Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.02 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề bài: Thuyết minh về cải lương</b>
<b>Bài làm</b>
Người Kinh Bắc tự hào khi nhắc đến dân ca quan họ. Người xứ Huế lại tự hào
về những câu Nam ai, Nam bình, những điệu hị mái nhì, mái đẩy man mác.
Người dân Nam Bộ cũng hãnh diện khi nói về những câu cải lương mùi mẫn
làm say lịng ngưòi.
Cải lương là một làn điệu đặc trưng của mảnh đất phương Nam. Hay nói cách
khác Miền Nam của xứ Việt Nam là nơi phát xuất cải lương. Con người miền
Nam có một đời sống nhàn hạ, sung túc. Ruộng cị bay thẳng cánh. Cá đầy
sơng, rạch. Khơng lo đói nhờ đất đai phì nhiêu, rau và lúa gạo đầy đồng. Người
miền Nam mang dòng máu của những dân đến sinh sống trên đất Nam kỳ đầu
tiên. Dân ca miền Nam phối hợp những đặc trưng của dân ca miền Bắc miền
Trung, thêm vào đó những sắc thái cổ truyền của nhạc Cao Miên, Trung Hoa,
Chàm. Do đó, dân ca rất phong phú về giai điệu cũng như tiết tấu qua những
điệu lý, điệu hị, nói thơ.
Cải lương đầu thế kỷ XX, làm phong phú thêm cho những làn điệu dân ca đất
phương Nam. Cùng với sự ra đời của tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới... sự ra đời.
Cải lương được xem như là sản phẩm mang tính tất yếu của lịch sử. Nó hình
thành từ sự tiếp xúc giữa nền văn hóa nơng nghiệp lúa nước và nền văn hóa
cơng nghiệp phương Tây.
Nếu như kịch nói có lịch sử lâu đời và nguồn gốc từ phương Tây, chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa, của quan điếm thẩm mỹ phương Tây thì sự
ra đời của Cải lương có nguồn gốc từ nghệ thuật truyền thống dân tộc và sự du
nhập lối biên kịch châu Âu. Yếu tố đầu tiên mang tính cội nguồn của nghệ
thuật cải lương là âm nhạc tài tử Nam Bộ. Thời ấy, Tuồng (Hát bội) khơng cịn
giữ vị trí độc tơn trong thường thức nghệ thuật trình diễn của đồng bào miền
Nam, nên từ các vùng nông thôn bắt đầu phong trào đờn ca tài tử phục vụ trong
hay phong cách diễn vẫn thường xảy ra; chẳng hạn diễn viên đóng Lã Bố mang
giày bốt, đóng Điêu Thuyền mặc áo dài, cột dây ngang lưng, đầu thắt bánh lái,
cũng hát đủ kiểu tích Tàu, chuyện Tây. Tuy nhiên, những gì phi nghệ thuật làm
mất bản sắc dân gian dần bị đào thải. Nhờ các tác giả có tri thức, có tài năng
mà sân khâu cải lương hình thành hai dịng: tuồng Tàu và tuồng Tây mà sau
này các nhà nghiên cứu sân khấu khẳng định là Cải lương có hai phương pháp:
phương pháp hiện thực tâm lý và phương pháp biểu hiện tả ý. Trong bối cảnh
văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ, nếu nói hát bội là loại hình nghệ thuật cũ, kịch
nói là loại nghệ thuật mới thì Cải lương lại đứng giữa cái cũ và cái mới. Tính
dân tộc của phương pháp biểu hiện tả ý và tính hiện đại qua phương pháp tả
thực tâm lí sân khấu Cải lương vừa dân tộc vừa hiện đại là do kết hợp một cách
tài tình phương pháp hiện thực tâm lý và biểu hiện tả ý đó.
Về đề tài kịch bản không phải chỉ lấy trong lịch sử Trung Quốc hay Việt Nam
bản vọng cổ. Dạ Cổ Hoài Lang tiền thân của bản vọng cổ để tạo ra một khơng
khí mới cho nền ca nhạc cổ miền Nam. Từ đó trở đi, bất kỳ trong một vở Cái
Nhìn lại nghệ thuật sân khấu Cải lương, chúng ta không thể nào quên những
nghệ sĩ lão thành có mặt từ đầu bộ mơn nghệ thuật này, như kép Bảy Thơng,
đào Năm Thồn trong gánh Cải Lương của Thầy Năm Tú ở tại Mỹ Thuận như
Năm Châu, Phùng Há, Năm Phi, Báy Nam, Bảy Nhiêu, Ba Vân, Út Trì Ơn...
Những người nghệ sĩ này đã truyền nghề cho một thế hệ không kém nổi tiếng
mà ngày nay không ai là không biết đến như: nghệ sĩ ưu tú Kim Cương nghệ sĩ
Duy Lân, nghệ sĩ Thành Được nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Hùng Phước, nghệ
sĩ nhân dân Thanh Tòng, nghệ sĩ Việt Hùng... Sau nữa còn nghệ sĩ Hùng
Cường, nghệ sĩ ưu tú Bạch Tuyết, nghệ sĩ Thanh Sang, nghe ưu tú Ngọc Giàu,
nghệ sĩ ưu tú Lệ Thuý, nghệ sĩ Mộng Tuyển, nghệ sĩ Đỗ Quyên, nghệ sĩ Hoài
Thanh... Và tiếp theo sau là thế hệ mới ngày nay người khơng thế qn có một
Hương Lan (con gái nghệ sĩ Hữu Phước), Vũ Linh, Tài Linh, Ngọc Huyền,
Kim Tử Long... Bây giờ đã có Quê Trân (con gái nghệ sĩ Thanh Tòng), Thi
Trang, Lê Tứ... trong số nghệ sĩ lão thành và trẻ tuổi khỏi thế kể hết.
Ngày nay người ta vẫn u mến bộ mơn này bởi vì bên cạnh những sân khấu
kịch nghệ, sân khấu ca nhạc trẻ, sân khấu nghệ thuật. Cải lương đã ln hình
trong lòng khán giả và còn tiếp tục đi tới trong việc bảo tổn, lưu giữ. Trong
mấy năm sau này, những nghệ sĩ như Thanh Tịng, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết...
có tổ chức những đêm Cải lương diễn lại trích đoạn của nhiều tuồng đã được
khán giả yêu chuộng và đã thu hút rất nhiều khán giả hâm mộ Cải lương.
Những chương trình truyền hình như Cánh chim khơng mỏi, Vầng trăng Cổ
nhạc được đông đảo khán giả theo dõi. Hai đài truyền hình HTV7 và HTV9
thường xun phát sóng nhiều vở tuồng Cải lương mới, cũ. Có dịp ra ngồi,
người ta vẫn nghe tiếng hát cùa các nghệ sĩ trẻ Việt kiều hát Cải lương hoặc bà
con ở hải ngoại sẵn sàng bỏ một buổi làm việc để mua cho được ở phịng vé
một chỗ xem trình diễn "Cải lương" mà nghệ sĩ từ Việt Nam qua diễn. Đặc biệt