Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

4 tài LIỆU ôn THI, dạy THÊM 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.93 KB, 22 trang )

BỘ ĐỀ LUYỆN HSG VÀ TÀI LIỆU DẠY THÊM.
1. Bốn bộ tài liệu ôn thi, dạy thêm 9
2. Tất cả đều bản word, thoải mái chỉnh sửa, in ấn khi lấy trọn bộ.
Phí 500k.
3. Bộ đề luyện thi HSG 6,7,8,9 bản word chỉnh sửa – phí 300k
4. Tham khảo tohair mái trước khi lấy trọn bộ. Tài liệu không như giới
thiệu xin trả lại phí.
5. Ngồi ra xin tặng thêm giáo án dạy thêm, giáo án 5 HĐ, bí quyết viết
mở bài gián tiếp nhanh, dễ và hấp dẫn.
6. tặng Bộ 30 điểm tựa viết mwor bài gián tiếp kèm mở bài mẫu.
7. Bộ Bài văn HSG làm từ hoàn chỉnh lớp 8.
Nguyễn Văn Thọ
ĐT, zalo 0833703100 (Kết bạn và gửi gmail mình gửi tham khảo)

BỘ SỐ 1 – Phương pháp phân tích – nghị luận văn học.
Vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”
GỢI Ý LÀM BÀI
Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học VN thế kỉ XVI,
sự nghiệp văn chương của ông không thật sự đồ sộ nhưng có những tác phẩm lay động
trái tim bao bạn đọc. Chuyện người con gái Nam Xương rút trong tập truyện Truyền kì
mạn lục là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Tác phẩm đã thể hiện
thành công nhân vật Vũ Nương - một người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng lại phải
chịu số phận bất hạnh. (mở bài theo cách đơn giản nhất mà đúng yêu cầu)
A. Phẩm chất tốt đẹp
1


+ Luận điểm 1: Trước hết, Vũ Nương là người phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh và
hết lịng u thương thuỷ chung với chồng. Mở đầu trang truyện, tác giả đã giới thiệu
Vũ Nương là người phụ nữ "thuỳ mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp". Mặc dù là con
nhà nghèo lấy chồng nhà giàu lại đa nghi, ít học nhưng do hiền dịu, nết na, khéo cư xử


nàng đã san bằng được khoảng cách về môn đăng hộ đối, một quan niệm nặng nề của lễ
giáo phong kiến và giữ được khơng khí trong gia đình luôn yên ấm, hạnh phúc thế
nhưng hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương
Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xơi trong buổi tiễn đưa nàng rót chén rượu đầy
tiễn chồng bằng những lời lẽ dịu dàng, tha thiết và cảm động: Dẫn chứng 1 "Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ
mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Nhận xét, đánh giá
dẫn chứng  Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn
coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi cơng danh phú quý. Đằng sau niềm
khao khát, ước mơ ấy là cả một tấm lòng yêu thương chân thành, đằm thắm vượt ra
ngoài cả sự cám dỗ của vật chất đời thường và vinh hoa phú quý. Vinh hoa phú quý cõ
lẽ là niềm khao khát của nhiều người nhưng với Vũ Nương, hạnh phúc gia đình mới là
trên hết. ". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng  Chưa hết, trong câu nói của nàng cịn thể
hiện sự cảm thơng, lo lắng trước những nỗi vất vả gian lao và an nguy mà chồng sẽ
phải đối mặt : Dẫn chứng 2  “chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khơn lường…nhìn
trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét..trong liễu rũ bãi hoang lại thổn thức tâm tình…’. 
Việc hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều khó tranh khỏi và khơng ai biết trước,
lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi lo âu cho sự an nguy của chồng: Dẫn chứng 3 
“Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trơng liễu rủ bãi hoang, lại
thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ khơng có
cánh hồng bay bổng”. ". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng  Đúng là lời nói, cách nói
của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết
chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng
biết bao. Tất cả đã diễn tả tinh tế, chân thực nỗi niềm nhớ nhung, mong mỏi kín đáo,
âm thầm mà da diết của nàng. Nếu không phải là người vợ hết mực yêu thương chồng
2


làm sao nàng có thể có được những tình cảm ấy, cảm xúc ấy? Dẫn chứng 4 Mỗi khi
đêm đến, để với đi bớt nỗi buồn và để đứa con khơng phải thiếu hình bóng người cha,

nàng trỏ bóng mình trên vách nói là cha Đản ". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng  Việc
làm ấy của nàng đâu phải đơn thuần là nói với con, mà cịn là nói với chính lịng mình.
Nàng ln tưởng tượng trong căn nhà nhỏ bé của hai mẹ con lúc nào cũng có hình
bóng của Trương Sinh, phải chăng nàng đã nguyện gắn bó cuộc đời mình với Trường
Sinh như hình với bóng. ý nghĩ ấy đã làm vơi bớt nỗi cô đơn, trống vắng trong lòng.
Trong suốt 3 năm Trương Sinh đi vắng, nàng đã :"Tô son điểm phấn từng đã nguôi lịng,
ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót", một dạ thuỷ chung, chờ đợi. Liên hệ: Tâm trạng
nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh
phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
"… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…"
(Chinh phụ ngâm)
+ Luận điểm 2: Không chỉ là đẹp người đẹp nết, Vũ Nương còn là người con
dâu hiếu thảo và trọng nhân phẩm.
Dẫn chứng Trong thời gian Trương Sinh đi vắng, nàng đã một mình thay chồng
phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ không một lời kêu ca, phàn nàn. Khi mẹ ốm,
nàng thuốc thang và dùng lời lẽ ngọt ngào, khéo léo để động viên. Khi mẹ mất, nàng hết
lời thương xót và lo ma chay, tế lễ chu đáo. ". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng 
Nguyễn Dữ đã khéo léo đặt những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào miệng của
chính mẹ chồng khiến nó trở nên vơ cùng ý nghĩa Dẫn chứng "Sau này, trời xét lòng
lành, ban cho phúc đức, con cháu đông đàn, xanh kia ắt chẳng phụ con, cũng như con đã
chẳng phụ mẹ". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng  Lời trối trăng của bà mẹ chồng
trước khi mất chính là một sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng
đối với gia đình nhà chồng. ". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng  Rõ ràng, cách cư xử
của nàng với mẹ chồng không chỉ xuất phát từ ý thức trách nhiệm mà cịn từ tình cảm
u thương chân thành của người con dâu hiếu thảo. Trong thâm tâm, Vũ Nương không
3



hề phân biệt mẹ chồng hay mẹ đẻ. Tiếc thay, tình cảm tốt đẹp đó TS- một con người
thiếu học lại đa nghi không thể nhận ra.
Dẫn dắt, chuyển ý: Ngày Trương Sinh trở về tưởng chừng như hạnh phúc đã mỉm
cười với nàng, tưởng chừng như ông trời đã xót thương, cảm động trước tấm lịng hiếu
nghĩa, thủy chung của nàng, tưởng rằng mong ước năm xưa của nàng đã thành hiện
thực…nhưng ai ngờ cái ngày Trương Sinh về cũng là khởi đầu cho những khổ đau bất
hạnh và dẫn đến cái chết oan khiêm, tức tưởi của Vũ Nương. Tất cả chỉ vì câu nói ngây
ngơ, hồn nhiên của đứa trẻ khi nói với cha : “có một người đàn ông đêm nào cũng đến,
mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” đã khiến
lịng ghen tng, sự đa nghi vốn có sẵn trong lịng Trương Sinh trỗi dậy. Từ đó TS mắng
nhiếc, chửi bới, đánh đập và đuổi nàng đi. Dẫu biết mình bị oan nhưng Vũ Nương đã cư
xử thật khéo léo, tế nhị và nhẹ nhàng. Nàng đã tha thiết thanh minh, thề nguyền nhưng
không được, nhân phẩm bị xúc phạm nặng nề, nàng đã tìm đến cái chết để minh chứng
cho tấm lòng trong sáng, thuỷ chung của mình . ". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng 
Dù khao khát được sống nhưng với nàng nhân phẩm và danh dự con người vẫn lớn hơn
tất cả. Nàng thà chết chứ quyết không chịu mang tiếc nhuốc nhơ, người đời phỉ nhổ.
Hành động tự vẫn là sự phản kháng quyết liệt cuối cùng của nàng bởi VN đâu cị có sự
lựa chọn nào khác, bởi nàng đã tuyệt vọng “nay đã bình rơi trâm gãy, sen rũ trong ao,
liễu tàn trước gió…” . . Nhận xét, đánh giá về nghệ Thuật  cái tài của nguyễn Dữ là
tạo ra một tình huống có vấn đề, thắt nút câu chuyện để đẩy câu chuyện lên một kịch
tính cao nhất. Có thể xem đây là chi tiết tí hon nhưng mang sứ mệnh của người khổng
lồ.
+ Luận điểm 3: Ở Vũ Nương, người đọc cịn nhận ra đức tính nhân hậu và lòng
bao dung. Ở dưới thuỷ cung, dù được sống đầy đủ, sung sướng, quan hệ giữa người với
người tốt đẹp nhưng lúc nào nàng cũng đau đáu nhớ về quê hương, gia đình, chồng con.
". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng  Khi nhắc đến quê hương, mộ phần nàng đã rưng
rưng nước mắt. Câu nói của nàng với Phan Lang khiến người đọc nghẹn ngào xúc
động: dẫn chứng  "ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam, tơi tất phải tìm về
có ngày".". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng  Lẽ ra, nàng có quyền căm thù nơi trần
4



thế, căm thù cái xã hội đã đẩy nàng đến cái chết oan khuất, nhưng trái tim nàng vẫn
không vẩn một chút oán hờn mà vẫn sáng trong như ngọc Mị Nương, tươi tốt như cỏ
Ngu mĩ, nàng thật nhân hậu, thật bao dung. ". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng  Có thể
nói Vũ Nương là người phụ nữ lí tưởng theo quan niệm của lễ giáo phong kiến ngày
xưa và càng tuyệt với hơn trong xã hội hiện đại. Ở cương vị nào nàng cũng thể hiện vẻ
đẹp cao quý.
B.Số phận bi kịch:
(câu chuyển luận điểm) Người phụ nữ dịu dàng, hiếu nghĩa, tận tuỵ và chung tình đó
đáng ra phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, hạnh phúc. Bao nhiêu
năm tháng chờ chồng, khi Trương Sinh trở về tưởng chừng như hạnh phúc đang mỉm
cười với nàng, tưởng chừng như từ nay mẹ con nàng không phải sống trong cảnh cô
đơn, buồn tủi....nhưng khi Trương Sinh trở về cũng là lúc tai hoạ ập xuống đầu nàng,
nỗi oan khuất và bất hạnh bắt đầu vây bủa và khiến Vũ Nương phải tìm đến cái chết.
Một lần vơ tình bé Đản đã nói là: “thế ông cũng là cha tôi ư?...trước đây, thường có một
người đàn ơng đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng
chẳng bao giờ bế Đản cả” lời nói thơ ngây đó của con trẻ đã khiến Trương Sinh đinh
ninh là vợ hư rồi mắng nhiếc, đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm
giềng và lời than rớm máu của người vợ trẻ. Khơng có cơ hội để thanh minh, trái tim
tan nát, tuyệt vọng bởi “bình rơi, trâm gãy, mây tạnh, mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn
trước gió ”. ". Nhận xét, đánh giá dẫn chứng  Những câu văn ước lệ tượng trưng
như thể hiện tình cảm hạnh phúc gia đình khơng thể giữ, phẩm hạnh của nàng cũng
mất. Với nàng ,cái chết là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự và nhân
phẩm. Nhận xét, đánh giá về nghệ Thuật  Nhịp văn dồn dập, lời văn thống thiết như
cực tả nỗi niềm đồng cảm, xót thương của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình
mà bạc mệnh! Sau khi VN chết, Nguyễn Dữ đã sáng tạo ra một thế giới thần tiên êm
đềm trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên. Phải
chăng đó cũng chính là dụng ý của tác giả:người tốt sẽ được được đền bù xứng đáng, ở
hiền ắt sẽ gặp lành?


5


Luận điểm 4: Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người,đẹp nết đó phải tìm
đến cái chết bi thảm? Họ là nạn nhân của chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm cho
gia đình phải li tán. Đó là thói đa nghi, hồ đồ, ghen tng mù qng của người chồng ít
học Trương Sinh...và có lẽ ngun nhân sâu xa của nó vẫn là là lễ giáo phong kiến hà
khắc với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia
đình… Để ngàn đời trên bến Hoàng Giang khắc khoải niềm thương và nỗi ám ảnh dai
dẳng về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc mệnh !
Số phận của nàng là một tấn bi kịch đau thương. Cái chết oan khuất, tức tưởi của nàng
đã là lời tố cáo đanh thép chế độ phong kiến bất công, vơ lí đã cướp đi mất quyền sống,
quyền hưởng hạnh phúc chính đáng của con người. Đó cũng là số phận chung cho
người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Cho nên trong bài thơ “Lại bài viếng Vũ Thị”
nhà vua Lê Thánh Tơng có viết:
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.
Kết luận: Bằng cách kể chuyện đầy sức li kì, hấp dẫn, cách miêu tả tâm lí nhân
vật độc đáo, tạo tình huống thắt nút căng thẳng, đan xen yếu tố kì ảo…Nguyễn Dữ đã
xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam trong xã
hội phong kiến: có phẩm chất cao đẹp, đáng trân trọng nhưng phải chịu số phận bất
hạnh. Đúng như Nguyễn Du đã từng khái quát.
“Đau đớn thay phận đàn bà
lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”…
Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư âm về sự bất bình, căm ghét xã hội
phong kiến bất lương, vơ nhân đạo thì cịn mãi. Có lẽ vì thế mà em càng u mến, trân
trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống hơm nay. Câu chuyện cịn cho thấy tấm lịng
thương cảm của nhà văn với người phụ nữ cũng như tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến.


6


BỘ SỐ 2: BÀI VĂN KHAI THÁC SÂU CÁC VĂN BẢN HIÊN ĐẠI
BÀI 10: SANG THU
1. Tác giả:
- Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm 1942 - quê ở Tam Dương - Vĩnh Phúc
- Là nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.
- Thơ Hữu Thỉnh ấm áp tình người và giàu sức gợi cảm.Ông viết nhiều và hay về con người,
cuộc sống ở nông thôn về mùa thu.
- Có nhiều tập thơ, trường ca nổi tiếng.
- Hiện là Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
+ 1977, in lần đầu trên báo văn nghệ, in lại nhiều lần trong các tập thơ.
+ Rút từ tập “Từ chiến hào đến thành phố”, NXB Văn học, Hà Nội, 1991
b. Thể thơ: Năm tiếng - ngũ ngơn
c. Phương thức biểu đạt: trữ tình kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
3. Phân tích bài thơ:
* Giới thiệu:
Mùa thu khơng chỉ làm rung động lịng thi nhân mà còn đem đến cho ta những xúc cảm nhẹ
nhàng, êm ái gợi nhiều thương nhớ bâng khuâng…. Thường thường, các nhà thơ chỉ cảm nhận
về mùa thu ở một số hình ảnh tiêu biểu như sắc trời xanh ngắt, gió thu se lạnh và màu vàng
tượng trưng cho mùa thu. Ở một số thi nhân có thêm những cảm nhận riêng: với Xuân Diệu
là : “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang…, với Lưu Trọng Lư là tiếng lá kêu xào xạc và tiếng
chân con nai vàng đạp trên lá vàng khơ, với Nguyễn Đình Thi là hương cốm đầu mùa…. Nét
đặc biệt của Hữu Thỉnh trong bài thơ này là nhà thơ đã cảm nhận cái thời khắc sang thu bằng
cả một hệ thống hình ảnh thiên nhiên qua nhiều yếu tố và bằng nhiều giác quan với sự rung
động thật tinh tế. Mười hai câu thơ ngắn mà có đến mười hình ảnh thiên nhiên được nói đến
lúc đất trời chuyển sang thu: hương ổi, gió se, sương, sông, chim, mây, nắng, mưa, sấm và cuối

cùng là hàng cây đứng tuổi. Tồn là những hình ảnh gần gũi, quen thuộc đối với mỗi người
chúng ta và điều này làm cho bài thơ dễ đến với người đọc. Nhưng điều quan trọng nhất chính

7


là sự cảm nhận tinh tế của ông đối với từng hiện tượng thiên nhiên lúc giao mùa và những rung
động ấy đã lan truyền sang ta như một tiếng nói đồng điệu.
* Khổ 1: Là những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời.
a.Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vơ hình (hương, gió), mờ ảo (sương chùng chình),
nhỏ hẹp và gần (ngõ) => Đó là những cảm nhận rất riêng của nhà thơ.
- Đầu tiên là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thường khó đọng lại trong những
cơn gió nồm nam thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng “phả vào trong gió se”, đem đến hương
vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu khiến nhà thơ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng trước sự thay đổi
của thiên nhiên.Từ “phả” là động từ mạnh diễn tả mùi hương ổi thơm nồng nàn lan toả. Gió se
là gió nhẹ, khơ và hơi lạnh – gió của mùa thu, gió báo hiệu mùa thu đã đến. Gió se mang theo
hương ổi của đồng quê. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống
giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị, ông đã phát
hiện ra một nét đẹp thật đáng yêu của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.
- Trong “Sang thu”, dấu hiệu đầu thu là hương ổi, làn gió và sương thu. Nhưng khơng phải là
“sương thu man mác đầu ghềnh” của Tản Đà mà là : “Sương chùng chình qua ngõ”- một hình
ảnh lung linh huyền ảo. Khơng cịn là những hạt sương mà đã là một màn sương mỏng nhẹ
trôi, đang chuyển động chầm chậm nơi đường thơn ngõ xóm. “Chùng chình”là từ láy gợi hình
diễn tả hành động chậm chạp như là cố ý chậm lại. Nhà thơ đã thổi hồn vào câu thơ khiến cho
màn sương thu chứa đầy tâm trạng, như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà
ai……
b. Con ngêi( nhà thơ).
- Cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ ngàng. Do ngỡ ngàng nên cả khứu giác, cả xúc
giác và thị giác đều như mách bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa dám chắc. Từ “hình như”
là sự phỏng đốn nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên trong cái cảm xúc bâng

khuâng, xao xuyến của thi sĩ. Qua đó, ta hiểu tâm hồn nhà thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu
hương thu với tình yêu tha thiết.
*khổ 2: Nhưng rồi mùa thu dần dần đến và hiện ra ngày càng rõ hơn trước mắt nhà thơ
- Sự vận động của h/a thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được cụ thể hố bằng những đổi
thay của vạn vật. Sơng lúc sang thu khơng cịn cuộn chảy dữ dội như những ngày hè mưa lũ,
mà êm ả dềnh dàng như đang lắng lại, đang trầm xuống. Một chữ “dềnh dàng” mà nói lên
được cái dáng vẻ khoan thai, thong thả của con sơng mùa thu, ngỡ như nó được nghỉ ngơi
thoải mái khi mùa nước lũ cuồn cuộn đã đi qua.

8


- Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim bắt đầu vội vã bay về tổ lúc hồng hơn. Từ bắt
đầu” trong ý thơ được dùng rất độc đáo “bắt đầu vội vã” chứ không phải là “đang vội vã”. Phải
tinh tế lắm, yêu và gần gũi với thiên nhiên lắm mới nhận ra được sự bắt đầu trong những cánh
chim bay.
- Cánh chim trời vội vã bay đi, “có đám mây mùa hạ” cịn vương lại. Và mây lưu luyến bắc
chiếc cầu:
“Vắt nửa mình sang thu”.
Một liên tởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Người ta thường nói: khăn vắt vai, con đường
mịn vắt ngang sườn núi….Hữu Thỉnh điểm vào bức tranh thu của mình một hình ảnh mới mẻ,
gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng
chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một
hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này.Trong “chiều sơng thương”, ơng
cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ.”
c. Khúc giao mùa của không gian và thời gian khi sang thu còn được thể hiện ở chiều sâu
suy ngẫm trong khổ cuối.
- Khổ cuối nói về những biến chuyển của nắng, mưa, sấm trong lúc giao mùa với những nhận
xét tinh tế của môộ người am hiểu tường tận các hiện tượng thời tiết này:
Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa
+Lại thêm một sự đối lập: nắng vẫn còn nhưng mưa đã vơi dần. Mùa thu nắng sẽ nhạt dần,
nhưng lúc giao mùa, nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng. Những ngày sang thu, đã ít đi
những cơn mưa rào ào ạt vàcũng bớt đi những tiếng sấm bất ngờ thường chỉ có trong mùa hạ.
Các từ ngữ : “vẫn còn – đã vơi dần – cũng bớt bất ngờ” vừa cho thấy, vẫn cịn đó dấu ấn, vẫn
cịn đó dư âm của mùa hạ. Nhưng tất cả đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định mang nét đặc
trưng của mưa nắng phút giao mùa sang thu. Những câu thơ vừa tả cảnh, vừa kín đáo bộc lộ
cảm xúc giao mùa của lòng người trong mối luyến giao thấm quyện với thiên nhiên.
+ Bài thơ khép lại bằng hai dòng thơ hàm chứa ý nghĩa:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Hai dịng cuối bài có hai tầng ý nghĩa: tả thực và ẩn dụ - gợi ta liên tưởng đến một tầng ý
nghĩa khác – ý nghĩa về con người và cuộc sống. Những tiếng sấm bất ngờ của mùa hạ đã bớt
đi lúc sang thu (cũng có thể hiểu: hàng cây khơng cịn bị bất ngờ, bị giật mình vì tiếng sấm

9


nữa), nhưng đó cịn là những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Và hàng cây
đứng tuổi ở đây vừa gợi lên hình ảnh những hàng cây khơng phải là cịn non, vừa gợi tả những
con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó,
con người càng trở nên vững vàng.
Hai câu kết đã khép lại bài thơ vừa là hình ảnh thiên nhiên sang thu, vừa là suy nghĩ chiêm
nghiệm về bản thân, về con người, về đât nước. Nó vừa trang nghiêm chững chạc, vừa bâng
khuâng khiêm nhường nhưng cũng đầy tự hào kiêu hãnh. Chính nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự:
với hình ảnh này, ơng muốn gửi gắm suy nghĩ của mình: khi con người đã từng trải thì cũng
vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời (1). Bài thơ kết
thúc, nhưng dư vị vẫn còn để người đọc tiếp tục nghĩ suy thêm về cái điều nhà thơ tâm sự.
B. Câu hỏi luyện tập:
1.Bằng đoạn văn khoảng 8 câu, hãy phân tích sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ về biến chuyển

trong không gian lúc sang thu ở khổ thơ:
Bỗng nhận ra hương ổi.
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
(Sang thu - Hữu Thỉnh)
Gợi ý:
a. Về hình thức: trình bày bài tập bằng một đoạn văn ngắn khoảng 8 câu, có thể dùng đoạn
diễn dịch, quy nạp hoặc tổng hợp – phân tích - tổng hợp.
- Đoạn văn diễn đạt mạch lạc, tự nhiên, không mắc lỗi về diễn đạt.
b. Về nội dung:
- Phân tích để thấy biến chuyển trong không gian được nhà thơ cảm nhận tinh tế qua hương ổi
chín đậm, nồng nàn phả vào gió se, lan toả trong khơng gian và qua làn sương mỏng “chùng
chình” chuyển động chầm chậm, nhẹ nhàng đầu ngõ, đường thôn.
- Trạng thái cảm giác về mùa thu đến của nhà thơ được diễn tả ở các từ “bỗng, hình như” mở
đầu và kết thúc khổ thơ, đó là sự ngạc nhiên thú vị như còn chưa tin hẳn, là tâm trạng ngỡ
ngàng bâng khuâng, xao xuyến của một hồn thơ.
2. Viết đoạn van khoảng 6 câu trình bày cách hiểu của em về hai câu thơ cuối bài “sang thu”
(Hữu Thỉnh):
Sấm cũng bớt bất ngờ.

10


Trên hàng cây đứng tuổi”.
Gợi ý: Trong đoạn văn này người viết cần trình bày được cách hiểu hai câu thơ cả về nghĩa cụ
thể và về nghĩa ẩn dụ.
- Tầng nghĩa cụ thể - nghĩa tường minh diễn tả ý: sang thu, mưa ít đi, sấm cũng bớt. Hàng cây
khơng cịn bị giật mình vì những tiếng sấm bất ngờ nữa. Đó là hiện tượng tự nhiên.
- Tầng nghĩa thứ hai (ẩn dụ): suy ngẫm của nhà thơ về dân tộc, về con người: khi đã từng trải,

con người đã vững vàng hơn trước những tác động bất ngờ của ngoại cảnh, của cuộc đời.
3. Viết đoạn văn ngắn nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của hình ảnh “đám mây mùa hạ” trong
khổ thơ :
Sông được lúc dềnh dàng.
Chim bắt đầu vội vã.
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.
Gợi ý: Đoạn văn có thể gồm các ý:
- HÌnh ảnh được cảm nhận tinh tế kết hợp trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ.
- Diễn tả hình ảnh đám mây mùa hạ cịn sót lại trên bầu trời thu trong xanh, mỏng, kéo dài nhẹ
trôi rất hững hờ như cịn vương vấn, lưu luyến khơng nỡ rời xa, cảnh có hồn.
- Đó là hình ảnh gợi cảm giác giao mùa, hạ đã qua mà thu chưa đến hẳn.
=============
PHẦN TẬP LÀM VĂN: Phân tích bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Dàn ý 1:
A. Mở bài:
- Giới thiệu đề tài mùa thu trong thi ca
- Dẫn vào bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh
- Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ : nhịp nhàng, khoan thai, êm ái, trầm lắng và thoáng
chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng
Bắc Bộ.
B. Thân bài.
Khổ 1: Những cảm nhận ban đầu của nhà thơ về cảnh sang thu của đất trời.
a. Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vơ hình:
+ Hương ổi phả trong gió se (se lạnh và hơi khô). “Hương ổi” là làn hương đặc biệt của mùa
thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ.

11



+ Từ “phả”: động từ có nghĩa là toả vào, trộn lẫn -> gợi mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm
nồng quyến rũ, hồ vào trong gió heo may của mùa thu, lan toả khắp không gian tạo ra một
mùi thơm ngọt mát - hương thơm nồng nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở
nông thơn Việt Nam.
+Sương chùng chình: những hạt sương nhỏ li ti giăng mắc như một làm sương mỏng nhẹ
nhàng trôi, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm sang thu. Hạt
sương sớm mai cũng như có tâm hồn
b. Cảm xúc của nhà thơ:
+ Kết hợp một loạt các từ: “bỗng, phả , hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, cảm xúc bâng
khuâng trước thoáng đi bất chợt của mùa thu. Nhà thơ giật mình, hơi bối rối, hình như cịn có
chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận. Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng, thống qua. hay
là vì q đột ngột mà tác giả chưa nhận ra? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút
giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu thấp thoáng hồn người : chùng chình, bịn rịn, lưu
luyến, bâng khng…
Khổ 2: HÌnh ảnh thiên nhiên sang thu được nhà thơ phát hiện bằng những hình ảnh quen
thuộc làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng:
+Dịng sơng q hương thướt tha mềm mại, hiền hồ trơi một cách nhàn hạ, thanh thản –>gợi
lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên thiên mùa thu.
+ Đối lập với hình ảnh trên là những cánh chim chiều bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh
rét trong buổi hồng hơn.
+ Mây được miêu tả qua sự liên tưởng độc đáo bằng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên
nhiên tha thiết:
“ Có đám mây mùa hạ. Vắt nửa mình sang thu”-> Gợi hình ảnh một làn mây mỏng, nhẹ, kéo
dài của mùa hạ cịn sót lại như lưu luyến. Khơng phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ
đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế
và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này.Trong “chiều sơng thương”, ơng cũng có một
câu thơ tương tự về cách viết: Đám mây trên Việt Yên. Rủ bóng về Bố Hạ.”
3. Khổ 3: Thiên nhiên sang thu còn được gợi ra qua hình ảnh cụ thể: nắng – mưa:
- Nắng – hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt dần,
yếu dần bởi gió se đã đến chứ khơng chói chang, dữ dội, gây gắt.

- Mưa cũng đã ít đi. Cơn mưa mùa hạ thường bất ngờ chợt đến rồi lại chợt đi. Từ “vơi” có giá
trị gợi tả, diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của mùa hạ.

12


- Hình ảnh ẩn dụ : “Sấm cũng bớt bất ngờ. Trên hàng cây đứng tuổi”
+ ý nghĩa tả thực: hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với những cơn mưa rào chỉ
có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sâm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc sang thu).
+ Ý nghĩa ẩn dụ : Sấm : những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. “ Hàng
cây đứng tuổi” gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những
thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng hơn.
=> Gợi cảm xúc tiếc nuối
C. Kết luận: | “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm
nhận mới về mùa thu q hương mà cịn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim
mọi người.
- Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp thêm một
cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng cho mùa thu thi ca thêm phong phú.

BỘ SỐ 3: DÀN Ý CHI TIẾT TẤT CẢ CÁC VĂN BẢN.
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHƠNG KÍNH
-Phạm Tiến DuậtI/KIẾN THỨC CƠ BẢN
1/ Tác giả: (Đã thi năm 2012-2013)
- Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến
Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành
một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ
cứu nước.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cơ thanh niên xung phong

trên tuyến đường Trường Sơn.
- Thơ ơng có giọng điệu sơi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
2/ Tác phẩm:
a/ Hoàn cảnh sáng tác:
13


- Bài thơ viết năm 1969, thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra rất ác liệt
trên con đường chiến lược Trường Sơn.
- Bài thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969 và được
đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả.
b/ Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
* Nội dung:
- “Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính" của Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ một hình
ảnh độc đáo: những chiếc xe khơng kính. Qua đó, tác giả khắc hoạ nổi bật
hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mỹ, với tư
thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và
ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
* Nghệ thuật:
- Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến
trường, ngơn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn.
II/PHÂN TÍCH
1/Những nét độc đáo, khác lạ của bài thơ:
a/ Nhan đề:
- Dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc ở cái vẻ lạ độc đáo của nó.
- Làm nổi bật hình ảnh tồn bài: những chiếc xe khơng kính. Hình ảnh này là một sự
phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó, am hiểu hiện thực đời sống chiến
tranh trên tuyến đường Trường Sơn.
- Hai chữ “Bài thơ” thêm vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực
của tác giả. Ơng khơng chỉ viết về những chiếc xe khong kính – hiện thực khốc liệt

của cuộc chiến mà chủ yếu nhà thơ muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ
của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm vượt lên thiếu thốn, gian khổ hiểm nguy của thời
chiến. Đây cũng là quan niệm nghệ thuật của tác giả - khai thác chất thơ từ chính
hiện thực thô ráp của cuộc chiến.
- “Tiểu đội xe không kính” cũng là một cái tên tự đặt- rất lính, rất tếu táo, rất ấn
tượng.
 Nhan đề này đã gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc điệu thẩm mĩ riêng cho
bài thơ và gây ấn tượng cho người đọc.
14


b/ Hình ảnh những chiếc xe khơng kính gây sự chú ý khác lạ được đưa ra thực đến
trần trụi vẫn băng băng ra chiến trường:
- Xưa nay, hình ảnh tàu xe vào thơ thường được mỹ lệ hoá, lãng mạn hố nhưng
Phạm Tiến Duật đưa một hình ảnh thực đến trần trụi “những chiếc xe khơng
kính”.
o Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực bằng 2 câu thơ rất gần với văn
xi lại có giọng thản nhiên, càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó.
“Khơng có kính khơng phải xe khơng có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
o Câu thơ thứ 2 nhắc lại hai lần chữ “bom” với những động từ mạnh “giật”,
“rung” khiến cho “kính vỡ đi rồi” càng tăng gấp bội sự dữ dội của cuộc chiến
đấu.
o Bom đạn chiến tranh cịn làm chúng biến dạng thêm, trần trụi hơn.
“Khơng có kính, rồi xe khơng có đèn,
Khơng có mui xe, thùng xe có xước”,
- Xe khơng kính đã đem lại bao hậu quả cho người lái xe: gió, bụi, mưa, mặt lấm
áo ướt-> gian khổ
- Chỉ từng ấy chi tiết thôi nhà thơ đã tái hiện hiện thực khốc liệt của cuộc chiến
trong những năm tháng hào hùng mà bi thương của dân tộc

- Hình ảnh này khơng hiếm trong chiến tranh nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với
nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được
và đưa vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.
c/Giọng điệu và ngôn ngữ:
- Giọng thơ rất gần với lời nói thường, có những câu như văn xi tưởng như khó
chấp nhận trong một bài thơ “Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính”
“Khơng có kính, ừ thì có bụi”, “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”…
- Nhưng đây lại chính là nét độc đáo tạo nên một giọng điệu ngang tàng, trẻ trung,
sôi nổi, tinh nghịch, tự nhiên, thể hiện cái hiên ngang, bất chấp mọi khó khăn,
nguy hiểm của các anh lính lái xe Trường Sơn.
2/ Hình ảnh người lính lái xe
a/Tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm lạc quan, coi thường gian khổ hiểm nguy.
* Khổ 1+2
15


- Đồng thời với hình ảnh của những chiếc xe khơng kính độc đáo là hình tượng đẹp
đẽ của những người lái xe xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.
- Họ là chủ nhân của những chiếc xe khơng kính . Ngồi trên những chiếc xe đó,
người lái xe như tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngồi:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”.
( Viết đoạn về khổ thơ - Đã thi năm 2012-2013)
o

Những câu thơ tả thực tới từng chi tiết, diễn tả cảm giác về tốc độ của những

chiếc xe đang lao nhanh trên đường.

o Khơng có kính chắn gió, các anh đối mặt với bao khó khăn, nguy hiểm, nào “gió
vào xoa mắt đắng” rồi “sao trên trời”, “chim dưới đất”, đột ngột, bất ngờ như sa, như
ùa – rơi rụng, va đạp, quăng ném… vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình.
o Những hình ảnh gió, con đường, sao trời, cánh chim vừa thực vừa thơ, là cái thi
vị nảy sinh trên những con đường bom rơi đạn nổ. Hiện thực thì khốc liệt, nhưng
người chiến sĩ cảm nhận nó bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn nhạy cảm với cái
đẹp – một nghị lực, một bản lĩnh phi thường.
o Đặc biệt hình ảnh “Con đường chạy thẳng vào tim” là một khái quát đặc sắc của
con đường trái tim. Đường Trường Sơn, con đường giải phóng miền Nam, chính là
con đường của trái tim. Những câu thơ trên hé lộ diện mạo tinh thần thầm kín của
người chiến sĩ.
Cảm giác, ấn tượng, căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ
hoảng hốt. Trái lại họ hiện ra trong tư thế ung dung, hiên ngang, tự tin, tự hào:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn trời, nhìn đất, nhìn thẳng”,
o

Kết cấu thơ 6 chữ với nhịp 2/2/2 đều đặn, điệp từ “nhìn”, chữ “ung dung” đảo lên

đầu làm nổi bật tư thế ấy.
o “Nhìn thẳng” là cái nhìn có vẻ trang nghiêm, bất khuất khơng thẹn với đất với
trời, nhìn thẳng vào mọi gian khổ hy sinh mà không hề run sợ, né tránh. Dường như ở
phía trước, cả khơng gian, đất trời thu vào tầm mắt của họ, và cái đích họ muốn đưa
16


chiếc xe tới chính là nơi chiến trường khói lửa. Tư thế của họ mới thật đàng hoàng làm
sao.
o Cùng với tư thế nổi bật ấy là tầm quan sát cao rộng với điệp đất “nhìn” biểu hiện
sự tập trung cao độ, một tinh thần trách nhiệm nhưng của một tâm hồn lãng mạn, bình

thản, chủ động chiêm ngưỡng và tận hưởng từng vẻ đẹp của thiên nhiên qua ô cửa
kính vỡ.
*Khổ 3+4/Thiên nhiên cịn là sự khốc liệt của bụi, gió, mưa nhưng với một thái độ
ngang tàng thách thức, bất chấp mọi gian khổ, khó khăn với tinh thần quả cảm:
Khơng có kính ừ thì có bụi
…………………………….
Mưa ngừng, gió lùa khơ mau thơi.
o

Người chiến sĩ lái xe bng những tiếng chắc gọn “Khơng có… ừ thì” như một

lời nói thường, nơm na mà cứng cỏi biến những khó khăn thành điều thú vị, với ý
nghĩa táo tợn “Chưa cần… cây số nữa”.
o Giọng ngang tàng, bất chấp thể hiện rõ trong cấu trúc từ lặp: “Khơng có kính ừ
thì… chưa cần” và trong các chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha” hay
“lái trăm cây số nữa” giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc, gió bụi, mưa có
thể gây bao khó khăn.
o Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực: “Mưa tn mưa xối như ngồi
trời”, nhưng người chiến sĩ đã bình thường hố cái khơng bình thường đó và vượt lên
cùng tất cả sự cố gắng, cùng tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian khổ như
một điều tất yếu, khó khăn khơng mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Hình ảnh
của họ mang một vẻ đẹp kiên cường.
o Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút bươn trải trên đường. Có
chỗ nhịp nhàng, trong sáng như vẳng tiếng hát – vút cao.
b/ Khổ 5+6: Tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ, tình đồng chí, đồng đội sâu sắc.
- Sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những “tiểu đội xe khơng kính”.
- Họ có thể “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mà không cần mở cửa xe, thoải mái, tự hào và
thắm tình đồng đội. Chỉ một cái bắt tay cũng ấm lịng, đủ động viên nhau, cảm thơng
với nhau. Cái bắt tay truyền cho nhau cả tâm hồn, tình cảm. Tình cảm ấy thắm thiết
như ruột thịt, như anh em trong gia đình.

17


- “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy” là một
cách định nghĩa về gia đình thật lạ, thật tếu hóm và tình cảm thật sâu nặng, thiêng
liêng giúp con người xích lại gần nhau trong những cái chung: chung bát, chung đĩa,
nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh, chung con đường với vơ vàn thách thức nguy
hiểm phía trước.
- Khi hành quân các anh động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo, những sinh
hoạt, nghỉ ngơi thật ngắn ngủi, cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian khổ nhưng tâm hồn
người lính thật vui tươi, lạc quan, có cái gì xao xuyến: “Võng mắc chơng chênh đường
xe chạy”. “Chơng chênh” gì thì chơng chênh nhưng ý chí chiến đấu, khí phách, nghị
lực vẫn vững vàng, kiên định, vượt lên tất cả. Chính mình đồng đội đã tiếp cho họ sức
mạnh để tâm hồn họ phơi phới lạc quan. Phải chăng chính tình cảm ấy đã nâng lên câu
hát nâng bước chân người lính tiếp tục vượt qua những lần “bom giật bom rung” để
rồi “lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
- Điệp ngữ “lại đi” khẳng định đoàn xe khơng ngừng tiến tới. Hình ảnh “trời xanh
thêm” gợi lên tâm hồn chan chứa lạc quan, đầy hy vọng, yêu đời của người lính.
c/ Khổ cuối: Ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đối lập, bất ngờ, sâu sắc, đối lập giữa 2 phương diện
vật chất và tinh thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe.
“Khơng có kính rồi xe khơng có đèn
Khơng có mui xe, thùng xe có xước”
- Với biện pháp liệt kê, điệp ngữ “khơng có” được nhắc lại 3 lần nhấn mạnh sự
thiếu thốn đến trần trụi của những chiếc xe, còn cho ta thấy mức độ ác liệt của
chiến trường.
- Đối lập với tất cả những cái “khơng có” ở trên là một cái “có”. Đó là trái tim –
sức mạnh của người lính. Sức mạnh con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù.
- Trái tim ấy thay thế cho tất cả những thiếu thốn “khơng kính, khơng đèn, không
mui”, hợp nhất với người chiến sĩ lái xe thành một cơ thể sống khơng gì tàn phá,

ngăn trở được.
- Trái tim yêu thương, trái tim can trường của người chiến sĩ lái xe vừa là hình ảnh
hốn dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ gợi ra biết bao ý nghĩa: trái tim là hình ảnh hội tụ
vẻ đẹp mà thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân yêu, trái tim chứa đựng bản lĩnh
hiên ngang, lòng dũng cảm tuyệt vời. Trái tim mang tinh thần lạc quan và một
18


niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Trái tim trở thành nhãn tự bài
thơ, cô đúc ý tồn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại cảm xúc sâu lắng
trong lòng người đọc.
- Trái tim người lính toả sáng rực rỡ mãi đến mn thế hệ mai sau khiến ta không
quên một thế hệ thanh niên thời kỳ chống Mỹ oanh liệt của dân tộc.
3. Nghệ thuật:Ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của
Phạm Tiến Duật, góp phần khắc hoạ hình ảnh người chiến sĩ lái xe.
- Ngôn ngữ bài thơ giản dị, ngồn ngộn chất sống, đời sống chiến trường, vừa làm
giàu thêm chất điệu thơ ca vừa thể hiện chân thực hình ảnh người lính lái xe. Lời
thơ gần với lời văn xi, lời đối thoại, lời nói thường nhưng vẫn giàu chất thơ.
Chất thơ tốt lên từ những hình ảnh độc đáo; từ vẻ hiên ngang, sơi nổi, trẻ trung
của người lính, từ những ấn tượng cảm giác cụ thể của họ khi ngồi trên những
chiếc xe khơng kính.
- Ngơn ngữ đó góp phần tạo nên giọng điệu ngang tàng có cả chất tinh nghịch phù
hợp với đối tượng miêu tả - những chàng trai lái xe trên những chiếc xe khơng
kính.
- Thể thơ kết hợp linh hoạt giữa thể 7 chữ với thể 8 chữ, có chỗ 6 hay 10 chữ tạo
cho bài thơ một điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động, góp phần tạo nên
chất thơ mới, giọng điệu mới của thơ ca chống Mỹ. Nó bắt nguồn từ sức trẻ, từ
tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải
nghiệm.
III.LUYỆN TẬP

Bài 1/ Cảm nhận về hình ảnh người lính lái xe trong 2 câu cuối bài thơ

BỘ SỐ 4: CÁCH LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XH
TRỌN BỘ BÀI VĂN MẪU 160 TRANG
19


ĐỀ BÀI: THI HSG HUYỆN NĂM 2016-2017

Câu 1; Bàn về học vấn, ngạn ngữ Hy Lạp có câu "Học vấn có những chùm rễ đắng cay
nhưng hoa quả lại ngọt ngào". Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy nói rõ quan niệm
của mình về vấn đề này.
Câu 2: Bàn về bài thơ bạn đến chơi nhà có ý kiến cho rằng : “bài thơ lập ý
bằng cách nêu lên một tình huống hồn tồn khơng có gì để tiếp đãi bạn
để rồi kết thúc thật bất ngờ bác đến chơi đây ta với ta” nhưng thể hiện một
tình bạn đậm đà thắm thiết.
Em có đồng ý với kiến trên khơng? Vì sao? Từ đó hãy nêu nêu suy nghĩ của
mình về vài trị của tình bạn trong cuộc sống.
Bài làm

Câu 1:

Trong lịch sử phát triển của thế giới suốt mấy ngàn năm qua, ở bất cứ quốc gia

nào, dân tộc nào cũng có những tài năng xuất chúng, những học giả uyên bác đã cống hiến
cho đời nhiều điều đem lại lợi ích lớn lao, làm thay đổi cơ bản cuộc sống vật chất và tinh thần
của xã hội lồi người. Đó là kết quả của q trình rèn luyện và khơng ngừng học tập vì thế
ngạn ngữ Hy Lạp có câu "Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả lại ngọt
ngào".
Giải thích học vấn là gì? Học vấn thường được hiểu là trình độ hiểu biết của người có học.

Học vấn của một con người không chỉ hạn chế trong một lĩnh vực nào đó mà có thể mở rộng
ra nhiều lĩnh vực khác nhau. "Chùm rễ đắng cay” là những khó khăn mà ta gặp trong quá
trình học tập và “ hoa quả ngọt ngào” là thành quả tốt đẹp của một quá trình học tập đầy vất
vả. Câu ngạn ngữ này cho ta thấy con đường học tập của chúng ta không thẳng tắp mà có rất
nhiều trở ngại nhưng nếu ta có ý chí và quyết tâm vươn lên, nhất định ta sẽ gặt hái được
những hoa quả rất ngọt ngào.
Học vấn có vai trị quan trọng ra sao trong đời sống con người?
Học vấn cần thiết đối với mỗi con người như vậy, nhưng con người đến với học vấn
quả là gian nan, vất vả. Việc tích lũy và nâng cao tri thức không phải là chuyện ngày một
ngày hai mà là chuyện cả đời người. Con đường học tập là con đường gian nan, khổ ải nhưng

20


cuối con đường là ánh sáng, là tương lai.: Bể học không bờ (Khổng tử); Học, học nữa, học
mãi (Lê-nin).
Muốn có học vấn, chúng ta phải có ý chí và nghị lực phấn đấu rất cao. Hãy nhìn con
kiến tha mồi, con ong làm mật. Việc tích lũy kiến thức của con người giống như Kiến tha lâu
cũng đầy tổ (tục ngữ). Nếu cố gắng học hành thì đến một ngày nào đó, chúng ta có được một
trình độ học vấn vững vàng, phong phú. (Lí lẽ, lập luận bằng cách so sánh)
Thực tế lịch sử cho thấy những người nổi tiếng, uyên bác đều trải qua quá trình học tập,
nghiên cứu lâu dài, lao tâm khổ trí; phải nếm trải khơng ít vị đắng cay của thất bại; thậm trí cả
sự nguy hiểm đối với mạng sống của mình. Nhưng với lòng đam mê hiểu biết và khát vọng
chinh phục, họ đã vượt qua tất cả để đi đến thành cơng.
Trong q trình tích lũy, nâng cao học vấn, chúng ta thấy rất ít người có đầy đủ điều
kiện học tập mà phần lớn là gặp khó khăn. Khó khăn khách quan như thiếu tài liệu , như bài
giảng khó hiểu, bài tập khó hay những vấn đề phức tạp trong quá trình học tập và nghiên
cứu... Bên cạnh đó là những khó khăn chủ quan như gia đình nghèo túng, bản thân phải vừa
học vừa làm thêm để kiếm sống... Tất cả những cái đó ảnh hưởng khơng nhỏ tới q trình học
tập của mỗi người, địi hỏi chúng ta phải biết vượt lên để đi tới đích.

Dẫn chứng: Xưa nay, ở nước ta có biết bao gương hiếu học đáng khâm phục. Mạc Đĩnh Chi
nhà nghèo đến mức phải hằng ngày kiếm củi đổi gạo nuôi thân . Đêm xuống, không tiền mua
dầu thắp sáng, phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng thay đèn để học bài. Lương Thế Vinh từ
một trẻ chăn trâu mà tu chí học hành để rồi trở thành nhà tốn học... Gần hơn có Bác Hồ kính
u - một tấm gương vượt khó trong học tập... Bác Hồ đã trải qua bao gian nan, thử thách để
rèn luyện ý chí, khơng ngừng nâng cao hiểu biết về văn hóa và lịch sử nhân loại. Từ đó rút ra
những kinh nghiệm bổ ích, thiết thực phục vụ cho phong trào cách mạng đấu tranh giải phóng
dân tộc. Con đường học tập của Bác gian nan như thế nhưng thành của của nó thì vĩ đại vơ
cùng. Trên thế giới có hàng ngàn, hàng triệu tấm gương sáng tiêu biểu cho giá trị của học vấn.
- Mở rộng, phản đề. Liên hệ bản thân: Câu ngạn ngữ đã giúp em nhận thức đúng đắn và
tầm quan trọng của việc học cũng như trau dồi kiến thức. Chỉ có học vấn con người ta mới đi
đến thành cơng, mới giúp ích cho đời. Em cũng nhận thức được những đắng cay trên bước
đường nâng cao học vấn giúp chúng ta hoàn thiện nhân cách và biết quý trọng hơn những hoa
quả ngọt ngào mà học vấn mang lại cho cuộc sống. Tiếc rằng trong cuộc sống chúng ta vẫn
còn nhiều bạn trẻ chưa nhận thức đúng đắn vai trò của học vấn, thái độ thơ ơ trước việc học,
thậm chí ỉ vào cha mẹ…thái độ đó chúng ta khơng những khơng học tập mà còn phải phê

21


phán. Bản thân khi đang ngồi trên ghế nhà trường, mỗi người chúng ta cần nhận thức đúng
vai trò của việc học đồng thời không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để trau dồi kiến thức, chun
mơn góp phần vào cơng cuộc đổi mới đất nước như Bác đã từng mong ước. Phải biết vượt
qua khó khăn thử thách bởi vì trên con đường chinh phục đỉnh cao trí tuệ nhân loại, mỗi
người phải đối mắt với mn vàn khó khăn, nếu không lường trướdc được chúng ta dễ bị gục
ngã.
Ý nghĩa của câu ngạn ngữ Hy Lạp: Học vấn có những chùm rễ đắng cay nhưng hoa quả
lại ngọt ngào đã trở thành chân lí trong mọi thời đại, nhất là trong thời đại hiện nay - nền kinh
tế tri thức đang là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Vì thế mỗi người cần nhận thức rằng: vẻ đẹp
của nhan sắc dù lộng lẫy đến mấy cũng tàn phai theo thời gian nhưng vẻ đẹp trí tuệ, tâm hồn

thì luôn thách thức với thời gian. Và ngân ngữ phương Đơng có câu: “người khơng học như
ngọc khơng mài”.

22



×