợ của bọn thống lí,
quan bang, những người đi ở trừ nợ như A Phủ, làm con dâu gạt nợ cho nhà
thống lí như Mị là những “kiếp trâu ngựa”, khốn khổ, nhục nhã ê chề. Thật ra
những kiếp người như Mị, như A Phủ là những kẻ nơ lệ ở vùng cao. Bọn thống
lí là một thứ “vua” ở vùng cao, chúng có quyền sinh quyền sát đối với người
dân Tây Bắc.
Chúng có quyền bắt bớ, đánh đập, bắt làm nơ lệ, gả bán, thậm chí có thể
giết người một cách dã man (trong truyện có nhắc đến một người con gái bị trói
đứng rồi chết và A Phủ thì suýt chết). Chỉ trong một truyện ngắn mà tác giả đã
mơ tả được bức tranh tồn cảnh về giai cấp thống trị Tây Bắc, giá trị hiện thực
của tác phẩm thật là sâu sắc. Mị là một cô gái đẹp (tả gián tiếp ví như những
đêm tình mùa xn, con trai đến đứng nhẵn đầu buồng Mị…), tài hoa (biết thổi
khèn, thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi khèn) và giàu tình cảm. Vẻ đẹp của Mị
gợi nhớ Kiều. Sinh ra trong một gia đình nghèo, Mị bị A Sử, con trai thống lí
cướp về làm vợ để trừ nợ. Mị là vợ của A Sử nhưng thực ra chỉ là một người
đầy tớ, một nô lệ của gia đình thống lí. Mị lặng lẽ như một con rùa trong xó
cửa, quanh năm chỉ biết vùi đầu vào những cơng việc lao động nặng nhọc “Tết
“lỗ vuông bàng bàn tay, lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng, không biết là
sương hay là nắng”.
điển hình cho giai cấp thống trị tàn bạo, man rợ của vùng cao Tây Bắc. Mị và
A Phủ - Hai số phận bi thảm là hiện thân của thứ nô lệ của chế độ phong kiến
man rợ ở Tây Bác. Nhưng Tơ Hồi khơng dừng lại ở việc phản ánh bản chất
tàn bạo, dã man của giai cấp thống trị Tây Bắc, nhà văn còn đi sâu vào bản chất
của cuộc sống của dân tộc vùng cao, phản ánh sức sống mãnh liệt của các dân
tộc Tây Bắc và sự vùng dậy chiến thắng của các dân tộc Tây Bắc dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Mị bị trói buộc, bị chà đạp nặng nề, nhưng trong sự câm lặng của Mị tiềm
tàng một sự sống mãnh liệt. Ngày Tết, Mị cũng muốn đi chơi, nhưng bị A Sử
trói vào cột nhà, quấn tóc vào cột. “Cả đêm Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì
khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi
rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa”. Sự đàn áp tàn bạo ấy cũng không
“Xn sắc mãn viên quan bất trú
Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai”
(Du viên bất trị - Chơi vườn không được vào)
phản ánh được sự trưởng thành của các dân tộc Tây Bắc dưới ánh sáng của
Đảng. Đồng thời tác phẩm cũng phản ánh được chính sách nhân đạo của Đảng
đối với các dân tộc anh em là giải phóng người lao động bị áp bức, bóc lột, giải
phóng mọi sức sống đang bị các thế lực thống trị kìm hãm, trói buộc. Chính vì
có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà truyện “Vợ chồng A Phủ” có sức
hấp dẫn và có giá trị bền lâu.
Bài tham khảo 3
Một tác phẩm có giá trị là thơng qua việc phơi bày chân thực về cuộc sống, số
Với Mị, từ đời cha mẹ đã khơng có bạc để cưới nhau, phải đi vay nặng lãi
nhà thống lý Pá Tra mới có thể cưới nhau được. Món nợ ấy theo suốt cuộc đời
cha mẹ Mị và mỗi năm cũng chỉ trả được phần lãi là một nương ngơ. Mẹ Mị
chết, món nợ vẫn cịn đó. Mặc dù khơng muốn, Mị vẫn bị bắt làm con dâu gạt
nợ nhà thống lý Pá Tra. Mị trở thành nạn nhân của món nợ truyền kiếp ấy. Cả
cuộc đời Mị chỉ là sống và trả cho xong món nợ kia.
Cịn với A Phủ, số phận cũng có hơn gì. Vì nghèo đói, cả gia đình A Phủ
đã chết trong một nạn dịch. Cũng vì cuộc sống nghèo khổ mà A Phủ mới bị
người ta bắt đem bán cho một người Thái ở bản dưới. Chốn về những bản vùng
cao mới 10 tuổi, A Phủ đã phải đi làm th để kiếm sống. Ngồi cái vịng vía
đeo trên cổ, A Phủ khơng có bạc, khơng có ruộng. Cho nên mặc dù con gái
trong làng vẫn nói: "Đứa nào có được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt
trong nhà, chẳng mấy mà giàu", vì A Phủ rất giỏi bẫy hổ, săn bị tót lại biết đúc
lưỡi cày…, nhưng A Phủ chẳng thể lấy được vợ. Rồi vì đánh A Sử mà A Phủ
bị buộc phải làm người gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Ta thấy như A Phủ đã
Phủ trong cái kiếp sống trâu ngựa trong xã hội ấy đã làm một bản cáo trạng hết
sức hùng hồn về tội ác của xã hội giai cấp lúc bấy giờ, là nhân chứng sống để
phơi bày cái tàn bạo của xã hội mà giai cấp thống trị đè nén, áp bức, chà đạp
lên cuộc sống của con người như thời trung cổ. Đồng thời trong mảng đời sống
viết về Hồng Ngài những ngày cách mạng chưa được giải phóng cịn làm hiện
lên những bộ mặt quỷ dữ của bọn thống lý Pá Tra, của bọn quan lang thống
quán,. Bọn chúng ngỡ như có thể ăn sống nuốt tươi những con người nghèo
khổ như A Phủ và Mị. Chúng ngang nhiên đánh người, bắt người một cách vô
tội vạ, cuộc xử kiện của bọn quan lang đối với A Phủ thật rùng rợn…. Tác
phẩm đã làm nổi bật những tội ác vô cùng khủng khiếp của chúng để làm đậm
lên bức tranh hiện thực, tăm tối của xã hội thực dân phong kiến ở một vùng núi
cao.
Viết "Vợ chồng A Phủ", Tơ Hồi đã phản ánh sự vận động của tính cách
(từ cam chịu đến vùng đứng lên) của số phận gắn liền với sự vận động của đời
sống xã hội để khẳng định quy luật tất yếu: có áp bức, có đấu tranh. Cái logic
tất yếu của cuộc đấu tranh ấy là đi từ tự phát đến tự giác. Nhưng Tơ Hồi
khơng phản ánh cái quy luật, cái logic tất yếu kia bằng những triết lý khi than
mà bằng sự vận động của hình tượng nghệ thuật.
Mị và A Phủ đã bị dồn xuống con đường cùng. A Phủ nếu không được Mị
cứu thì chắc đã chết trong cảnh bị trói đứng rồi. Mị cứu A Phủ bằng cả một tấm
lòng nhân hậu của mình, bằng niềm cảm thơng của những người cùng cảnh
ngộ. Mị không nghĩ tới việc bỏ trốn bởi Mị sẵn sàng trói thay vào đó cho đến
chết. Nhưng khi cứu được A Phủ, cái bản tính cứng cỏi của một cô Mị năm nào
đã trỗi dậy mạnh mẽ, cái sức sống tiềm tàng ở cái giây phút bị thử thách quyết
chúng tích cực. A Phủ còn trở thành đội trưởng đội du kích tham gia trực tiếp
vào cuộc chiến đấu tiêu diệt đồn bản Pe, giải phóng quê hương.
Với cuộc đời và số phận của hai nhân vật Mị và A Phủ, Tô Hoài đã thể
hiện một cảm quan nhân đạo hết sức mới mẻ và sâu sắc. Tơ Hồi đã trân trọng,
nâng niu những con người, những cuộc đời, những số phận đầy đau thương ấy.
Ở nhân vật Mị, người con gái nghèo khổ này mặc dù là nạn nhân của cái
nghèo truyền kiếp nhưng Mị vẫn là một bông hoa tươi thắm nhất của núi rừng.
Mị chẳng những xinh đẹp mà còn tài hoa. Mị chẳng những có tâm hồn phóng
khống, có tình u mãnh liệt với cuộc sống tự do mà còn là một người có tài
thổi sáo, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Dưới ngịi bút của Tơ Hồi, Mị cịn là
cơ gái có bản lĩnh, một bản lĩnh gan góc, cứng cỏi. Mị sẵn sàng chọn lấy cái
chết để không phải sống nhục, sống đau khổ trong chốn địa ngục trần gian. Khi
bị đè nén đến cùng cực, sức sống tiềm tàng của Mị cũng không hề bị lụi tàn.
Ngược lại, sức sống ấy càng trở nên mạnh mẽ hơn để giúp Mị giải thốt số
phận của mình và sau này đến với kháng chiến. Mị trở thành biểu tượng cho
sức sống, cho vẻ đẹp của những người thiếu nữ vùng cao. Tơ Hồi đã trân
trọng, đã nâng niu trong từng bước đi sự thay đổi trong số phận của người con
gái nghèo khổ này.
Với A Phủ cũng vậy, Tơ Hồi đã đem đến cho nhân vật này những màu sắc
tươi đẹp nhất khi vẽ chân dung cậu bé nghèo khổ đã trở thành người ở gạt nợ
một cách hết sức phi lý, cũng chính là người có tấm lịng hào hiệp, là người mà
con gái trong lịng ai cũng ao ước: "Đứa nào có A Phủ cũng bằng có được con
trâu tốt trong nhà, chẳng mấy mà giàu". A Phủ được thể hiện một cách đậm nét
nhất ở quá trình đến với cách mạng sau này. Nhân vật A Phủ trở thành biểu
tượng cho quá trình giác ngộ, cho sự đấu tranh mạnh mẽ của những người nơng
dân miền núi nói chung. Khắc họa một nhân vật như thế, ngịi bút của Tơ Hồi
đã thể hiện một tinh thần nhân đạo mới, tinh thần nhân đạo công sản: vừa yêu
thương, vừa trân trọng những con người lao động nghèo khổ, lại vừa mở ra cho
họ con đường giải phóng. Từ cuộc đời và số phận của hai nhân vật này, nhà
văn muốn khẳng định những giá trị lớn lao của cuộc sống mới, cuộc sống
kháng chiến đối với cuộc đời của những con người từng chịu bao đau khổ trong
xã hội cũ.
Qua cuộc đời, tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xn, Tơ Hồi đã tố
cáo mạnh mẽ hiện thực xã hội miền núi trước cách mạng với chế độ thống trị
khắc nghiệt, với những phong tục tập quán đã chà đạp, đè nén, vùi dập con
người, cướp đi quyền hạnh phúc của con người, biến mỗi kiếp người trở thành
kiếp trâu, kiếp ngựa. Đồng thời tác giả cũng bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc,
trân thành trước cuộc đời của những con người có số phận bất hạnh. Tơ Hồi
cịn trân trọng, nâng niu những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động miền
núi ở cả Mị và A Phủ, đó là sự trân trọng sức sống tiềm tàng của cả hai nhân
vật này. Đó cũng chính là những giá trị hiện thực và nhân đạo mà tác phẩm
mang lại.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đem đến cho văn nghệ sĩ nước
ta một cuộc tái sinh nhiệm màu. Các nhà văn, nhà thơ đã đứng lên dưới ngọn
cờ cách mạng, với ý thức cơng dân sâu sắc, tích cực sáng tác phục vụ xã hội
mới. Tơ Hồi là một trong những nhà văn hiện thực sớm đến với cuộc sống lớn
Trong Vợ chồng A Phủ, Tơ Hồi kể về cuộc đời đầy gian trn và đau khổ
của hai vợ chồng người Mèo là Mị và A Phủ. Họ vốn là những người nô lệ
trong nhà thống lí Pá Tra; Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ, A Phủ vì dám đánh
bại con trai nhà thống lí nên cũng phải làm người ở để đền tội với chủ.
Trong cảnh ngộ tối tăm ấy, họ đã gặp gỡ, đồng cảm và giúp nhau thoát
khỏi nhà Pá Tra tìm đến vùng Phiềng Sa. Tại đây họ đã trở thành vợ chồng.
Giữa lúc bọn lính Pháp đến đánh phá và cướp bóc ở Phiềng Sa, cán bộ của
Đảng đã đến để giúp đồng bào các dân tộc tự bảo vệ cuộc sống của mình. Mị
và A Phủ gặp A Châu, một cán bộ của Đảng, kết làm anh em rồi thành đội viên
du kích. Nhớ lại thời điểm sáng tác Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hồi viết:
“Câu chuyện Vợ chồng A Phủ của tơi đã xây dựng được bằng mắt thấy tai nghe
và cảm nghĩ về những con người và sự việc ấy trong cuộc chiến đấu giải phóng
quê hương của các dân tộc thiểu số anh em ở biên giới Tây Bắc của đất nước".
Qua câu nói đó, chúng tơi đã nhận thấy giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của
tác phẩm đã được nhà văn Tơ Hồi xây dựng một cách có ý thức.
Giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ thể hiện trước hết ở việc trình bày
chân thực cuộc sống đau thương, tăm tối đầy bi kịch của người dân miền núi
Tây Bắc dưới ách phong kiến nặng nề và sự bóc lột của thực dân Pháp. Giá trị
hiện thực của tác phẩm còn gắn liền với sự tố cáo, vạch trần tội ác của bọn
phong kiến (thống lí, thổ li, lang đạo) ở vùng cao.
cả đêm lẫn ngày”. Lẽ ra trong cuộc sống bình thường những người con gái như
Mị phải được vui chơi, đi dự hội hè, tìm thấy tình yêu và hạnh phúc cho mình.
Nhưng ngược lại, đến ngày Tết, A Sử lại đi chơi với bạn trai, cịn Mị thì bị trói
đứng trong buồng tối.
Cùng chung nghịch cảnh với Mị là A Phủ, nhân vật trung tâm thứ hai của
truyện. Nếu Mị là hình tượng tượng trưng cho cái đẹp bị vùi dập thì A Phủ
tượng trưng cho sự sống, sức lao động và lòng khao khát tự do của con người
bị kìm hãm. A Phủ chạy nhanh như con ngựa, biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, cày
bừa rất giỏi và săn bị tót rất thành thạo. Lẽ ra con người đó phải được tự do
giữa núi rừng để phát huy sức mạnh của mình. Nhưng chỉ vì A Phù bất bình
phản ứng, đánh lại A Sử, kẻ đã phá vỡ cuộc vui ngày Tết, mà A Phủ đã bị bắt
về làm kẻ nô lệ trong nhà thống lí, ở đây anh phải đi đốt rừng, săn bị tót, bẫy
hổ, chăn ngựa quanh năm. Một lần để cho hổ ăn thịt mất một con bò mà A Phủ
bị thống lí trói đứng suốt mấy ngày trong góc nhà. Hình tượng A Phủ thể hiện
một cuộc sống bị trói buộc, tượng trưng cho sức lao động bị bóc lột và đè nén.
Giá trị hiện thực của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ khơng chỉ bộc lộ qua
việc trình bày chân thực cuộc sống đầy bi kịch của nhân dân miền núi Tây Bắc
nói chung, đồng bào dân tộc H’Mơng nói riêng mà cịn thể hiện qua việc khắc
họa những bộ mặt tàn bạo của cha con thống lí Pá Tra và A Sử của bọn lí dịch,
quan lại, thống quản. Đây là nguyên nhân trực tiếp gây nên nỗi khổ của những
người dân thấp cổ, bé miệng như Mị và A Phủ. Bộ mặt tàn bạo của chúng
không chỉ hiện ra qua những hành động đánh đập dã man đối với kẻ ăn người ở
Xã hội phong kiến Việt Nam vốn đã lạc hậu, nói về nguyên nhân của
những bi kịch mà người dân miền núi phải chịu đựng, Tơ Hồi cho rằng đứng
đằng sau thế lực phong kiến tại chỗ là bóng dáng của quân đội xâm lược
phương Tây tràn đến. Trong bức tranh hiện thực của tác phẩm Vợ chồng A Phủ
hình ảnh giặc Pháp hiện lên như là chỗ dựa, là thế lực mà bọn phong kiến vùng
cao sẵn sàng cấu kết để duy trì ách thống trị của chúng. Người dân Tây Bắc chỉ
có thể sống được một cuộc đời ấm no, hạnh phúc khi này chấm dứt được cả hai
thế lực trên đây. Vấn đề áp bức giai cấp gắn liền với vấn đề áp bức dân tộc là
một nét căn bản tạo nên giá trị hiện thực của Vợ chồng A Phủ.
nhà ba ngày, rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhờ thế Mị sợ quá, Mị
cựa quậy xem mình cịn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết
lại, đau đứt từng mảnh thịt”. Đọc đến đây ta nhớ lại câu thơ của Nguyễn Du:
“Đau đớn thay phận đàn bà”.
Đó là nỗi đau của thân xác, cịn nỗi đau tinh thần? Trong hồn cảnh bị trói
buộc Mị nghĩ rằng minh đành ngồi trong một nhà tù chật hẹp nhìn qua một lỗ
vng mà trơng đợi cho đến bao giờ chết mới thôi. Dù vậy, khát vọng làm
người hạnh phúc khơng bao giờ lụi tàn trong lịng Mị. Nghe tiếng sáo thổi
trong rừng, Mị tha thiết nhớ lại những ngày xuân tươi đẹp của mình và tràn trề
một lịng ham sống. Ngịi bút nhân đạo của Tơ Hồi đã khơng dửng dưng với
khát vọng đó của Mị.
Giá trị nhân đạo của Vợ chồng A Phủ cịn có thể tìm thấy qua việc nhà văn
Giá trị Vợ chồng A Phủ không tách rời với đường lối cách mạng và chính
sách dân tộc Đảng Cộng sản là giải phóng những người lao động bị áp bức bóc
lột, giải phóng mọi sức sống và vẻ đẹp bị các thế lực đen tối kìm hãm, trói
buộc.
<b>Bài làm 4</b>
Tây Bắc là tập truyện ngắn của Tơ Hồi được nhận Giải thưởng của Hội Văn
học - Nghệ thuật 1954 - 1955. Trong tập Tây Bắc. "Vợ chồng A Phủ" truyện
ngắn đặc sắc hơn cả. Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, nhà văn
dựng lại quãng đời tăm tối, đau khổ của người dân miền núi trước Cách mạng,
nhà thống lí Pá Tra. Đó là qng đời tăm tối, bị đối xử như con trâu, con ngựa.
Giai đoạn sau, khi ở Phiềng Sa là một cuộc sống khác hẳn, Mị và A Phủ đã đổi
đời, đứng lên chiến đấu đê bảo vệ mình, bảo vệ đất nước. Như vậy, phản ánh
hiện thực, tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã chọn hai đề tài chính: đề tài về cuộc
sống bị áp bức, tủi nhục của người dân miền núi dưới chế độ nơ lệ thực dân và
cùng với nó là bộ mặt tàn bạo của bọn “thổ ti lang đạo” cuối cùng là đề tài về
sự thức tỉnh của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc vùng dậy chiến đấu để
giải phóng và tự giải phóng.
Trước hết, Vợ chồng A Phủ là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm
của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến
thực dân được phản ánh qua cuộc đời Mị và A Phủ.
Mị là một có gái trẻ đẹp, giàu lịng u đời, chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đã
từng được yêu và có những đêm tình mùa xn hạnh phúc. Nhưng vì món nợ
truyền kiếp của cha mẹ mà Mị bị cướp về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí
Pá Tra. Mị bị biến thành nông nô, bị chà đạp cả về nhân phẩm lẫn thể xác.
Quãng đời sống trong nhà thống lí là một quãng đời đau thương, tăm tối, áp
bức nặng nề đã biến một cô gái hồn nhiên, đa cảm thành hiện thân của nhẫn
nhục, cam chịu. Mị sống câm lặng lầm lũi, quanh năm vùi đầu vào những cơng
việc khổ sai. Mị cịn bị ràng buộc bởi mê tín thần quyền. Một khi đã đem ra
“cúng trình ma” thì người đàn bà phải tn theo sự trói buộc vơ hình suốt cả
một đời. Cho nên, biết khố, biết nhục, biết mình bị đày đọa nhưng khơng dám
phán kháng chống lại sự đày đọa khổ nhục ấy. Hơn nữa, những con người như
Mị thật bé nhỏ trước thế lực tàn bạo của cường quyền. Bị giam hãm trong “địa
ngục trần gian'’ của nhà thống lí Pá Tra, Mị chết mòn theo ngày tháng, Mị “lúc
nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, “lùi lũi như như con rùa ni trong xó
thực phản ánh áp bức kiểu trung cổ miền núi. Hủ tục đó đã đẩy biết bao người
nghèo vào thảm cảnh của sự cùng cực đói khổ. Những hủ tục ấy vừa tiếp tay
vừa là cóng cụ cho bọn phong kiến thống trị người dân, chà đạp lên nhân phẩm
của họ. Việc A Phủ bị bắt làm nơ lệ nhà thống lí Pá Tra càng tăng thêm sức tố
cáo của tác phẩm.
Hết ngày này qua ngày khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt đàn bò,
hàng mấy chục con. Chắng may một con bò bị hổ vồ mất, A Phủ bị đánh trói
vào cột chờ chết. Trong tay bọn thống trị, tính mạng con người thật bằng một
con vật.
Cuộc đời nô lệ khổ đau của Mị và A Phủ là điển hình cho thân phận người
ngheo miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân
phẩm đối xử với con người khơng bằng con vật, đó là bản chất cùa chế độ “thổ
ti lang đạo”.
Giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện trong những nội dung miêu tá
cảnh tàn bạo của bọn chúa đất phong kiến và bè lũ thực dân. Điều này được thể
hiện sâu sắc qua hình ảnh cha con thống lí Pá Tra trong mối quan hệ với Mị và
A Phủ.
Nhà Pá Tra giàu có. nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thc phiện. Hắn làm
giàu bằng việc bóc lột sức lao động, bằng chế độ lao dịch, bằng cho vay lãi
nặng rồi bắt người ta để trừ nợ. Cha con thống lí cịn rất nhẫn tâm. Tơ hồi đã
Phản ánh hiện thực khốn khổ của nhân dân Tây Bắc, Tơ Hồi khơng tơ vẽ
khơng nói q sự thật. Tất cả đều được hiện lên như một bức tranh chân thực
sống động. Tài năng và cũng là đóng góp của Tơ Hồi là đã làm cho bức tranh
hiện thực về miền núi cao Tây Bắc trở nên hết sức phong phú với những chi
tiết phong phú và sinh động về cuộc sống con người. Đó là vì Tơ hồi có một
thời gian đi thực tế và cũng ăn cùng sống với nhân dân nên mới có một vốn
sống thực tế đáng quí như thế.
bừng lên. Cách nhìn của nhà văn trong tác phẩm hết sức nhân bản. Tác giả đã
dồn bút lực tập trung khắc họa diễn biến tâm lí hồi sinh của Mị. Đó là vào một
đêm tình mùa xuân” Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một”. Mị sống
với quá khứ tuổi xuân của mình” trong đầu Mị rập rờn những tiếng sáo đưa Mị
đi theo những cuộc chơi”.” Mị thấy phơi phới trở lại”.” Mị còn trẻ, Mị vẫn còn
trẻ lắm, Mị muốn đi chơi”. Giữa lúc lòng ham muốn trỗi dậy mãnh liệt nhất, A
Sử đã phũ phàng dập tắt. Những những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức
tỉnh để dẫn tới hành động cắt dây trói giải cứu A Phủ ở đoạn tiếp đó.
Trước cảnh A Phủ bị trói, bắt gặp “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại” Mị thốt lên trong lòng ”Trời ơi! Nó bắt trói người ta
Nhà văn đã rất thấu hiểu nỗi khổ của người dân miền núi, từ đó thấy được
sự thức tỉnh, sự vùng dậy của họ, trước hết là thoát khỏi dây trói của cường
quyền và thần quyền. Rồi họ dừng lại ở Phiềng Sa, thành vợ chồng và đi theo
cách mạng.
Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ. Tiêu biểu cho con
đường đến với Đảng, đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở
miền núi Tây Bắc. Tơ Hồi khi tái hiện bức tranh hiện thực với những nét bản
chất của nó, khơng thể khơng miêu tả q trình vận động mang tính qui luật
của cuộc sống. Đây cũng là giá trị nhân đạo và tiến bộ của Vợ chồng A Phủ.
<b>Bài làm 5</b>
Văn xuôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) thực sự là một q
trình thí nghiệm, kiếm tìm sự phù hợp mới giữa nghệ thuật và đời sống. Thời
gian ngắn, số lượng tác phẩm cịn lại được đến hơm nay khơng nhiều, nhất là ở
hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Chúng ta đặc biệt trân trọng những
phẩm kết tinh được bước phát triển của chặng đường văn học đặc biệt này,
trong đó có truyện ngắn xuất sắc Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi.
dưới làm sao thốt được ! Pá Tra xảo quyệt, lợi dụng tục lệ của người Mèo, cho
cướp Mị về. Thế là khơng có cưới hỏi, khơng cần tình u mà vẫn hồn tồn
hợp lẽ. Có ai dám bênh vực Mị ! Ngịi bút hiện thực tỉnh táo của Tơ Hồi đã
phanh trần bản chất bóc lột giai cấp ẩn sau những phong tục tập quán. Cô Mị,
tiếng là con dâu nhưng thực sự là một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải mua
mà lại được tha hồ bóc lột, hành hạ. Mị ở nhà chồng như ở giữa địa ngục.
Suốt ngày “Mị lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, lúc nào cũng có mặt,
thế giới của Mị thu hẹp trong một cái ô cửa sổ “mờ mờ trăng trắng, không biết
là sương hay là nắng”. Kết quả của hồn cảnh sống thật chua xót: “ở lâu trong
cái khổ Mị quen rồi”, cố nhẫn nhục, cam chịu đến thành tê liệt ý thức: “là con
trâu con ngựa phải đổi từ cái tàu ngựa nhà này sang ở cái tàu ngựa nhà khác,
con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết làm mà thơi”. Ai có thể ngờ cơ gái trẻ trung,
yêu đời ngày nào thổi sáo hồi hộp chờ đợi người yêu, đã từng hái lá ngón định
ăn để khơng chịu nhục, giờ đây lại chai lì, u mê đến thế. Quả thật hồn cảnh
quyết định tính cách. Ngun tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực đã được
nhà văn tuân thủ nghiêm ngặt. Sự yếu đuối của kẻ nơ lệ, sự vùi dập tàn bạo của
bọn bóc lột tất sẽ dẫn đến cảnh ngộ bi đát ấy. Nỗi khổ nhục của cơ gái Mèo này
đã có thể so sánh với nỗi nhục của Chí Phèo khi “đánh mất cả nhân tính lẫn
nhân hình" (Thật ra, Chí Phèo cịn có lúc nghênh ngang, cịn doạ nạt được
người khác). Nếu xem xét giá trị hiện thực của một tác phẩm như là sự phản
ánh chân thực cuộc sống, thì Vợ chồng A Phủ quả là bản cáo trạng hùng hồn về
nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi, vừa chịu gánh nặng của chế độ bóc
lột phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần quyền. Tâm lí nơm
nớp lo “con ma nhà thống lí” đã nhận mặt mình từ buổi bị bắt về “cúng trình
ma” một ám ảnh ghê gớm đè nặng suốt cuộc đời Mị (ngay cả đến khi cơ đã trốn
thốt khỏi Hồng Ngài). Xem thế đủ thấy bọn thống trị cao tay đến nhường nào
trong nghệ thuật “ngu dân” để dễ trị.
Có thể nói nhà văn đã khơng hà tiện cung cấp cho người đọc những chi tiết
có giá trị bóc trần bản chất xã hội vơ nhân đạo. Ở đó thân phận người nghèo
mới mong manh bất ổn làm sao! Ta sững sờ trước cảnh cô Mị lặng lẽ ngồi hơ
lửa trong những đêm đông buốt giá, thằng chồng đi chơi về khuya ngứa tay
cũng đồng thời là kẻ ngồi ghế quan tồ thì nói gì tới cơng lí nữa! Vậy nên mới
có cái cảnh xử kiện qi gở nhât trên đời mà chúng ta được chứng kiến tại nhà
thống lí. Kết quả là người con trai khoẻ mạnh phóng khống vì lẽ cơng bằng
mà phải đem cuộc đời mình trả nợ nhà quan.
Cảnh ngộ của hai nhân vật Mị và A Phủ ít nhiều gợi đến những Chí Phèo,
chị Dậu, những thím Tường Lâm... Đó là những hình tượng nghệ thuật được cơ
đúc từ chính cuộc đời đau khổ trong xã hội cũ.
ngày tàn nhẫn này sẽ lưu giữ trong lòng Mị như một vết bỏng rát để đến khi bắt
gặp những dòng nước mắt chảy “lấp lánh” trên gị má hốc hác của A Phủ, nó đã
biến thành sự đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng khổ. Tồn bộ ý thức
phản kháng của Mị hiện hình qua một câu hỏi sáng rõ: “Người kia việc gì phải
chết?”. Mị quyết định trong khoảnh khắc: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Và
tất nhiên, Mị cũng bỏ trốn, tự giải thốt chính mình. Hai kẻ chạy trốn chịu ơn
nhau, cảm thông nhau, dựa vào nhau để tạo lập hạnh phúc, nhưng khi cái đồn
Tây lù lù xuất hiện và lại có cha con thống lí Pá Tra về ở trong đồn, thì họ thật
sự bị dồn đến chân tường. Trước mắt họ, chỉ còn sự lựa chọn cuối cùng: trở lại
kiếp nô lệ hay chống kẻ thù. Chắc chắn họ thà chết còn hơn lại sống như cũ.
Nhưng muốn chống kẻ thù, họ trông cậy vào ai? Cách mạng đã đến với họ
đúng giây phút ấy. Mị và A Phủ đi theo cách mạng, sẽ thủy chung với cách
mạng như một lẽ tất yếu!
Bằng sự am hiểu cuộc sống và khả năng phân tích những vấn đề xã hội sắc
bén, nhất là bằng ngịi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Tơ Hồi đã tái hiện chân thật
Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng chứa đựng thái độ của nhà văn đối với
cuộc sống, trước hết là với con người. Ngay giá trị hiện thực của Vợ chồng A
Phủ đã để lại ra cái nhìn nhân đạo, ưu ái của Tơ Hồi. Khi cơ đúc nỗi cùng
khốn vào hai thân phận nô lệ với ý thức làm một bản cáo trạng về xã hội cũ, Tơ
Hồi đã gợi lên trong chúng ta sự căm phẫn, sự đau xót, sự cảm thông. Khi
miêu tả buổi lễ ăn thề giữa A Châu và A Phủ như là cuộc nhân duyên giữa
quần chúng và cách mạng, ông đem lại niềm tin về một tương lai sáng sủa cho
những người bị áp bức.
mê mụ, trong tro tàn của lòng cơ vẫn cịn âm ỉ đốm than hồng của niềm ham
sống, khát khao thương yêu. Nếu nhà văn chỉ tuân theo một thứ hiện thực
khách quan lạnh lùng thì làm sao ơng có thể đón đợi và nắm bắt tài tình giây
phút sống lại bất ngờ và mãnh liệt đến thế của cô gái. Không, trước sau ông
vẫn tin rằng hồn cảnh dẫu có khắc nghiệt đến mấy, cũng khơng thể tiêu diệt
hồn tồn nhân tính. Mị đã sống lại băng luổi trẻ, bằng nổi day dứt về thân
nhân của mình. Chính cái khát vọng sống mãnh liệt khơng thể chết được ở Mị,
làm cho Mị đồng cảm với cảnh ngộ của A Phủ và đi đến quyết định giải thoát
cho A Phủ, giúp Mị tự giải thoát khỏi cái chốn địa ngục để làm lại cuộc đời, để
được sống như một con người.
Tô Hoài đã trân trọng từng bước trưởng thành của Mị và A Phủ. Cái nhìn
<b>Bài làm 6</b>
“Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm tiêu biểu của Tơ Hồi được rút từ tập Truyện
Tây Bắc của nhà văn Tơ Hồi sáng tác năm 1953. Đây là một thành công xuất
sắc của Tô Hoài sau cách mạng, là thành tựu của văn học kháng chiến chống
Pháp đồng thời là tác phẩm tiêu biểu về đề tài miền núi. Với lối dẫn dắt tự
nhiên hấp dẫn, truyện đã chinh phục nhiều độc giả. Qua đó dưới ngịi bút của
Tơ Hồi , 2 giá trị lớn càng sâu sắc hơn , giá trị hiện thực và nhân đạo.
Vợ chồng A Phủ đã phản ánh được một cách khá chân thực và sinh động bức
tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng Điện
Biên. Cách khai thác của tác giả đã tạo ra thành cơng có ý nghĩa khai phá về đề
tài miền núi trong văn học Việt Nam.
Tơ Hồi cũng đã cho độc giả những trang mơ tả về cảnh trói người, đánh người
tàn nhẫn hơn cả thời trung cổ. Ngay tới cả chồng Mị cũng không xem Mị là
người, chẳng năm nào cho Mỵ đi chơi ngày Tết. “Khi thấy Mỵ muốn đi chơi, A
Sử liền bước lại xách cả thúng đầy trói đứng Mị lại rồi quấn tóc vợ lên cột nhà
làm cho vợ khơng cúi, khơng nghiêng đầu được nữa. Sau đó hắn trói vợ cũng
như thắt cái dây lưng tắt đèn, khép cửa, dửng dưng lạnh lùng không suy nghĩ,
không xúc động”. Ngay cả khi A Sử bị thương thì Mỵ bóp thuốc cho A Sử, mệt
quá thiếp đi. A Sử liền “đạp chân vào mặt Mỵ” một cách tàn nhẫn, phũ phàng.
Tàn nhẫn hơn thế nhà thống lí Pá Trađã có lần trói đứng một cơ con dâu cho
A Phủ cũng k phải là ngoại lệ , bị đánh khi anh dám đánh lại con quan thống lý:
“A Phủ quỳ giữa nhà chịu đòn, im như cái tượng đá”. Mặt A Phủ sưng lên, môi
và đuôi mắt dập chảy máu. “Người thì đánh, người thì quỳ kể lể chửi bới. Cứ
như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh”. Chưa ở đâu
mạng sống và phẩm giá con người bị coi nhẹ như thế.
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ không chỉ vạch trần tội ác của bọn phong kiến
miền núi mà còn phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp lâu nay đang chiếm
đóng Tây Bắc..
Khơng chỉ dưng lại với giá trị hiện thực, mà còn ẩn chứa những giá trị nhân
đạo sâu sắc. Từ chính niềm cảm thông sâu sắc đối vối nỗi đau của con người,sự
trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng
vươn dậy của họ. Và trong tác phẩm chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu
thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà cịn hướng tới, nhằm
giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích áp bức khổ ,xây dựng cuộc sống
hạnh phúc cho mình. Cách kết truyện khi Mỵ và A phủ tháo chạy,đi tìm miền
đất mới .. là một trong số những nét tiêu biểu này.
Trong tác phẩm , tác giả còn muốn lên án gay gắt thế lực thực dân phong kiến
mà điển hình là cha con thống lý Pá Tra, đã lợi dụng cường quyền, biến người
lao động thành nô lệ không công và đối xử với họ lạnh lùng, tàn nhẫn như đối
xử với con vật.
Hơn thế, Tác phẩm” Vợ chồng A Phủ” cũng góp phần chỉ ra con đường giải
phóng thực sự của người lao động từ tự phát đến tự giác, từ tám tối đau thương
vươn lên dưới ánh sáng của tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những giá trị này
thật sự mới so với những tác phẩm cùng thời.
Truyện Vợ chồng A Phủ góp phần tái hiện một cách chân thực và sâu sắc
những giá trị về cuộc sống, những triết lí sống nhân văn, những sự cảm thơng
của chính tác giả với đứa con tinh thần của mình.Qua tác phẩm, Tơ Hồi đã lên
án những thế lực phong kiến miền núi, thế lực thực dân xâm lược; và ông đặc
biệt thông cảm sâu sắc với số phận của người nông dân miền núi đồng thời
khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ.
Trước và sau khi sáng tác truyện này, Tơ Hồi đã và vẫn giữ một tình cảm sâu
nặng với đồng bào miền núi. Ơng từng sống chung với họ, ơng học một ít tiếng
Thái, Hmông để giao tiếp, từng đọ tay kết làm anh em với một số người, từng
nhận một người con Hmông làm con nuôi, từng là bạn thân của nhiều cán bộ
lãnh đạo người miền núi. Có thể nói Vợ chồng A Phủ cũng như các truyện khác
trong Truyện Tây Bắc là kết tinh của vốn sống, vốn hiểu biết và nhất là tình
u thương, lịng kính trọng của nhà văn đối với người dân miền núi Tây Bắc
nước ta.
"Vợ chồng A Phủ" và cả tập "Truyện Tây Bắc" có một vị trí chắc chắn trong
văn học đương đại Việt Nam. Nó mở rộng đề tài văn học sang những vùng núi
hẻo lánh chưa được nhà văn đào xới. Nó nhìn nhận con người miền núi với một
tình cảm trân trọng, yêu thương, gần gũi. Và chủ yếu là truyện ngắn đã xây
dựng được những hình tượng sống động làm người đọc nhớ mãi. Tác phẩm đã
được nhà văn chuyển thể và dựng thành phim.
Bản thân truyện "Vợ chồng A Phủ" đã được viết đi viết lại mấy lần. Văn
bản hiện nay là kết quả của lần viết thứ ba, khác nhiều so với lần đầu tiên. Tuy
vậy tác giả vẫn thấy thành công chưa đều. “Phần sau truyện còn lỏng lẻo so với
phần trước”. Phần sau là phần kể vợ chồng A Phủ sau khi đến Phiềng Sa, Tơ
Hồi vẫn mong được viết lại. Trong kịch phim "Vợ chồng A Phủ" ông đã viết
hay hơn, được nhà văn Nguyễn Tuân khen. Nhưng câu chuyện viết lại không
Chủ đề của truyện "Vợ chồng A Phủ", theo lời Tơ Hồi phát biểu vào năm
1960 là: “Nông dân các dân tộc Tây Bắc bao năm gian khổ chống đế quốc và
bọn chúa đất. Cuộc đấu tranh giai cấp, riêng ở Tây Bắc, mang một sắc thái đặc
biệt. Nhìn lướt qua nơi thế lực phong kiến còn đương kéo lùi đất nước lại hàng
trăm năm trước”, nhưng “các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng. Họ đã thức
tỉnh. Cán bộ của Đảng tới đâu thì các dân tộc đứng lên tới đấy, trước nhất là
những người trẻ tuổi. Họ thật đẹp và yêu đời… còn một phút sống vẫn còn chờ
đợi, vẫn mong, vẫn tin một ngày bình yên, yên vui của tình yêu và của đất
nước”. Hơn 40 năm sau, khoảng năm 1994, Tơ Hồi lại nhấn mạnh đến số phận
đắng cay của người phụ nữ miền núi, ngoài việc lao động cực nhọc, cịn bị mê
tín, thần quyền cầm tù trong tinh thần. Nhưng tình yêu và tuổi trẻ đã chiến
thắng tù ngục phong kiến và thần quyền. Cuộc kháng chiến của các dân tộc đã
đưa học lên con đường chiến đấu bảo vệ hạnh phúc của chính họ. Tác giả đặc
biệt lưu ý tới vẻ đẹp của tuổi trẻ và tình yêu của họ, vẻ đẹp của tâm hồn Mị
trong giờ khắc cắt dây cứu thoát cho A Phủ và cho chính mình. Có thể coi đó là
những gợi ý để đi sâu phân tích nội dung và nghệ thuật tác phẩm.
cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” – Đó là nét mặt mn thuở của cơ dâu trừ
nợ, một sản phẩm của chế độ bóc lột nợ lãi miền núi.
Bố mẹ Mị vay tiền của thống lí để làm đám cưới, mỗi năm trả lãi một nương
ngô. Mười mấy năm, bố mẹ đẻ ra Mị, Mị đã lớn, rồi mẹ Mị đã chết, bố Mị già
yếu mà vẫn không trả hết nợ! Nhà thống lí bắt Mị về làm dâu gán nợ. Sau này
A Phủ cũng bị buộc vay nợ nộp phạt và phải ở nợ. “Bao giờ có tiền thì cho về,
Hai từ “trâu ngựa” trong miệng thống lí Pá Tra nói ra hồn tồn khơng phải
là nói theo nghĩa bóng, mà là theo nghĩa đen. Mị về làm dâu chỉ có vùi vào việc
cả đêm lẫn ngày. Quanh năm suốt tháng, lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những
việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt… Tết xong thì lên núi hái thuốc
phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù đi hái
củi, lúc bung ngơ, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi. Bao
giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.
Chồng Mị không xem Mị là người, “chẳng năm nào cho Mị đi chơi Tết”.
Khi thấy Mị muốn đi chơi, A Sử liền bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai
tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xỗ
xuống, nó quấn ln tóc lên cột, làm cho Mị khơng cúi, khơng nghiêng được
đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi tắt đèn, khép cửa
buồng lại. Hắn trói vợ cũng như thắt cái dây lưng, tắt đèn khép cửa, dửng dưng,
lạnh lùng, không suy nghĩ, khơng xúc động! Đoạn sau, khi Mị bóp thuốc cho A
Sử, mệt quá thiếp đi, A Sử tàn nhẫn “đạp chân vào mặt Mị”. Nhà Pá Tra đã có
lần trói đứng một người con dâu cho đến chết. Đến lượt A Phủ cũng bị trói
đứng như vậy! Có thể nói đó là một tục lệ đã mất hết nhân tính.
Củng cố cho tục lệ ấy là tư tưởng mê tín dị đoan. Cướp vợ về, trình ma, cho
người vay nợ, cũng trình ma. Một thế lực vơ hình trói buộc và hù doạ người
dân lao động miền núi, làm cho họ sợ hãi, cam chịu, nằm im trong kìm kẹp.
Cảnh tiếng nhạc sinh tiền cúng ma rập rờn, cảnh Pá Tra đốt hương lầm rầm
khấn ma về nhận mặt người vay nợ vàng tăng thêm khơng khí khủng khiếp nơi
miền núi âm u, ma thiêng nước độc. Tác giả đã khắc hoạ được sâu sắc cảnh địa
ngục trần gian, nơi giam hãm những người dân lao động vơ tội. Đó là một bản
Nhà văn khắc họa không nhiều, nhưng chỉ vài nét mà người đọc không quên
được bộ mặt tàn nhẫn, mất hết tính người của chúng.
Mị là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của truyện Vợ chồng A Phủ . Mị là
hiện thân cho tuổi trẻ miền núi bị vùi dập và đã vùng lên tự giải thốt cho mình.
Mị là linh hồn của truyện Vợ chồng A Phủ.
Mở đầu tác phẩm, Tô Hồi giới thiệu Mị là một cơ gái lúc nào làm gì cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Đó là hình bóng của con người bị chà đạp và tuyệt
vọng. Nhưng Mị là ai, những ai đứng ngoài hoặc làm khách của nhà thống lí thì
khơng thể hiểu được. Phải là người nghèo ở Hồng Ngài, những người cùng số
phận với Mị mới hiểu Mị.
Đời Mị trong tác phẩm có thể chia làm bốn đoạn: Đoạn trước khi làm dâu,
đoạn mới về làm dâu, đoạn làm dâu đã quen và đoạn cứu A Phủ rồi bỏ trốn
cùng A Phủ. Ta hãy phân tích nhân vật Mị theo bốn chặng đường đời đó.
Trước khi bị bắt về làm dâu trừ nợ, Mị là người con gái hạnh phúc. Cô yêu
đời, thổi kèn lá cũng hay như thổi sáo. Cô đã trải qua những đêm tình mùa
xuân say mê. “Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị lại có khát
vọng tự do, muốn làm chủ đời mình. Khi nhà Pá Tra muốn lấy cơ về trừ nợ, bố
Mị chưa kịp có ý kiến gì, thì Mị đã nói ngay: “Con làm nương ngô trả nợ thay
cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Khi bị cướp về làm dâu, bị trình ma nhà thống lí, Mị đã đau đớn, uất ức. “Có
đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cơ khơng thể chấp nhận thân phận
làm nơ lệ cho nhà giàu. Cơ hái lá ngón (thứ lá độc), hai mắt đỏ hoe, về chào bố
để đi chết. Nhưng cơ chết thì bố phải trả nợ, mà bố thì đã quá già yếu rồi. Cô
không thể chết. “Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất”. Mị
khóc cho đời mình, cho số phận mình. Mị ném nắm lá ngón như ném cái khát
vọng được giải thốt cho riêng mình! Từ đây, Mị sẽ khơng nghĩ về mình nữa,
cơ chỉ sống làm trâu ngựa để trả nợ cho bố mà thôi!
một cách tuyệt vọng như thế! Mị cam chịu thân phận của con rùa ni trong xó
cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng con kín mít trơng ra cái cửa sổ vng mờ mờ
trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thơi”.
Nhưng đó chỉ là một phần trong con người của Mị. Chỗ sâu sắc của tác giả,
tấm lòng nhân đạo của tác giả khơng chỉ biểu hiện ở tình cảm xót thương Mị, ở
việc tố cáo thói tục phi nhân tính của tầng lớp thống trị, mà cịn thể hiện ở việc
nhìn ra con người bên trong của Mị và đặt trọn niềm thương yêu vào đó.
Như trên đã nói Mị có một tuổi trẻ hạnh phúc, có một tính cách muốn làm
chủ đời mình. Tính cách ấy khơng bao giờ chết, nó chỉ tạm thời bị nén xuống
để khi có dịp lại bùng lên. Dịp ấy là một mùa xuân Tết đến, mấy năm sau, khi
đầu núi có tiếng sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo thiết tha, bổi hổi, tự
nhiên ngồi nhẩm thầm bài hát. Trong khơng khí đón tết của mọi người “Mị
cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu của
Mị như báo hiệu một hành động nổi loạn chống lại thân phận mà chính Mị
chưa ý thức rõ rệt. “Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng…
nhưng lịng Mị thì đang sống về ngày trước”. Cơn say đã giúp Mị quên đi tình
cảnh hiện tại để sống với đêm tình ngày xưa. Thời gian ngày trước như hiện về.
Mị đang sống với hai con người: con người thực tại, theo qn tính thì “đứng
Nhói lên trong tâm tư Mị một tình cảm thương xót mình: “Mị trẻ lắm. Mị
vẫn cịn trẻ”, một tình cảm ốn hờn: “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi
ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, khơng có lịng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau”, rồi đột khởi, một tình cảm uất hận: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc
này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Thế là con người
đích thực tâm linh trong Mị đã sống lại, hồ lẫn với con người thực tại, làm cho
cơ ở vào trạng thái mộng du, vừa sống trong không gian thực tại, vừa sống với
thời gian quá khứ, chập chờn, bất định. Mị thêm mỡ vào đèn, quấn lại tóc, lấy
cái váy hoa… như sống trong thực tại, nhưng thực ra thì Mị đang sống trong
mơ. Cơ khơng nghe A Sử hỏi, cơ cũng “khơng biết mình đang bị trói”, tai vẫn
nghe tiếng sáo đưa Mị đi chơi. Chỉ khi vùng bước đi mà không được, tay chân
đau không cựa được, cơ mới thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa. Nhưng
khuya, nghe tiếng chó sủa xa xa, cơ lại qn ngay hiện tại, nín khóc và lại bồi
hồi với cuộc sống trong mộng, lúc mơ, lúc tỉnh.
một tấm lòng nhân đạo tha thiết, hiểu thấu những đường nét quanh co, bí ẩn
của nó.
Đỉnh cao trong cuộc nổi loạn chống lại thân phận trâu ngựa của Mị là đoạn
cô đứng lên giải thốt cho A Phủ và cho cả chính mình. Khi A Phủ đã mấy đêm
bị trói đứng vào cây cột để chịu tội do hổ ăn mất bị thì trạng thái vô cảm của
Mị đang lên đến mức cao nhất. Mị ít ngủ và có thói quen ngồi sưởi lửa đêm.
Những khi ngọn lửa bùng lên, Mị thấy mắt A Phủ mở trừng trừng mới biết A
Phủ còn sống. “Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi… Mị chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Mị vô cảm
với sinh mệnh của A Phủ và cả với chính mình!
Nhưng cái gì đã thức tỉnh lòng trắc ẩn của Mị? Một lần trở dậy, khi “ngọn
lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở,
một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Cái giọt
nước mắt ấy đã làm Mị “chợt nhớ lại” việc Mị bị trói đứng năm trước, cũng
nước mắt chảy như thế mà không lau được; Mị lại nhớ tới người đàn bà đã bị
trói chết trong nhà này, và A Phủ thì chỉ đêm mai là chết thơi. Chỉ có trí nhớ
bất chợt là làm Mị sống lại. Trí nhớ có sức sống riêng của nó, không phải muốn
quên là quên được đâu. Tết năm trước đã thế, lần này trí nhớ lại loé lên một
cách vơ thức, và như một phản ứng dây chuyền nó nối lại ba số phận. Mị khơng
cịn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị chìm vào tưởng
tượng. Mị nghĩ mình có thể chết thay cho A Phủ. “Người kia việc gì mà phải
chết thế”. Mị đứng lên lấy con dao nhỏ cắt dây trói cho A Phủ trong một ý thức
chấp nhận hi sinh về mình, sẵn sàng thế mạng cho anh nếu bị bắt trói thế vào
cột. Đó là giây phút tuyệt đẹp trong đời Mị. Cô trở thành con người cao cả, nên
cơ khơng cịn cảm thấy sợ!
Hành động đó tuy khơng thể đốn trước, nhưng hồn tồn khơng ngẫu nhiên
chút nào. Mị đã từng nguyện làm rẫy trả nợ thay bố, đã từng chịu khổ để làm
dâu trừ nợ cho bố, từng dám chết để được giải thốt cho mình, thì sao Mị lại
khơng dám chết để cứu một người vô tội?
Trong Vợ chồng A Phủ thì A Phủ là nhân vật phụ ở thời kì Hồng Ngài và sẽ
trở thành nhân vật chính trong đoạn đời ở Phiềng Sa. Phần đầu truyện, nhà văn
chủ yếu kể chuyện dưới góc nhìn và ý thức của Mị, sang phần sau ngòi bút nhà
văn lại đưa đẩy chủ yếu theo góc nhìn của A Phủ.
A Phủ là đứa con mồ côi, nạn nhân của bệnh dịch và nạn đói làm chết người
hàng loạt. Mới mười tuổi A Phủ đã bị bán xuống vùng người Thái, nhưng anh
lại trốn để lưu lạc đến Hồng Ngài. Quanh năm chỉ làm th, A Phủ khỏe nhưng
Nhưng A Phủ là một con người đẹp của núi rừng. A Phủ làm khỏe như trâu,
chạy nhanh như ngựa, trở thành một niềm mơ ước của các cơ gái. A Phủ cũng
bị trói buộc bởi mê tín và thần quyền. Sau khi bị đánh đập tàn nhẫn suốt một
ngày đêm, A Phủ lê gối đi làm thịt lợn, làm cỗ cho chức việc ăn vạ. Khi Pá Tra
bắt A Phủ đóng cọc lấy dây để trói mình, A Phủ vẫn ngoan ngỗn vâng theo.
Anh khơng hề nghĩ đến việc trốn chạy. Và biết chạy đâu cho thoát? Cái đẹp
nhất ở A Phủ là tâm hồn phóng khống, hồn nhiên, u chính nghĩa, tự tin của
tuổi trẻ mà cuộc sống nô lệ không thể huỷ diệt được. Chính cái sức sống ấy sau
này sẽ đưa A Phủ đi theo cách mạng.
Với những cảnh đời éo le, với những nỗi khổ đau đến cùng cực, tưởng như
mãi mãi phải chìm trong u tối, thì các nhân vật đã tỉnh ngộ, vùng dậy một cách
bất ngờ và cương quyết, đó chính là thành công lớn nhất của tác phẩm và lá giá
trị cao đẹp của tác phẩm. Tác giả đã có sự cảm thông sâu sắc trước nỗi đau của
Mị và A Phủ, trân trọng ý thức nhân phẩm, khát vọng giải phóng và tin ở khả
năng tự làm chủ trước cuộc đời của hai con người đau khổ này.
<b>Bài làm 8</b>
Tơ Hồi là một trong những cây bút lão luyện của làng văn học Việt Nam với
sự nghiệp văn chương đồ sộ bao gồm nhiều thể loại phong phú, độc đáo. Được
mệnh danh là “Nhà văn của thiếu nhi”, giọng văn của Tơ Hồi ln mang
phong vị tự nhiên, hồn hậu, ngơn ngữ trong sáng, dễ hiểu, dễ cảm. Tác phẩm
nổi bật nhất của ông sau Cách mạng Tháng 8 phải kể đến “Vợ chồng A Phủ”,
một kiệt tác văn chương được thai nghén và hoàn thiện trong chuyến đi thực tế
được sàng lọc một cách kĩ lưỡng nhằm nêu bật lên được những đặc điểm điển
hình của một thời kì, giai cấp. Phần lớn giá trị hiện thực của các tác phẩm văn
học đều mang tiếng nói chung của đại đa số quần chúng đương thời, là bản cáo
trạng đối với những thói hư tật xấu và là tiếng lịng thổn thức của những người
thấp cổ bé họng, khơng có tiếng nói trong xã hội.
Với “Vợ chồng A Phủ”, Tơ Hồi đã tự mình thâm nhập vào cuộc sống của
những người lao động Tây Bắc để có thể thấm nhuần được suy nghĩ, cảm nhận
xuất phát từ tấm lòng thiện lương của con người nơi đây. Từ đó, ơng thấu hiểu
được nỗi đau đớn, tủi cực đang ngày đêm day dứt, trăn trở, thơng qua ngịi bút
và vốn hiểu biết, Tơ Hồi đã xây dựng một cốt truyện cùng các tuyến nhân vật
Mị, A Phủ,… như một bức tranh sự thật, nói lên cuộc sống bi kịch của nhân
dân lao động cần cù, chăm chỉ, bóc trần bộ mặt hèn ác, xấu xa của những kẻ có
chức quyền trong xã hội.
Đoạn trích kể về số phận nghiệt ngã của nhân vật Mị, một cô gái hiền lành,
chăm chỉ nhưng không may lại mang thân phận “món đồ gạt nợ”, bị gả vào nhà
thống lý Pá Tra do món nợ truyền đời từ cha mẹ để lại. Tại đây, cô phải làm
việc quần quật, bị bòn rút hết tất cả sự sống và sức phản kháng, tưởng chừng
như khơng có con đường giải thốt nào. Rồi cơ gặp được A Phủ, một nạn nhân
của cha con thống lý Pá Tra. Chứng kiến số phận khổ đau giống mình, Mị như
được tiếp thêm nguồn sức mạnh, dám đứng lên chống lại số phận, cùng A Phủ
bỏ trốn, tìm đến một cuộc sống, nơi mà họ có thể sống như một con người thực
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” được lột tả qua cuộc sống bi kịch của
người lao động vùng Tây Bắc, điển hình là hai hình tượng nhân vật Mị và A
Phủ. Giới thiệu nhân vật Mị, Tơ Hồi khơng chọn cách kể về tên tuổi, quê
quán, hay thậm chí một câu tả dáng hình cũng chẳng được xuất hiện, chỉ vỏn
vẹn: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trơng thấy có một cơ
gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy,
dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên,
cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói: nhà Pá Tra làm thống lý,
ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giầu lắm, nhà có nhiều nương,
nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó cịn bao giờ phải
xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải
con gái thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lý.” Đoạn văn mở đầu để lại
cho người đọc một nỗi ám ảnh về kiếp người mòn, một số phận đau thương dai
dẳng không dứt. Nét mặt buồn rười rượi của Mị chính là lời tố cáo chân thực
nhất về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp người,
không chỉ khiến độc giả đau xót, mà cịn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm
thông với nhân vật.
cô gái xinh đẹp, hay lam hay làm thành một “con rùa ni trong xó cửa”, lúc
nào cũng cúi mặt, “mặt buồn rười rượi” lầm lũi, khơng nói năng gì. Chúng coi
cơ là công cụ lao động để làm giàu, “mỗi năm một mùa, mỗi tháng lại làm đi
làm lại: Tết xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì giặt đay; đến mùa đi
nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngơ, lúc nào cũng gài một bó đay trong
cánh tay để tước sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa, con
trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này
vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Số phận của Mị thậm chí cịn khơng bằng con
trâu, con ngựa trong nhà thống lý. Hơn nữa, cơ Mị cịn bị bóc lột tinh thần đến
mức mất đi sức phản kháng vốn tiềm tàng trong những số phận bất hạnh. Cơ bị
đời bất hạnh như thế nữa vẫn cịn đang tồn tại, biết bao cơ con gái sa chân vào
làm dâu nhà quan to, tưởng được sống hạnh phúc, đủ đầy, cuối cùng lại trở
thành kiếp trâu ngựa tủi hờn, nhục nhã. Tơ Hồi khơng trực tiếp lên án xã hội
cổ hủ lạc hậu, bất nhân, coi người như cỏ rác, nhưng thơng qua hình ảnh của
Mị, mọi đường nét thực tại đều được khắc họa một cách chân thực, rõ ràng.
Hiện thực về cuộc sống lao động khổ đau, hiện thực về thân phận mòn mỏi,
hiện thực về cái ác đang ngày ngày hiện hữu, tất cả đều được tác giả khai thác
và phơi bày trước ánh sáng.
Xây dựng hình tượng nhân vật A Phủ, tác giả muốn phản ánh hiện thực về cuộc
sống của người dân lao động tuy xuất thân thấp kém, cuộc đời lam lũ vất vả
Mị và A Phủ là hiện thân của kiếp đời nô lệ dưới chế độ phong kiến, được Tơ
Hồi xây dựng từ những chất liệu hiện thực gần gũi nhất, thẳng thắn nhất. Qua
hai nhân vật, tác giả gián tiếp khắc họa cuộc sống và số phận của người dân lao
động trước Cách mạng, là tiếng nói mang tính tố cáo, lên án những kẻ lợi dụng
chức quyền đã vùi dập con người, đứng trên lập trường của nhân dân, bảo vệ
người dân lao động, tố cáo tội ác của quân thù và bọn bất lương.
quan lại như tay sai nhằm kìm kẹp nhân dân lao động dưới ách thống trị, bóc
buộc tội thế lực quan lại độc ác, vơ nhân tính, là bản cáo trạng chân thực nhất
về tội ác của cha con thống lý Pá Tra đã đè nặng lên cả một kiếp người, khơng
chỉ khiến độc giả đau xót, mà cịn khơi gợi sự căm tức, phẫn nộ, cảm thông với
nhân vật.
Tô Hồi khơng phê phán một cách trực tiếp, nhưng chính từ những hành động
của thống lý Pá Tra đối với A Phủ và Mị, bị đẩy vào số phận con sâu cái kiến,
người đọc đã nhận ra được bộ mặt bóc lột, lên án gay gắt chế độ quan lại trong
xã hội thực dân nửa phong kiến khu vực miền núi Tây Bắc đã khiến biết bao
con người khỏe mạnh, chịu thương chịu khó trở thành tay sai cho chế độ bóc
lột bạo tàn. Giá trị hiện thực của tác phẩm là phơi bày được bộ mặt xấu xa của
chế độ phong kiến lỗi thời, đốn mạt, nơi những kẻ ác nghiệt nắm mọi quyền
sinh quyền sát trong tay, nơi kiếp người bị rẻ rúng, không bằng con trâu, con
ngựa.
Tô Hoài đã xuất sắc trong việc tái hiện lại bức tranh hiện thực về số phận
những con người khốn khổ nơi vùng núi cao, đồng thời lên án, vạch mặt những
thế lực đen tối đã vùi dập, chà đạp con người. Bằng nghệ thuật miêu tả đặc sắc,
xây dựng tâm lý nhân vật qua hành động, cử chỉ và sự tiến bộ trong suy nghĩ
của nhân vật, tác giả không chỉ khiến cho người đọc hình dung một cách rõ
ràng về những góc khuất trong xã hội xưa mà cịn thể hiện sự thương cảm, xót
xa với những người dân lao động vơ tội. Xét cho cùng, văn học chính là hiện
thực được phản ánh một cách chắt lọc, mục đích của văn học là khơi gợi sự
đồng cảm nơi độc giả. Trên phương diện ấy, Tơ Hồi đã hồn thành một cách
trọn vẹn với tư cách một người quan sát, một nhà truyền đạt, là sợi dây kết nối
giữa bạn đọc và những con người họ chưa từng một lần gặp gỡ.
Giá trị hiện thực của “Vợ chồng A Phủ” là hiện thực cuộc sống của những