Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Chỉ định thầu mua sắm hàng hóa theo pháp luật từ thực tiễn các đơn vị sự nghiệp công lập của bộ tài nguyên và môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ DUNG

CHỈ ĐỊNH THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO
PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN CÁC ĐƠN VỊ SỰ
NGHIỆP CÔNG LẬP THUỘC BỘ TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM THỊ DUNG

CHỈ ĐỊNH THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA THEO
PHÁP LUẬT TỪ THỰC TIỄN CÁC ĐƠN VỊ SỰ
NGHIỆP CÔNG LẬP THUỘC BỘ TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG

Ngành:Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS: VŨ THỊ HỒNG VÂN



Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện khoa học xã hội xem xét
để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Học viên

Phạm Thị Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỈ ĐỊNH THẦU MUA
SẮM HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỈ ĐỊNH THẦU MUA
SẮM HÀNG HÓA ........................................................................................... 8
1.1. Khái quát chung về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa ....................... 8
1.2. Pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa ................................. 19
1.3. Quy định của một số nước và tổ chức quốc tế về chỉ định thầu
mua sắm hàng hóa ................................... Error! Bookmark not defined.
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỈ ĐỊNH
THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP CỦA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ

MÔI TRƯỜNG.............................................................................................. 27
2.1. Thực trạng pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa ở Việt
Nam hiện nay .......................................................................................... 27
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về chỉ định thầu trong mua sắm hàng hóa
tại các đơn vị sự nghiệp cơng lập của Bộ Tài nguyên và Môi trường.......... 48
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ CHỈ ĐỊNH
THẦU MUA SẮM HÀNG HĨA TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP
CƠNG LẬP CỦA BỘ TÀI NGUN VÀ MƠI TRƯỜNG ..................... 59
3.1. Phương hướng hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa ........................................ 59
3.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật chỉ
định thầu mua sắm hàng hóa tại các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ
tài nguyên và môi trường ........................................................................ 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chỉ định thầu là một trong những hình thức lựa chọn nhà thầu được quy
định trong Luật Đấu thầu. Thông qua hoạt động đấu thầu, bên mời thầu có
nhiều cơ hội để lựa chọn nhà thầu phù hợp với mình nhằm mang lại hiệu quả
cao nhất với giá cả cạnh tranh nhất, do thủ tục lựa chọn nhà thầu của chỉ định
thầu đơn giản và thời gian thực hiện ngắn nên nhiều chủ đầu tư mong muốn
áp dụng hình thức này để đẩy nhanh tiến độ của gói thầu dự án và giảm bớt
rủi ro cho chủ đầu tư, vì chỉ định thầu chỉ có một nhà thầu tham gia nên gần
như khơng có kiến nghị trong đấu thầu.
Hình thức chỉ định được quy định trong Luật Đấu thầu năm 2005 và
được sửa đổi, bổ sung năm 2013, đã đóng góp những thành tựu to lớn cho sự

phát triển của kinh tế đất nước... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số
quy định của Luật đã có một số bất cập như: Luật Đấu thầu và các văn bản
pháp luật liên quan đã có những quy định về việc chỉ định thầu, bao gồm các
trường hợp áp dụng chỉ định thầu, các điều kiện thực hiện chỉ định
thầu,…Song, việc áp dụng mức giá như thế nào khi chỉ định thầu thì lại chưa
có quy định cụ thể và để cho các cơ quan, tổ chức yêu cầu tự quyết. Có thể lỗ
hổng ở việc chỉ định thầu này đã khiến các đối tượng lợi dụng để trục lợi, việc
chỉ định thầu đã triệt tiêu sự cạnh tranh và qua đó có nguy cơ có thể dẫn đến
mức giá khơng hợp lý. Ngồi ra, Luật Đấu thầu năm 2013 cũng như các văn
bản pháp luật có liên quan quy định những chế tài, nhưng chưa đủ mạnh,
chính vì vậy, chủ đầu tư và lãnh đạo các tỉnh, địa phương vẫn chỉ định thầu
tràn lan và vi phạm quy định về giám sát, quản lý q trình đấu thầu, chỉ định
thầu. Ví dụ, vừa qua, để rút ngắn thời gian mua sắm, cung ứng nhanh chóng
các máy xét nghiệm Covid-19 phục vụ cơng tác chống dịch tại địa phương,
theo Luật Đấu thầu, các địa phương được quyền chỉ định thầu mua sắm thiết

1


bị, hóa chất, vật tư y tế. Tuy nhiên, thực trạng mỗi địa phương chỉ định thầu
mua máy Real-time PCR xét nghiệm Covid-19 một giá, cao gấp nhiều lần giá
nhập khẩu khoảng 2-3 tỷ đồng/máy là do khơng có định hướng về giá cho các
địa phương thực hiện. Vì khơng có ai quản lý, giám sát q trình chỉ định thầu
mua máy xét nghiệm Covid-19 nên việc các địa phương xác định giá mua
máy xét nghiệm sai không bị phát hiện.
Thực tiễn, việc thực hiện chỉ định thầu mua sắm hàng hóa nói riêng
trong những năm qua bên cạnh những thành cơng, cịn bộc lộ nhiều hạn chế,
vướng mắc như: các nhà đầu tư đã có hành vi chia nhỏ gói thầu để được áp
dụng hình thức chỉ định thầu; một số nhà đầu tư đã viện cớ cấp bách để được
áp dụng hình thức chỉ định thầu; các nhà thầu cịn thiếu trung thực trong việc

cung cấp thơng tin đáp ứng u cầu gói thầu của mình; khai gian vốn sẵn có
để được trúng thầu nhưng sau khơng đáp ứng được tiến độ dẫn đến tình trạng
gói thầu bị kéo dài thời gian thực hiện;chủ đầu tư chỉ định nhà thầu thực hiện
gói thầu khơng theo quy định của Luật đấu thầu, chỉ định nhà thầu một cách
tràn lan gây tác động xấu đến môi trường kinh doanh, không thể hiện được sự
minh bạch và cạnh tranh trong đấu thầu. Đây là những hạn chế mà các nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài đều đang rất mong đợi, kỳ vọng vào một
môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch, bình đẳng và lành mạnh.
Các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường
là những đơn vị dự toán cấp 2, thực hiện quản lý kinh phí và triển khai thực
hiện mua sắm hàng hóa. Trong thời gian qua, các đơn vị cơng lập trực thuộc
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đạt được những thành công nhất định trong
công tác đấu thầu mua sắm hàng hóa, trang thiết bị, phương tiện của ngành tài
ngun và mơi trường, thơng qua hình thức chỉ định thầu các đơn vị đã mua
sắm được hàng hóa, trang thiết bị với giá trị thấp hơn so với trước đây, tiết
kiệm đáng kể cho ngân sách nhà nước; chất lượng hàng hóa và phương tiện
mua sắm qua chỉ định thầu đảm bảo đúng yêu cầu của ngành; đảm bảo được

2


tính cơng khai minh bạch trong cơng tác đấu thầu. Tuy nhiên, chỉ định thầu
việc mua sắm hàng hóa tại các đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi
trường trong những năm qua còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc như: Chủ
đầu tư không đủ năng lực nên khơng kiểm sốt được nhiệm vụ và mục tiêu
được giao; tính chun nghiệp về đấu thầu theo hình thức chỉ định thầu cịn
chưa cao; cơng tác theo dõi, phát hiện sai sót, tiêu cực cịn hạn chế gặp nhiều
khó khăn. Bên cạnh đó tình trạng “thơng thầu” cũng đang nổi lên khá phổ
biến và cũng là một trong những thách thức cho cơ quan quản lý đấu thầu.
Để thực hiện tốt hoạt động chỉ định thầu mang lại sự minh bạch cần

phải có một hành lang pháp lý chặt chẽ, chế tài đủ mạnh, các quy định phải
phù hợp với tình hình thực thực tế. Xuất phát từ yêu cầu đó việc nghiên cứu,
phân tích cơ chế quản lý chỉ định thầu mua sắm hàng hóa theo pháp luật đấu
thầu ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Chỉ định thầu mua sắm hàng
hóa theo pháp luật từ thực tiễn các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài
nguyên và Môi trường” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều đề tài khoa học, cơng trình, luận văn
thạc sĩ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình thức chỉ định
thầu mua sắm hàng hóa tại các các đơn vị sự nghiệp cơng lập ở các cấp độ
khác nhau như: “Quy chế đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hóa” (tác giả
Nguyễn Duy Phương – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2006);“ Quản lý nhà
nước về hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa trong khu vực cơng ở Việt
Nam” (tác giả Phạm Trung Kiên – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014);
“Đấu thầu của các nhà thầu trong nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế” (tác
giả Phạm Thị Thanh – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012); “Hạn chế cạnh
tranh thông qua chỉ định thầu từ thực tiễn tại Tổng công ty Viễn thông
Mobifone hiện nay” (tác giả Lê Văn Huy- Trường đại học Luật Hà Nội, năm

3


2017) hay “Pháp luật về chỉ định thầu ở Việt Nam- thực trạng và giải pháp”
(tác giả Phan Linh Chi- trường đại học Luật Hà Nội, năm 2014)…
Có thể nói, các đề tài đã nói lên được những ưu điểm cũng như những
bất cập của pháp luật đấu thầu nói chung và chỉ định đấu thầu nói riêng; đồng
thời, các đề tài đã góp phần khơng nhỏ trong việc hồn thiện pháp luật về đấu
thầu để phù hợp hơn với thực tiễn.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu tập trung nào về hình thức

“chỉ định thầu mua sắm hàng hóa theo pháp luật đấu thầu từ thực tiễn các đơn
vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài nguyên và Mơi trường”. Vì vậy, luận văn tốt
nghiệp sẽ tập trung nghiên cứu về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa theo pháp
luật đấu thầu tại các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài nguyên và Môi
trường để đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với hình thức chỉ
định thầu mua sắm hàng hóa ở Việt Nam cũng như trong ngành tài nguyên và
môi trường.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn pháp luật về chỉ định thầu, đồng thời chỉ ra thực tiễn thực hiện chỉ
định thầu tại các đơn vị sự nghiệp cơng lập của Bộ Tài ngun và Mơi trường,
từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa tại
các đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chỉ định thầu mua
sắm hàng hóa;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về chỉ định thầu mua sắm
hàng hóa ở Việt Nam hiện nay;

4


- Khảo sát, đánh giá thực tiễn thực hiện những quy định về chỉ định
thầu mua sắm hàng hóa ở các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài nguyên
và Môi trường, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và tìm hiểu ngun nhân những
tồn tại, hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao

hiệu quả thực hiện quy định về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa theo pháp luật
đấu thầu tại các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài nguyên và Môi trường
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Các quan điểm, học thuyết pháp lý,
lý thuyết về về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa; pháp luật hiện hành của Việt
Nam về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa tại các đơn vị sự nghiệp công lập.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và
phân tích quy định pháp luật Việt Nam về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa tại
các đơn vị sự nghiệp công lập;
- Về không gian: Luận văn khảo sát và đánh giá thực hiện quy định về
chỉ định thầu mua sắm hàng hóa tại các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài
nguyên và Môi trường. Nội dung tập trung vào hoạt động mua sắm hàng hóa,
trang thiết bị, phương tiện phục vụ ngành tài nguyên và môi trường;
- Về thời gian: Luận văn khảo sát và đánh giá việc thực hiện quy định
về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa tại các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ
Tài nguyên và Môi trường từ năm 2016 đến năm 2019.
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật

5


của Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường để luận giải
các vấn đề lý luận về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa và pháp luật về chỉ
định thầu mua sắm hàng hóa.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, quy nạp, tổng hợp
hệ thống hóa… để khái quát lý luận và đánh giá thực trạng pháp luật Việt
Nam về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa và thực tiễn thi hành tại các đơn vị
sự nghiệp công lập của Bộ Tài ngun và Mơi trường; qua đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp chỉ định thầu mua
sắm hàng hóa nói chung và tại các đơn vị sự nghiệp cơng lập của Bộ Tài
ngun và Mơi trường nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan, làm rõ nhận thức
và cách nhìn tổng quan về cơng tác chỉ định thầu mua sắm hàng hóa tại các
đơn vị sự nghiệp công lập.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Làm rõ thực trạng, kinh nghiệm chỉ định thầu mua sắm hàng hóa tại các
đơn vị sự nghiệp cơng lập của Bộ Tài ngun và Mơi trường, từ đó khái qt
những điểm yếu, điểm mạnh về công tác chỉ định thầu mua sắm hàng hóa. Đề
xuất những giải pháp điều chỉnh biện pháp biện pháp khắc phục và hồn thiện
hình thức chỉ định thầu mua sắm hàng hóa tại các đơn vị sự nghiệp công lập
của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn kết cấu gồm 03
chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa và
pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa.

6


Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chỉ định thầu mua sắm

hàng hóa và thực tiễn thi hành tại các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ Tài
nguyên và Môi trường hiện nay.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa tại các đơn vị sự
nghiệp công lập của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong thời gian tới.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỈ ĐỊNH THẦU MUA SẮM HÀNG
HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỈ ĐỊNH THẦU MUA SẮM HÀNG HÓA
1.1. Khái quát chung về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa
1.1.1. Khái niệm về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa
* Khái niệm về đấu thầu: Chỉ định thầu là một hình thức của đấu thầu
theo quy định của pháp luật về đấu thầu, vì vậy, muốn hiểu được chỉ định
thầu thì ta phải hiểu được các quy định của pháp luật về đấu thầu.
Thuật ngữ “đấu thầu” đã xuất hiện trong pháp luật các quốc gia từ rất
lâu. Giữa các quốc gia có tồn tại những định nghĩa khác nhau về thuật ngữ
đấu thầu, nhưng về bản chất thì các định nghĩa về đấu thầu đều xuất phát từ
một thuật ngữ có xuất xứ từ tiếng Anh là “Procurement” có nghĩa là mua
sắm. Từ điển kinh doanh của Anh (Longman dictionary of Business english)
không định nghĩa cụ thể đấu thầu là gì mà chỉ giải thích đấu thầu mua sắm là
việc sử dụng các phương pháp hoặc nỗ lực đặc biệt để nhận được hay mua
được. Từ điển Luật của Black’s thì lại giải thích: “Đấu thầu là các hành động
hay cách thức để nhận được, mua được, là việc người mua và người bán gặp
gỡ nhau sao cho người bán có cơ hội để bán hàng của mình”. Cịn theo Từ
điển Luật học thì “Đấu thầu là phương thức giao dịch đặc biệt, người muốn
xây dựng một cơng trình (người gọi thầu) cơng bố trước các u cầu và điều
kiện xây dựng cơng trình, người dự thầu cơng bố giá mà mình muốn nhận,

người gọi thầu qua so sánh để lựa chọn nhà thầu có lợi ích nhất cho mình
theo các điều kiện mình đưa ra. Cuộc đấu thầu chỉ có nhà thầu trong nước
tham dự gọi là đấu thầu trong nước.Cuộc đấu thầu có các nhà thầu trong
nước và nước ngồi tham dự gọi là đấu thầu quốc tế” [22, tr.240].
Theo Khoản 2, Điều 4 của Luật Đấu thầu năm 2013, “Đấu thầu là quá
trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ tư

8


vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà đầu tư để
ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư, dự
án đầu tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh
bạch và hiệu quả kinh tế”. Tuy nhiên, quy định này lại chỉ áp dụng chủ yếu
trong đấu thầu mua sắm hàng hóa, dịch vụ cơng, thanh tốn bằng tiền ngân
sách hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại là một loại đấu thầu tồn
tại trên thực tế, nó được coi là một loại hành vi pháp lý do một nhóm chủ thể đặc
biệt trong xã hội- các thương nhân thực hiện và là đối tượng điều chỉnh của Luật
Thương mại. Khoản 1 Điều 214 Luật Thương mại năm 2005 quy định về đấu
thầu hàng hóa như sau: "Đấu thầu hàng hố, dịch vụ là hoạt động thương mại,
theo đó một bên mua hàng hố, dịch vụ thơng qua mời thầu (gọi là bên mời
thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự
thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được
lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu)".
Có thể thấy, đấu thầu là q trình chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu đáp ứng
toàn bộ các u cầu mà mình đã đặt ra, trong đó, bên mua sẽ tổ chức đấu thầu
để bên bán (các nhà thầu) cạnh tranh với nhau. Mục tiêu của bên mua là có
được các hàng hóa và dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu của mình về kĩ thuật, chất
lượng và với chi phí thấp nhất. Mục đích của bên nhà thầu là giành được

quyền cung cấp mua hàng hóa, dịch vụ với mức giá hợp lý, đủ bù đắp các chi
phí đầu vào và đảm bảo mức lợi nhuận cao nhất có thể. Vì vậy, bản chất của
đấu thầu đã được xã hội thừa nhận như một sự cạnh tranh lành mạnh để được
thực hiện một việc nào đó, yêu cầu nào đó. Sau khi q trình đấu thầu kết
thúc, kết quả của sự lựa chọn đó là có hợp đồng ký kết giữa các bên với các
điều khoản quy định cho tiết trách nhiệm của từng bên tham gia; bên nhà đầu
tư có trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ nêu trong hồ sơ mời thầu, còn bên
chủ đầu tư phải giám sát, kiểm tra, nghiệm thu và thanh toán.

9


Từ khái niệm trên, có thể xác định đấu thầu cũng là một hoạt động
thương mại phổ biến. Vì vậy, nó có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ trong thương mại ln gắn liền
với quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Đấu thầu chỉ được tổ chức
khi một bên chủ thể có nhu cầu mua sắm hàng hóa, dịch vụ tốt nhất theo yêu
cầu, kết quả đấu thầu sẽ là cơ sở để các bên thương thảo hợp đồng mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại, trong đó nội dung hợp đồng bao gồm
cả những chi tiết của hồ sơ dự thầu. Vì thế, thực chất, đấu thầu hàng hóa, dịch
vụ chỉ là giai đoạn tiền hợp đồng thương mại chứ không phải là một hoạt
động thương mại độc lập.
Thứ hai, đấu thầu là một quá trình đa chủ thể. Các bên tham gia q
trình đấu thầu ln bao gồm bên mời thầu và bên dự thầu, bên mời thầu
thường là chủ sở hữu của nguồn vốn được dùng để mua sắm hàng hóa, dịch
vụ. Trong một số trường hợp, bên mời thầu cũng có thể chỉ là người được
giao quyền sử dụng vốn để mua sắm hàng hóa, dịch vụ, do vậy, chủ sở hữu
thật sự của nguồn vốn sẽ có vai trị chi phối nhất định đối với gói thầu. Cịn
bên dự thầu là bên có khả năng cung cấp hàng hóa, dịch vụ nhưng khơng phải
chủ thể nào cũng có thể trở thành bên dự thầu, chỉ những chủ thể có năng lực

thực hiện và khơng nằm trong diện bị loại trừ theo các tiêu chuẩn mà bên mời
thầu đặt ra mới có quyền trở thành bên tham dự thầu. Ngoài ra, trong mối
quan hệ đấu thầu, chủ thể thứ ba cũng thường xuất hiện với vai trị là các nhà
tư vấn, họ có vai trị là đảm bảo cho quá trình đấu thầu được diễn ra một cách
nghiêm túc.
Một bên nữa trong quan hệ đấu thầu là chủ sở hữu nguồn vốn, mặc dù
họ không trực tiếp tham gia vào quan hệ này nhưng họ lại có vai trị quyết
định trong việc chi nguồn vốn cho gói thầu. Ngồi ra, các cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền thẩm định, phê duyệt kết quả đấu thầu cũng được coi là một bên
trong quan hệ đấu thầu. Vai trò của họ là nhằm đảm bảo cho quá trình đấu

10


thầu diễn ra đúng trình tự, thủ tục, nhanh chóng phát hiện và sửa chữa kịp thời
các sai sót xảy ra trong tồn bộ quy trình đấu thầu cũng như kiểm tra lần cuối
trước khi đi đến giai đoạn ký kết và thực hiện hợp đồng.
Thứ ba, đấu thầu là một quy trình gồm nhiều giai đoạn, các giai đoạn đó
có mối quan hệ mật thiết với nhau, giai đoạn trước là tiền đề, là nền móng cho
giai đoạn sau. Mỗi giai đoạn có vai trị khác nhau nhưng tựu chung lại thì các
giai đoạn đều nằm trong một thể thống nhất, và khi các chủ thể tham gia vào
từng giai đoạn của quan hệ đấu thầu họ đều phải tuân theo những quy tắc chung.
Thứ tư, đấu thầu là q trình cạnh tranh bình đẳng, cơng khai và minh
bạch. Khi tham gia vào hoạt động đấu thầu, bên mời thầu đưa ra trước các yêu
cầu của mình để các bên dự thầu căn cứ vào đó để đưa ra các mức giá cung
cấp hàng hóa, dịch vụ. Vì thế, đấu thầu chính là sự cạnh tranh cơng bằng giữa
các bên dự thầu, tất nhiên, sự cạnh tranh này phải tuân theo những nguyên
tắc, những yêu cầu nhất định, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng, cơng bằng
giữa các bên dự thầu. Tính cơng bằng được thể hiện ở việc các nhà thầu được
hưởng các điều kiện, cơ hội như nhau trong q trình đấu thầu. Bên mời thầu

phải có trách nhiệm đảm bảo các điều kiện đặt ra đối với các nhà thầu là
ngang nhau, đồng thời ngoài các thơng tin cần giữ bí mật, cịn các thơng tin
về đấu thầu được cung cấp cho các nhà thầu phải như nhau, khơng được có sự
phân biệt đối xử. Chính điều này, đã tạo ra sự minh bạch, bên mời thầu sẽ
hiểu rõ hơn năng lực của từng nhà thầu để từ đó có căn cứ đưa ra quyết định
lựa chọn một đối tác phù hợp để hợp tác.
Thứ năm, khi tham gia đấu thầu, nhà thầu phải có sự bảo lãnh dự
thầu.Việc bảo lãnh ở đây chính là việc các nhà thầu đặt một khoản tiền mặt, séc
hoặc bảo lãnh của ngân hàng… để đảm bảo trách nhiệm của mình với hồ sơ dự
thầu.Trường hợp nhà thầu vi phạm quy định dự thầu mà không thực hiện hoặc
thực hiện khơng đầy đủ nghĩa vụ tài chính tham gia dự thầu thì bên bảo lãnh sẽ
phải trả thay nhà thầu một số tiền cho bên mời thầu ngay sau khi nhận được văn

11


bản yêu cầu của bên mời thầu. Biện pháp này có mục đích là đảm bảo nhà thầu
khơng thay đổi ý định và hủy bỏ việc tham gia đấu thầu, đồng thời cũng bảo vệ
quyền lợi thầu và loại bỏ những nhà thầu không nghiêm túc.
Thứ sáu, đấu thầu là một giai đoạn tiền hợp đồng nhằm lựa chọn đối
tác, nhà thầu phù hợp đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án.Thông thường để đi
đến được bước thỏa thuận và ký kết hợp đồng, người ta phải trải qua giai đoạn
đàm phán hợp đồng.Nhưng cũng có một số loại hợp đồng đặc thù để đi đến
giai đoạn các bên có thể gặp gỡ để đàm phán thì phải qua một giai đoạn lựa
chọn đối tác có đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để đàm
phán. Giai đoạn này được gọi là đấu thầu.Việc đấu thầu với mục đích là nhằm
lựa chọn đối tác, nhà thầu phù hợp đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án.
* Khái niệm chỉ định thầu
Để hiểu rõ hình thức chỉ định thầu là gì thì trước hết ta cần phải hiểu
chỉ định là gì. Theo từ điển tiếng Việt: “chỉ định” có nghĩa là quyết định chọn,

cử ra để làm việc gì [23, tr.153]. Và chỉ định thầu chính là hình thức lựa chọn
trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo và ký kết hợp
đồng. Nhà thầu được lựa chọn có những điều kiện nhất định mà những nhà
thầu khác không đáp ứng được.
Như đã trình bày ở trên, chỉ định thầu là một hình thức của đấu thầu, nó
mang đủ các đặc điểm của đấu thầu như: (i) Mục đích cuối cùng là lựa chọn nhà
thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng; (ii) kết quả của sự lựa chọn là có hợp đồng
ký kết giữa các bên cùng với các điều khoản cụ thể quy định về quyền lợi và
trách nhiệm của mỗi bên. Ngoài đặc điểm chung trên thì chỉ định thầu cũng có
những đặc điểm riêng biệt khác so với các hình thức đấu thầu khác:
Thứ nhất, chỉ định thầu được hiểu là giao cho một nhà thầu nhất định
nhiệm vụ thực hiện gói thầu. Hình thức này áp dụng cho nhà thầu có những
điều kiện mà các nhà thầu khác khơng có, đáp ứng được các yêu cầu của bên
mời thầu.

12


Thứ hai, chỉ định thầu được tiến hành trong khoảng thời gian ngắn hơn
nhiều so với các hình thức cịn lại.
Ở Việt Nam, đối với chỉ định thầu thông thường, pháp luật về đấu thầu
quy định thời gian thẩm định hồ sơ yêu cầu không quá 20 ngày, thẩm định
Báo cáo đánh giá hồ sơ đề xuất tối đa 30 ngày, thẩm định kết quả chỉ định
thầu 20 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ trình, thời gian cấp thẩm quyền phê
duyệt kết quả chỉ định thầu tối đa là 10 ngày. Như vậy, so với các hình thức
khác chỉ định thầu không cần công đoạn chuẩn bị Hồ sơ mời quan tâm, đánh
giá hồ sơ dự sơ tuyển.
Thứ ba, chỉ định thầu không được áp dụng rộng rãi mà chỉ được áp
dụng trong những trường hợp nhất định vì những lý do như: Bất khả kháng,
do yêu cầu, do đảm bảo bí mật, độc quyền, đảm bảo tương thích, chun mơn

(Điều 22 Luật Đấu thầu năm 2013)… Như vậy, với hình thức chỉ định thầu thì
nhà thầu được chỉ định sẽ khơng có đối thủ cạnh tranh. Trong khi đó, các hình
thức đấu thầu khác thì các nhà thầu nộp hồ sơ và cạnh tranh công bằng với
nhau, chỉ nhà thầu có năng lực thực sự mới được lựa chọn.
Theo quy định tại mục 1, chương II Luật Đấu thầu năm 2013 thì đấu
thầu gồm các hình thức như: Chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, mua sắm
trực tiếp, tự thực hiện và lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt và tham
gia thực hiện của cộng đồng. Điều 215 Luật Thương mại năm 2005 quy định
có hai hình thức đấu thầu là đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế. Chúng ta
cần có sự phân biệt giữa các hình thức trên để thấy rõ đặc thù của hình thức
chỉ định thầu hiện nay:
* Phân biệt giữa chỉ định thầu và đấu thầu rộng rãi
Vì cùng là hình thức đấu thầu nên chỉ định thầu và đấu thầu rộng rãi
đều có mục đích là lựa chọn nhà thầu phù hợp trong một gói thầu. Tuy nhiên,
hai hình thức này có rất nhiều điểm khác biệt, khi lựa chọn hình thực cụ thể
thì phải đảm bảo đủ điều kiện của hình thức lựa chọn nhà thầu đó.

13


Thứ nhất, về phạm vi đối tượng tham gia đấu thầu, đối với hình thức
đấu thầu rộng rãi, thì đây là một hình thức đấu thầu khơng hạn chế số lượng
nhà thầu, nhà đầu tư tham dự. Khi tổ chức đấu thầu theo hình thức này, bên
mời thầu phải thơng báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng
tối thiểu là 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu về các điều kiện, thời
gian dự thầu để các nhà thầu tham dự thầu. Đây là hình thức lựa chọn được
nhà thầu tốt nhất, nó mang tính cạnh tranh cao. Cịn hình thức chỉ định thầu
thì lại lựa chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của gói thầu chứ
khơng lựa chọn một cách rộng rãi như hình thức đấu thầu rộng rãi.
Thứ hai, về phạm vi áp dụng, hình thức đấu thầu rộng rãi được áp dụng

cho các gói thầu, dự án thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu năm
2013 mà không có điều kiện áp dụng cho các trường hợp cụ thể. Trong khi
đó, để có thể thực hiện hình thức chỉ định thầu thì gói thầu cần phải đảm bảo
được các điều kiện cụ thể được quy định trong Khoản 1 Điều 22 Luật Đấu
thầu năm 2013. Ngoài ra, các gói thầu thuộc trường hợp được áp dụng hình
thức chỉ định thầu và đáp ứng các điều kiện chỉ định thầu vẫn có thể áp dụng
được hình thức đấu thầu rộng rãi theo quy định tại Khoản 3 Điều 22 Luật Đấu
thầu năm 2013.
Thứ ba, về hạn mức, đối với hình thức đấu thầu rộng rãi thì pháp luật
về đấu thầu khơng quy định hạn mức đối với các gói thầu được thực hiện lựa
chọn nhà thầu bằng hình thức này. Cịn đối với hình thức chỉ định thầu thì giá
trị gói thầu phải nằm trong hạn mức được Chính phủ quy định ở từng thời kỳ,
cụ thể, theo quy định hiện hành: (i) Không quá 500 triệu đồng đối với gói thầu
cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, dịch vụ công; không quá 01 tỷ
đồng đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp, mua thuốc, vật tư
y tế, sản phẩm công; (ii) Khơng q 100 triệu đồng đối với gói thầu thuộc dự
toán mua sắm thường xuyên (Điều 54 Nghị định 63/2014/ NĐ-CP).

14


Thứ tư, về thủ tục, đối với hình thức đấu thầu rộng rãi, trong mọi
trường hợp, các bên tham gia đấu thầu buộc phải tiến hành đấu thầu với đủ
các bước mà pháp luật đấu thầu đã quy định: Chuẩn bị lựa chọn nhà thầu; tổ
chức lựa chọn nhà thầu; đánh giá hồ sơ dự thầu; thương thảo hợp đồng; trình,
thẩm định, phê duyệt và cơng khai kết quả lựa chọn nhà thầu; hồn thiện, ký
kết hợp đồng. Cịn hình thức chỉ định thầu thì khi gói thầu mua sắm nằm
trong hạn mức luật quy định hoặc gói thầu cần thực hiện để khắc phục ngay
hoặc để xử lý kịp thời hậu quả gây ra do sự cố bất khả kháng hay gói thầu cần
triển khai ngay để tránh gây nguy hại trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe và tài

sản của cộng đồng dân cư trên địa bàn hoặc để khơng ảnh hưởng nghiêm
trọng đến cơng trình liền kề; gói thầu mua thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế
để triển khai cơng tác phịng, chống dịch bệnh trong trường hợp cấp bách thì
sẽ được thực hiện chỉ định thầu rút gọn.
Thứ năm, do tính chất của hình thức đấu thầu rộng rãi là phải có sự
tham gia của nhiều nhà thầu nên trong quá trình thực hiện đấu thầu rộng rãi,
bên mời thầu luôn phải thực hiện một bước đó là chuẩn bị hồ sơ mời quan tâm,
đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển. Trong khi đó hình thức chỉ định thầu là chỉ có duy
nhất một nhà thầu được tham gia và chính nhà thầu này được lựa chọn để thực
hiện yêu cầu của bên mời thầu; do đó, ở hình thức mời thầu này, bên mời thầu sẽ
không phải chuẩn bị hồ sơ mời quan tâm, đánh giá hồ sơ dự tuyển.
* Khái niệm về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa
Sau khi đã hiểu được khái niệm của chỉ định thầu, đồng thời căn cứ vào
các yếu tố kinh tế trong các hoạt động thương mại thì có thể hiểu chỉ định
thầu mua sắm hàng hóa chính là hình thức lựa chọn trực tiếp nhà thầu có khả
năng đáp ứng các yêu cầu về số lượng, chất lượng hàng hóa, giá cả… của gói
thầu. Đây là hình thức đặc biệt được áp dụng theo quy định của Luật Đấu thầu
đối với gói thầu mua sắm hàng hóa. Chỉ định thầu mua sắm hàng hóa là hình
thức lựa chọn nhà thầu cần thiết để giải quyết những trường hợp cấp bách hay
đảm bảo bí mật cơng nghệ, bí mật quốc gia.

15


Khác với các hình thức lựa chọn nhà thầu cịn lại là phải có từ hai (02)
nhà thầu trở lên tham gia vào quá trình đấu thầu, đối với hình thức chỉ định
thầu mua sắm hàng hóa, bên mời thầu hoặc cơ quan trực tiếp có trách nhiệm
quản lý gói thầu sau khi xác nhận được nhà thầu có đủ năng lực kinh nghiệm
chỉ thương thảo với một (01) nhà thầu do người có thẩm quyền quyết định
đầu tư chỉ định.

1.1.2. Đặc điểm của chỉ định thầu mua sắm hàng hóa
Chỉ định thầu trong mua sắm hàng hóa cũng chính là một hoạt động chỉ
định thầu thơng thường, do đó, chỉ định thầu trong mua sắm hàng hóa có đủ các
đặc điểm của hình thức chỉ định thầu, bên cạnh đó, cịn có đặc điểm riêng như:
Thứ nhất, chỉ định thầu mua sắm hàng hóa được hiểu là giao cho một
nhà thầu nhất định cung cấp hàng hóa theo yêu cầu của gói thầu cho bên mời
thầu. Theo đó, chỉ có nhà thầu đáp ứng được các điều kiện mà các nhà thầu
khác khơng có thì mới được lựa chọn để cung cấp hàng hóa cho bên mời thầu.
Thứ hai, chỉ định thầu mua sắm hàng hóa sẽ chỉ được thực hiện khi gói
thầu mua sắm hàng hóa đó được dùng cho các trường hợp đặc biệt như: Gói
thầu cần thực hiện để khắc phục ngay hoặc để xử lý kịp thời hậu quả gây ra
do sự cố bất khả kháng; gói thầu cần thực hiện để bảo đảm bí mật nhà nước;
gói thầu cần triển khai ngay để tránh gây nguy hại trực tiếp đến tính mạng,
sức khỏe và tài sản của cộng đồng dân cư trên địa bàn hoặc để khơng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cơng trình liền kề; gói thầu mua thuốc, hóa chất, vật
tư, thiết bị y tế để triển khai cơng tác phịng, chống dịch bệnh trong trường
hợp cấp bách; hay việc mua sắm hàng hóa phải mua từ nhà thầu đã thực hiện
trước đó do phải đảm bảo tính tương thích về cơng nghệ, bản quyền mà không
thể mua được từ nhà thầu khác;…
1.1.3. Ý nghĩa của chỉ định thầu mua sắm hàng hóa
Chỉ định thầu là một hoạt động của nền kinh tế thị trường, nó tuân theo
các quy luật khách quan của thị trường như quy luật cung - cầu, quy luật giá

16


cả - giá trị. Thông qua hoạt động chỉ định thầu, người mua có thể rút ngắn
được bớt thời gian lựa chọn nhà thầu, đẩy nhanh tiến độ khi có những trường
hợp đặc biệt, trường hợp bất khả kháng xảy ra hay bảo vệ bí mật cơng nghệ,
bí mật quốc gia. Đồng thời, những người bán (nhà thầu) có điều kiện để cung

cấp các hàng hóa sản xuất ra, tăng khả năng cạnh tranh của mình trước các
đối thủ khác trên thị trường. Có thể coi chỉ định thầu mua sắm hàng hóa góp
phần khơng nhỏ trong sự phát triển kinh tế, thể hiện vai trò quan trọng trong
việc duy trì việc “vận hành” ổn định của nền kinh tế khi xảy ra các trường
hợp bất khả kháng, trường hợp đặc biệt, cấp bách. Có thể thấy việc chỉ định
thầu mua sắm hàng hóa có ý nghĩa vơ cùng to lớn:
Thứ nhất, đối với kinh tế- xã hội
Chỉ định thầu là một hoạt động quan trọng trong hoạt động đấu thầu, nó
giúp người mua và người bán gặp nhau. Thơng qua hoạt động đấu thầu nói
chung và chỉ định thầu nói riêng, nhiều doanh nghiệp nhà thầu khơng ngừng
phấn đấu, đổi mới, cải tiến, tăng năng xuất cũng như khả năng cạnh tranh,
kích thích thị trường trong nước phát triển. Các chủ đầu tư, người mua cũng
được tăng cường về năng lực, họ có thêm kiến thức, thơng tin, có thể lựa chọn
được những đối tác tốt nhất cho mình, từ đó tạo tiền đề cho sự hợp tác lâu dài
về sau. Ngoài ra, hoạt động chỉ định thầu giúp cho bên mời thầu cũng như cơ
quan quản lý trực tiếp gói thầu khắc phục được ngay những hậu quả từ các tình
huống khẩn cấp, bảo vệ được bí mật quốc gia hay bí mật cơng nghệ. Điều đó góp
phần duy trì, giữ vững sự ổn định của nền kinh tế - xã hội của đất nước, giúp nhà
nước tiết kiệm được một phần ngân sách nhà nước không hề nhỏ.
Thứ hai, đối với bên mua hàng hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ (bên
mời thầu)
Thông qua chỉ định thầu, bên mua có thể rút ngắn được thời gian đấu
thầu, đẩy nhanh tiến độ thực hiện hoạt động mua sắm hàng hóa cần thiết trong
các trường hợp cấp bách, khắc phục ngay những hậu quả do thiên tai, dịch

17


bệnh, các hậu quả xảy ra từ các trường hợp bất khả kháng, trường hợp đặc
biệt. Đồng thời, nhờ chỉ định thầu mà bên mua có thể chọn ra được bên bán, bên

cung ứng hàng hóa tốt nhất, phù hợp với các yêu cầu đặc thù của gói thầu mà
bên mình đã đưa ra. Nhờ đó, bên mua có thể giảm được chi phí đầu tư, tăng lợi
ích kinh tế của việc mua sắm hàng hóa, được dùng các mặt hàng có chất lượng
tốt mà giá lại rẻ, nhất là thời gian được bên bán chuyển giao hàng hóa sẽ nhanh
hơn đáp ứng được nhu cầu cần dùng ngay, cấp bách của bên mua.
Do tính đặc thù của hình thức chỉ định thầu là áp dụng cho các tình
huống khẩn cấp, ít có tiền lệ, nhà thầu có thể tìm ra những giải pháp thực hiện
công việc cũng như các sản phẩm khác nhau mà vẫn đáp ứng được yêu cầu
của bên mời thầu. Điều này tạo ra một cơ hội tốt cho bên mua hàng phát hiện
và có thể sử dụng các sản phẩm mới, các giải pháp mới hiệu quả hơn so với
các hình thức lựa chọn nhà thầu khác.
Thứ ba, đối với nhà thầu
Mục đích của các nhà thầu nói chung chính là bán được sản phẩm của
mình. Trước khi đưa ra giá chào chỉ định thầu, các nhà thầu phải nghiên cứu
giá thành sản phẩm của mình, cũng như phải tìm hiểu kỹ về nội dung, khối
lượng công việc cần thực hiện trong hồ sơ yêu cầu đưa ra mức giá hợp lý thì
mới có cơ hội trúng chỉ định thầu.
Khác với các hình thức khác có nhiều nhà thầu tham gia vào q trình
đấu thầu, trong quy trình thực hiện chỉ định thầu, bản thân nhà thầu đã được
xác định là đảm bảo năng lực tổ chức, năng lực tài chính lành mạnh, có kinh
nghiệm đã thực hiện các gói thầu cung cấp hàng hóa tương tự về tính chất,
quy mơ để được tham gia vào quá trình chỉ định thầu nhà thầu cần phát huy
tối đa khả năng cạnh tranh bằng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình hạ
giá thành sản phẩm bán ra trong thời gian ngắn.
Do đó, chỉ định thầu giúp cho bên nhà thầu nâng cao tính chủ động,
linh hoạt nhằm đáp ứng yêu cầu từ phía thị trường và người mua. Để được lựa

18



chọn trong các gói thầu thực hiện bằng hình thức chỉ định thầu, các nhà thầu
phải chuẩn bị cho mình những khả năng đáp ứng yêu cầu cao của bên mua,
tăng khả năng cạnh tranh của mình bằng chính năng lực, bằng chất lượng, giá
cả của hàng hóa. Chính vì vậy, các nhà thầu phải khơng ngừng tìm tịi, sáng
tạo, cải tiến quy trình cơng nghệ, giảm chi phí sản xuất, tăng cường năng lực
cạnh tranh. Việc được bên mua lựa chọn trong chỉ định thầu cũng giúp cho
các nhà thầu nâng cao được vị thế cũng như uy tín của mình trên thị trường,
mở rộng quan hệ hợp tác.
Tuy nhiên, bên cạnh những vai trò nêu trên, việc thực hiện chỉ định
thầu trong thực tế vẫn còn xuất hiện những tiêu cực gây ảnh hưởng khơng ít
đến nền kinh tế như: Các nhà thầu không trung thực trong việc khai báo năng
lực vốn; tình trạng một nhà thầu được chỉ định nhiều gói thầu có giá trị lớn
cùng một lúc; hay một số chủ thầu viện cớ cấp bách để được phê duyệt chỉ
định thầu, hay hiện tượng xé nhỏ gói thầu, chia giai đoạn đầu tư để lạm dụng
chỉ định thầu, trúng thầu… Do đó, cần phải khắc phục được những hạn chế
này để hoạt động đấu thầu nói chung và chỉ định thầu nói riêng được diễn ra
lành mạnh, đạt hiệu quả, phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế.
1.2. Pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về chỉ định thầu mua sắm
hàng hóa
* Khái niệm pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của chỉ định thầu hàng hóa, dịch vụ
chính là cơ sở thực tiễn cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của pháp luật về chỉ
định thầu trong hoạt động mua sắm hàng hóa. Bên cạnh đó, hoạt động chỉ
định thầu mua sắm hàng hóa muốn đi vào đời sống và được thực hiện một
cách khuôn khổ, trật tự nhất định thì phải được Nhà nước ghi nhận, cụ thể hóa
bằng luật.

19



Pháp luật chỉ định thầu là một bộ phận của pháp luật về đấu thầu nói
chung, gồm tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về hình thức
chỉ định thầu, vừa có tính khái qt vừa có tính cụ thể. Quy phạm pháp luật về
chỉ định thầu có tính khái qt vì nó là tập hợp các quy tắc, quy định chung,
dùng để áp dụng trong tất cả các hoạt động lựa chọn nhà thầu bằng hình thức
chỉ định thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của minh trong cả một quy trình tổ
chức thực hiện chỉ định thầu, đồng thời, cũng rất cụ thể, bởi nó là khuôn mẫu,
chuẩn mực quy định cụ thể để điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt động chỉ
định thầu.
Do đó, có thể hiểu pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa là tổng
thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện và
quản lý hoạt động chỉ định thầu mua sắm hàng hóa.
* Đặc điểm của pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa
Pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa có những đặc điểm sau:
- Pháp luật chỉ định thầu mua sắm hàng hóa chịu sự chi phối, điều
chỉnh của nhiều văn bản pháp luật liên quan chặt chẽ tới nội dung cơng việc
chỉ định thầu do u cầu đối với hình thức đấu thầu này rất chặt chẽ. Bên
cạnh việc phải tuân thủ các nguyên tắc chung về đấu thầu quy định trong Luật
Đấu thầu năm 2013, công tác chỉ định thầu mua sắm hàng hóa cịn phải tn
thủ các ngun tắc điều chỉnh riêng tại các văn bản hướng dẫn như: Nghị định
63/2014/NĐ-CP hướng dẫn Luật đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, Thông tư
58/2016/TT-BTC quy định chi tiết việc sử dụng vốn nhà nước để mua sắm
nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực
lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp cơng lập, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp.

20



- Pháp luật chỉ định thầu mua sắm hàng hóa bao gồm những quy định
về các tình huống, các điều kiện, hạn mức gói thầu được phép áp dụng hình
thức chỉ định thầu. Do tính chất của hoạt động chỉ định thầu là phải cạnh
tranh, vì vậy pháp luật liên quan đến chỉ định thầu phải quy định chi tiết về
các điều kiện được phép áp dụng hình thức này để hạn chế việc lạm dụng hình
thức này để thốt khỏi sự cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường của các
nhà thầu.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa
Pháp luật chỉ định thầu quy định những vấn đề pháp lý cho hoạt động
chỉ định thầu như chuẩn bị chỉ định thầu, tổ chức chỉ định thầu, đánh giá,
thẩm định phê duyệt kết quả chỉ định thầu, thương thảo ký hợp đồng triển
khai. Với chức năng cơ bản là đảm bảo an toàn pháp lý cho hoạt động chỉ
định thầu, pháp luật về chỉ định thầu mua sắm hàng hóa thường quy định
những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể có liên quan đến hoạt động chỉ định thầu
Một trong những đặc trưng của quan hệ pháp luật đấu thầu nói chung
và quan hệ pháp luật chỉ định thầu mua sắm hàng hóa nói riêng là tính xác
định về cơ cấu chủ thể. Xuất phát từ tính chất đặc thù của hoạt động đấu thầu
nói chung và chỉ định thầu mua sắm hàng hóa nói riêng, quy trình thực hiện
chỉ định thầu mua sắm hàng hóa, pháp luật đã xây dựng những quy định cụ
thể những chủ thể được tham gia vào quan hệ chỉ định thầu mua sắm hàng
hóa cùng với những điều kiện cần đáp ứng để tham gia quan hệ này. Chủ thể
cơ bản của quan hệ pháp luật chỉ định thầu mua sắm hàng hóa bao gồm: Chủ
đầu tư hoặc cơ quan được giao quản lý gói thầu và nhà thầu.
(i) Chủ đầu tư: Là tổ chức sở hữu vốn hoặc tổ chức được giao thay mặt
chủ sở hữu vốn, tổ chức vay vốn trực tiếp quản lý quá trình thực hiện dự án.
Chủ đầu tư là chủ thể đóng vai trị trung tâm điều phối hoạt động của các bên
liên quan trong suốt quá trình chỉ định thầu mua sắm hàng hóa. Chủ đầu tư sẽ


21


×