Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CHUYÊN đề KIỂU bài SO SÁNH văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.24 KB, 28 trang )

CHUYÊN ĐỀ: KIỂU BÀI SO SÁNH VĂN HỌC
I. LÝ THUYẾT CHUNG
1. Khái niệm kiểu bài so sánh
Là kiểu bài đối sánh hai hoặc nhiều đối tượng trong tác phẩm văn học để tìm ra những điểm tương
đồng và khác biệt, từ đó hiểu sâu sắc hơn về những tác phẩm văn học.
2. Các dạng kiểu bài so sánh (các phương diện so sánh văn học)
Có rất nhiều kiểu bài so sánh:
- So sánh hai vấn đề của hai tác phẩm
- So sánh chi tiết, hình ảnh của các tác phẩm
- So sánh phần mở đầu, kết thúc của hai tác phẩm
- So sánh các biểu tượng nghệ thuật giữa các tác phẩm
- So sánh các đoạn thơ, bài thơ
- So sánh các đoạn văn xuôi.
3. Cách làm các dạng bài so sánh văn học
3.1 Cách so sánh nối tiếp:
* Mở bài
- Giới thiệu đối tượng A, B
- Giới thiệu mối liên quan
* Thân bài
- Phân tích, làm rõ đối tượng A
- Phân tích làm rõ đối tượng B
- Đối chiếu điểm tương đồng và khác biệt giữa A và B
+ Điểm tương đồng
+ Điểm khác biệt
+ Lí giải tại sao lại có điểm tương đồng và khác biệt đó
- Đánh giá việc so sánh mang lại ý nghĩa gì đối với việc nhận thức về hai tác phẩm chứa đựng A, B
* Kết bài
- Khái quát lại A, B với những điểm tương đồng và khác biệt nổi bật
- Nêu ý nghĩa và liên hệ

1




3.2 Cách so sánh song song:
* Mở bài
- Giới thiệu đối tượng A, B
- Giới thiệu mối liên quan
* Thân bài
- Phân tích làm rõ điểm tương đồng giữa A và B
+ Phân tích điểm tương đồng 1
+ Phân tích điểm tương đồng 2...
+ Phân tích điểm tương đồng n
- Phân tích làm rõ điểm khác biệt giữa A và B
+ Phân tích làm rõ điểm khác biệt 1
+ Phân tích làm rõ điểm khác biệt 2...
+ Phân tích làm rõ điểm khác biệt n
- Lí giải tại sao lại có điểm tương đồng và khác biệt đó
- Đánh giá việc so sánh mang lại ý nghĩa gì đối với việc nhận thức về hai tác phẩm chứa đựng A, B
* Kết bài
- Khái quát lại A, B với những điểm tương đồng và khác biệt nổi bật
- Nêu ý nghĩa và liên hệ
II. THỰC HÀNH
Đề 1: Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau:
Tây Tiến đoàn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
(Tây Tiến - Quang Dũng)

Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.

Dân công đỏ đuốc từng đoàn
2


Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
(Việt Bắc - Tố Hữu)
A. Mở bài
Vài nét về tác giả, tác phẩm v hai on th, trích dẫn hai đoạn thơ.
B. Thõn bài
I. Về đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
- Nội dung:
+ Diễn tả vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến:
. Bi ở hồn cảnh (cuộc sống thiếu thốn), ở ngoại hình (ốm đau, bệnh tật).
. Hùng tráng ở ngoại hình, ý chí đánh giặc, tinh thần.
+ Diễn tả vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn của người lính Tây Tiến: lạc quan, mơ mộng, tràn đầy khát
vọng về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ thất ngôn trường thiên với âm hưởng hùng tráng.
+ Bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp lãng mạn.
+ Thủ pháp phóng đại, đối lập.
+Ngôn ngữ: Hán Việt kết hợp với thuần Việt.
II.Về đoạn thơ trong bài Việt Bắc của Tố Hữu.
- Nội dung:
+ Hình ảnh người lính ra trận vừa hiện thực vừa hào hùng và lãng mạn: hiện thực ở hình ảnh những
đoàn quân ra trận nối tiếp nhau, những chiếc mũ nan giản dị; hào hùng ở sự trùng điệp của đồn qn;
lãng mạn ở hình ảnh ánh sao đầu súng thể hiện lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng.
+ Hình ảnh người dân (dân công) ra trận diễn tả sức mạnh chiến thắng: trên nền hiện thực của những
đoàn dân công đi phục vụ chiến dịch trong ánh đuốc, tác giả dựng lên hình ảnh lãng mạn như hội hoa
đăng trong đêm chiến thắng (đuốc đỏ, muôn tàn lửa bay) với sức mạnh vô địch (bước chân nát đá).
- Nghệ thuật:

+ Thể thơ lục bát.
+ Bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp lãng mạn, khuynh hướng sử thi.
+ Ngôn ngữ giàu giá trị biểu cảm gợi âm hưởng hào hùng.
+ Các biện pháp tu từ (nhân hóa, phóng đại, …).
3


III.Về sự tương đồng và khác biệt giữa hai đoạn thơ
1. Điểm tương đồng:
Cả hai đoạn thơ đều diễn tả nỗi nhớ về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đó là nỗi nhớ
của người trong cuộc. Hình tượng người lính trong hai đoạn thơ đều tốt lên vẻ đẹp hào hùng, lãng
mạn. Quang Dũng và Tố Hữu cùng sử dụng bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp lãng mạn, thủ
pháp phóng đại, từ ngữ giàu hình ảnh và giá trị biểu cảm.
2. Điểm khác biệt:
+ Về nội dung: Đoạn thơ trong bài Tây Tiến bộc lộ nỗi nhớ cụ thể về người lính Tây Tiến, khắc họa
đậm nét chất bi tráng, còn đoạn thơ trong bài Việt Bắc là nỗi nhớ khái quát về người lính nói chung,
ngồi ra đó cịn là nỗi nhớ về nhân dân vì thế đoạn thơ mang đậm khuynh hướng sử thi.
+ Về nghệ thuật: Mỗi đoạn thơ đều có cách thể hiện tình cảm riêng qua việc sử dụng thể thơ, các biện
pháp tu từ, sử dụng từ ngữ, hình ảnh, … góp phần thể hiện nội dung của đoạn thơ và làm nổi bật đặc
điểm thơ, phong cách thơ của mình (Quang Dũng hồn thơ lãng mạn và tài hoa, Tố Hữu có phong cách
thơ mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, đậm đà tính dân tộc).
C. Kết bài
Đánh giá, khái quát lại vấn đề cần nghị luận.

Đề 2: Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
(Tây Tiến - Quang Dũng)


Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi dất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
(Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên)
(Tham khảo đề thi Đại học năm học 2008 khối C)
A. Mở bài
4


Vài nét về tác giả, tác phẩm và hai đoạn thơ, trích dẫn hai đoạn thơ.
B. Thân bài
1. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
* Nội dung: Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ da diết, vời vợi về miền Tây và người lính Tây Tiến. Thiên nhiên
miền Tây xa xôi mà thân thiết, hoang vu mà thơ mộng; con người Tây Tiến gian khổ mà hào hoa.
* Nghệ thuật: Hình ảnh thơ có sự hài hịa nét thực, nét ảo, vừa mơng lung vừa gợi cảm về cảnh và con
người; nhạc điệu có sự hòa hợp giữa lời cảm thán với điệu cảm xúc (câu mở đầu như một tiếng kêu
vọng vào không gian), giữa mật độ dày những âm vần (rồi, ơi, chơi vơi, mỏi, hơi) với điệp từ (nhớ/nhớ)
và lối uyển chuyển (câu 3 với câu 4) đã tạo ra một âm hưởng tha thiết, ngậm ngùi...
2. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
* Nội dung: Đoạn thơ bộc lộ nỗi nhớ sâu nặng về những miền quê đã từng qua, rồi kết tinh thành một
triết lí sắc sảo. Từ nỗi nhớ thương dành cho những vùng đất mang nặng nghĩa tình, thuộc về kỉ niệm
riêng, cảm xúc thơ được đúc kết thành triết lí chung về quy luật phổ biến của tâm hồn.
* Nghệ thuật: Nghệ thuật có sự kết hợp tả thực với suy tưởng, bộc bạch tâm tình (câu đầu) với chiêm
nghiệm triết lý (các câu sau); phép điệp (nhớ/nhớ), phép đối xứng (khi ta ở - khi ta đi) , câu hỏi tu từ
(Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?)khiến cho đoạn thơ có sức truyền cảm và súc tích như một
châm ngơn.
3. Sự tương đồng và khác biệt
- Điểm tương đồng: Hai đoạn thơ đều bộc lộ nỗi nhớ tha thiết, sâu lắng về thiên nhiên và con người ở

những miền quê đã qua.
- Khác biệt: Đoạn thơ trong bài Tây Tiến bộc lộ nỗi nhớ cụ thể của người trong cuộc, toát lên vẻ hào
hoa, lãng mạn, hình ảnh thơ nghiêng về tả thực trực quan; cịn đoạn thơ trong bài Tiếng hát con tàu là
tình cảm nhớ thương đã được nâng lên thành quy luật của tâm hồn, hình ảnh thơ nghiêng về khái quát
và tượng trưng, chứa đựng vẻ đẹp trí tuệ.
C. Kết bài
Khái quát lại vấn đề cần nghị luận
Đề 3: Phân tích và so sánh sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm
tình mùa xuân và đêm mùa đơng cắt dây trói cứu A Phủ (“VCAP” – Tơ Hồi)
Bước 1: Khái qt nhân vật:
- Mị là một cô gái trẻ đẹp, đảm đang, duyên dáng, thổi sáo giỏi, được nhiều chàng trai yêu mến ngày
đêm thổi sáo theo Mị.
- Số phận Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ nghèo ở miền núi ngày trước: có những phẩm chất tốt
đẹp, đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị đày đọa trong cuộc sống nô lệ. Mị trở thành con dâu gạt
nợ cho nhà thống lí Pá Tra
- Bị vùi dập đến cùng nhưng ở con người ấy vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt.
5


Bước 2: Phân tích sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân. Yếu tố ngoại cảnh tác động đến tâm trạng và hành động của Mị.
- Mùa xuân năm ấy thật đặc biệt: “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng vàng
ửng…”
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ
gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những
con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngồi đường”.
Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời
Mị.
- Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thốt khỏi cái lớp xác vơ hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn
nhân tính”. Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị ngồi bên bếp lửa “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu

làng nhưng “lịng Mị thì sống về ngày trước”. Tiếng sáo đánh thức tâm hồn Mị, đánh thức quá khứ, đưa
Mị trở về với mùa xuân cũ. Vị ngọt ngào của quá khứ bất giác nhắc nhơ vị cay đắng trong hiện tại. Mị
thấm thía đau khổ, lại nghĩ đến cái chết.
- Hiện tại và quá khứ, thân phận và khát vọng giao tranh gay gắt trong Mị. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn
cho sáng. “Mị muốn đi chơi”. Mị thay váy áo chuẩn bị đi chơi. Hành động của Mị khơng khác gì một
sự nổi loạn.
- Sức sống trào dâng mãnh liệt đến mức ngay cả khi bị A Sử trói đứng vào cột nhà. Mị vẫn khơng biết
mình bị trói. Vẫn vùng bước đi theo tiếng sáo gọi ban yêu như người mộng du. Những vết trói đau thít,
tiếng chân ngựa đạp vách, Mị thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa.
- TH đã khám phá và phát hiện đằng sau một tâm hồn câm lặng vẫn còn một tâm hồn khát khao sống,
khát khao yêu đương, đằng sau một con rùa lùi lũi ni trong xó cửa cịn là một con người.
Bước 3: Phân tích sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị trong đêm đông cứu
A Phủ.
- Mấy đêm liền, nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Tâm hồn Mị đã trở lại vói
sự câm lặng, vơ cảm từ sau đêm tình mùa xuân ấy.
- Cho đến khi nhìn thấy một dịng nước mắt lấp lánh bị xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ,
Mị mới xúc động, nhớ lại những dòng nước mắt và nỗi khổ của mình.
- Thương mình dẫn đến thương người cùng cảnh ngộ, Mị chấp nhận chịu sự chừng phạt của nhà thống
lý và quyết định cắt dây trói cứu A Phủ.
- Khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối và sau đó vụt chạy theo A Phủ bởi “Ở đây thì chết
mất”. Hành động ấy diễn ra một cách tức thời, là hành động bất ngờ nhưng chủ yếu. Mị cắt dây trói cứu
A Phủ đồng thời cũng tự giải thốt cho chính mình. Hành động ấy hồn tồn phù hợp với tính cách của
Mị - một người con gái giàu sức sống.
Bước 4: Chỉ ra điểm giống nhau và khác nhau trong tâm trạng, hành động của nhân vật Mị trong
đêm tình mùa xuâ và đêm đơng cắt dây trói cứu A Phủ.
a. Giống nhau:

6



- Sự trỗi sậy sức sống ở cả hai lần đều có cơ sở là bản tính mạnh mẽ, khơng dễ chấp nhận số phận của
Mị. Cả hai lần đều là Mị thốt khỏi trạng thái vơ cảm ngày thường.
- Hai tình huống đã khẳng định tài năng phân tích tâm lí nhân vật và chiều sâu nhân đạo trong ngòi bút
của TH.
b. Khác nhau:
- Lần thứ nhất, Mị nhận được sự tác động theo chiều hướng tích cực từ ngoại cảnh, bản thân Mị chỉ
định giải thoát trong chốc lát.
- Lần thứ hai khơng có sự hỗ trợ của ngoại cảnh, sự trỗi dậy ở lần thứ hai mạnh mẽ,q quyết liệt hơn. Mị
đã giải thốt mình khỏi sự ràng buộc của cả cường quyền lẫn thần quyền. Với hành động này, Mị đã
chiến thắng số phận.
c. Lí giải sự khác nhau đó.
Đây khơng phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của kí ức, khát vọng
sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu.Mị giải thốt cho A Phủ và giải thốt cho cả
bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người
con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Trong lịng Mị ln tiềm ẩn sức sống tiềm
tàng, khát khao được hưởng hạnh phúc, càng bị vùi dập thì khát khao trong Mị càng trỗi dậy, Mị cắt
dây trói cứu A Phủ và cũng cắt sợi dây vơ hình để tự giải phóng mình.
--------------------------------------------------------C. THAM KHẢO THÊM 2 VÍ DỤ MINH HỌA SAU:
VÍ DỤ 1:
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình u
Để ngàn năm cịn vỗ
(Sóng – Xn Quỳnh)
Tơi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tơi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
(Vội vàng – Xuân Diệu)

HƯỚNG DẪN
I. MỞ BÀI:
II. THÂN BÀI
1. Tác giả, tác phẩm.
- Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong
thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc
ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết với khát vọng hạnh phúc đời
thường. “Sóng” là bài thơ tình u đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
- Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hồi Thanh). Ơng được giới trẻ tấn
phong là “Ơng hồng của thi ca tình u”. Ơng mang đến cho thơ ca đương thời một sức sống
7


mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân
nghệ thuật đầy sáng tạo. Ơng là nhà thơ của tình u, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi
nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. Vội vàng được trích trong tập Thơ Thơ là một trong những bài
thơ hay nhất của Xuân Diệu trước cách mạng.
2 . Cảm nhận.
2.1 . Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện cái tơi đầy khao khát.
- Khát vọng được hóa thành trăm con sóng nhỏ, khát vọng được tan thành trăm con sóng nhỏ là
khát vọng được cho đi và dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình u là "Hạnh phúc thật sự chỉ
đến khi bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt " (Christopher Hoare). "Tan
ra" không phải là tan biến đi mà là để còn mãi.
- Khát vọng muốn hòa nhập tình u của mình để ngàn năm cịn vỗ . Đây là khát vọng muốn
được vĩnh cửu hóa, bất tử hóa tình u.
-Trong quan niệm tình u của Xn Quỳnh ta thấy được một tư tưởng nhân văn : " yêu và sự
hiến dâng" , chữ " hiến dâng" không được hiểu theo nghĩa thơng tục . Tình u của cá nhân
không tách rời cộng đồng.
- Đặt bài thơ trong hồn cảnh năm 1968 khi đất nước đang có chiến tranh ta càng hiểu một cách
thấm thía và sâu sắc về tình yêu và những khát vọng của những con người trong thời đại ấy.

* Nghệ thuật : bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu , âm hưởng của những con sóng
biển; sử dụng phép nhân hóa, so sánh .
2.2 . Đoạn thơ trong bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu bộc lộ một cái tôi sôi nổi, vồ vập và giàu
khát vọng.
- Khát vọng của Xuân Diệu là khát vọng tắt nắng và buộc gió. "Tắt nắng " để màu hoa khơng
tàn, "Buộc gió" để hương đừng bay đi.
- Nắng và gió, hương và hoa ở đây chính là mùa xuân của đất trời với bạt ngàn hoa thơm cỏ lạ.
Đó là " hoa đồng nội xanh rì", "là cành tơ phơ phất ", là" khúc tình si của yến anh ", là " mây đưa
gió lượn " ....mùa xuân ấy thật thanh tân diễm lệ đầy quyến rũ như bờ môi thiếu nữ "tháng giêng
ngon như một cặp môi gần" .
- “Hương” với “màu” ở đây là những ẩn dụ để nói đến tuổi trẻ của đời người. Xuân Diệu là
người luôn lo sợ về thời gian , về tuổi tác vì theo nhà thơ : "Xuân đương tới nghĩa là xuân đương
qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già/ Mà xuân hết nghĩa là tơi cũng mất/ Lịng tơi rộng nhưng
lượng trời cứ chật/ Không cho dài thời trẻ của nhân gian/ Nói làm chi rằng xn vẫn tuần
hồn/Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại"
- Cho nên Xuân Diệu khát vọng chiếm lấy quyền năng của tạo hóa để vũ trụ ngừng quay, thời
gian ngừng trôi , để thi nhân tận hưởng những phút giây đẹp nhất của đời người. Đây cũng chính
là một khát vọng rất nhân văn.
* Nghệ thuật : thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu, sử dụng động từ mạnh " tắt, buộc".
3 . So sánh.
- Giống nhau : đều sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu , đều thể hiện được khát vọng mãnh
liệt, cháy bỏng về tình yêu với cuộc đời.
- Khác nhau : khát vọng trong Sóng là khát vọng của tình yêu lứa đôi , là khao khát dâng hiến
đến tận cùng. Cịn trong Vội Vàng thì thể hiện một qun niệm sống : sống vội vàng, sống giục giã,
cuống quýt, phải tận hưởng vì thời gian đi qua tuổi trẻ sẽ khơng cịn.
4. Đánh giá chung
- Cả hai đoạn thơ đều bộc lộ cái tôi cá nhân trước cuộc sống và tình yêu.
III. KẾT BÀI
------Thầy PHAN DANH HIẾU---8



VÍ DỤ 2:
Cảm nhận về hai đoạn thơ sau:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
(Tây Tiến – Quang Dũng)
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
DÀN Ý
I/ Mở bài:
II/ Thân bài:
1. Tác giả, tác phẩm:
2. Cảm nhận về hai đoạn thơ:
2.1/ Đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” là sự hi sinh anh dũng của người lính:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
- Bốn câu thơ viết về cái chết của người lính Tây Tiến nhưng khơng gợi sự đau thương. Tác giả
đã sử dụng hệ thống từ Hán Việt: “biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành” nhằm lột tả
khơng khí trang nghiêm, cổ kính. Cái chết của người lính Tây Tiến được miêu tả thật linh thiêng.
- Câu thơ “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” như một lời thề danh dự. Nó cho thấy lý tưởng
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của những người thanh niên trẻ. Thật rằng, họ cũng có những
tiếc nuối nhưng trên hết là vì lý tưởng:
“Chúng tơi đã đi khơng tiếc đời mình

( Tuổi hai mươi làm sao khơng tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì cịn chi Tổ quốc”
(Thanh Thảo)
- Hai câu thơ sau viết về sự ra đi vĩnh viễn của người lính Tây Tiến. Họ nằm lại dưới vùng đất lạ
trong khơng khí hào hùng mà thiên nhiên dành để tiễn biệt họ. “ Về đất” vừa là cách nói giảm
nói tránh để bớt đau thương vừa là cách nói kỳ vĩ hóa cái chết của anh bộ đội cụ Hồ.
- Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người tử sĩ đã hịa cùng
sơng núi, con sơng Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng để tiễn đưa người lính vào
cõi bất tử. Hình tượng “sơng Mã” ở cuối bài thơ được phóng đại và nhân hóa, tơ đậm cái chết bi
hùng của người lính_ sự hi sinh làm lay động đất trời, khiến dịng sơng gầm lên đớn đau, thương
tiếc.
* Nghệ thuật:
- Bằng bút pháp lãng mạn và âm hưởng bi tráng, đoạn thơ ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của
người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
2.2/ Đoạn thơ trong bài “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là lời nhắn nhủ của nhà thơ về trách
nhiệm của thế hệ trẻ đối với non sông đất nước:
9


“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước mn đời”
- Đoạn thơ có giọng điệu tâm tình sâu lắng, thiết tha. Tác giả tạo ra cuộc trò chuyện thân mật
giữa nhân vật trữ tình “anh” với “em”. Giọng điệu ấy đã làm mềm hóa nặng nề, khơ khan của
chất chính luận.
- Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương của mình”.
Đối với mỗi con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình ảnh so sánh độc đáo ấy
có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối với mỗi con người:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sơng…”
(Chế Lan Viên)
Ngồi ra, hình ảnh “máu xương” còn gợi lên trong lòng người đọc lịch sử đất nước với biết bao
con người anh hùng đã hi sinh đời mình cho cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc:
“Xưa u q hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị địn roi
Nay u q hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tơi.”
(Giang Nam)
Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết trân trọng đất nước hôm nay.
- Từ việc xác định vai trò quan trọng của đất nước đối với mỗi con người, nhà thơ khơi gợi ý
thức trách nhiệm của mỗi công dân, nhất là thế hệ trẻ. Phép điệp ngữ “phải biết” vừa có ý nghĩa
cầu khiến vừa là lời thiết tha, mong chờ như mệnh lệnh từ trái tim. Ba cụm động từ cụ thể hóa
trách nhiệm của mỗi con người: “Gắn bó” là lời kêu gọi đồn kết, hữu ái giai cấp. Vì, có đồn kết
là có sức mạnh. “San sẻ” là mong muốn mỗi người có ý thức gánh vác trách nhiệm với q
hương. Cịn “hóa thân” là biểu hiện tinh thần sẵn sàng hi sinh cho đất nước, là sự dâng hiến
thiêng liêng, đẹp đẽ. Tinh thần này đã từng bắt gặp trong bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Đình
Thi:
“Người ra đi đầu khơng ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”
Hay:
“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.”
(Tống Biệt Hành – Thâm Tâm)
Một khi ra đi chiến đấu cho sự nghiệp cách mạng, người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ qn hết tình
riêng một lịng hướng về nhân dân và đất nước.

* Nghệ thuật:
- Đoạn thơ mang tính chính luận nhưng được diễn đạt bằng hình thức đối thoại, giọng điệu trữ
tình kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ. Từ “Đất Nước” dược lặp lại hai lần kết hợp cách viết
hoa đã tăng thêm sự tơn kính thiêng liêng, thể hiện quan niệm lớn: “Đất Nước của nhân dân”.
3. So sánh:
10


* Giống nhau:
Tư tưởng của cả hai đoạn thơ đều là tư tưởng cao đẹp: cống hiến, dâng hiến tuổi trẻ mình cho đất
nước non sơng.
* Khác nhau:
- “Tây Tiến” với cảm hứng đất nước được gợi lên từ nỗi nhớ cũa người lính vùng cao về những
năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. “Đất Nước” hoàn thành trong cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mĩ tại mặt trận Trị Thiên bộc lộ cảm hứng đất nước qua cái nhìn tổng
quát đưa đến những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc về đất nước: Đất nước là tất cả những gì gắn
bó máu thịt với mỗi con người.
- “Tây Tiến” được biểu đạt bằng giọng thơ bi tráng và bút pháp lãng mạn. “Đất Nước” được thể
hiện bằng giọng thơ trữ tình chính luận sâu lắng.
- “Tây Tiến” được viết theo thể thơ bảy chữ. “Đất Nước” là đoạn trích trong bản trường ca “Mặt
đường khát vọng” dược thể hiện bằng thể thơ tự do.
III/ Kết bài:
Bài của bạn Nguyễn Thanh Nhi (THPT Lương Thế Vinh, Biên Hoà, Đồng Nai)
-------------------------------------------------------------------* LƯU Ý:
- Trên đây là cách làm bài theo cấu trúc dễ nhất cho mọi HS đều có thể áp dụng. Các em Khá
giỏi có thể làm theo cách khác là nêu luận điểm giống và khác nhau và chứng minh theo kiểu
tổng hợp.
- Từ những dàn ý trên, các em tiến hành viết thành bài văn hoàn chỉnh.
- Bước cuối cùng là kiểm tra lại bài văn (đọc và sửa chữa lỗi sai).
- Bài văn có sự sáng tạo được cộng thêm 0, 5 điểm: có nhiều cách diễn đạt hay,và độc đáo (viết

câu, sử dụng từ ngữ, hình ảnh và các yếu tố biểu cảm,…); văn viết giàu cảm xúc; thể hiện khả
năng cảm thụ văn học tốt; có quan điểm và thái độ riêng sâu sắc nhưng không trái với chuẩn mực
đạo đức.
CHÚC CÁC EM THÀNH CƠNG TRONG KÌ THI QUỐC GIA THPT SẮP TỚI!
------------------Thầy NGUYỄN ĐĂNG PHÙNG------------------

Đề 4: Cảm nhận của em về hành động Mị chạy theo A Phủ trong “VCAP” và hành động thị theo
không Tràng về làm vợ trong” Vợ nhặt” Kim Lân
Gợi ý:
MB
+ Giới thiệu tác phẩm VCAP của Tô Hoài
+ Giới thiệu tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân
+ Giới thiệu vấn đề nghị luận: hành động Mị chạy theo A Phủ và hành động thị theo không Tràng về
làm vợ
TB
1. Phân tích hành động Mị chạy theo A Phủ
+ Vài nét về nhân vật Mị
11


- Là cô gái xinh đẹp, con dâu gạt nợ, bị bóc lột, đầy đọa về thể xác vè tâm hồn
- Cơ sống vật vờ y một cái bóng “lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa”…
+ Lý giải hành động Mị chạy theo A Phủ
- Nhà văn đã phát hiện ra rằng bên trong tâm hồn người con gái ấy vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm
tàng, chỉ chờ một dịp là bùng nổ mạnh mẽ. Ngay sau khi bị rơi vào hoàn cảnh làm con dâu gạt nợ cơ
định tử tự vì ý thức được cuộc sống tủi nhục của mình và khơng chấp nhận cuộc sống ấy. Nhưng sự uất
ức đến nỗi muốn chết ấy lại là một biểu hiện của lòng ham sống và khát vọng tự do, vì khơng muốn
tiếp tục một cuộc sống đầy đọa nên cơ đã tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát.
- Tuy nhiên với tấm lịng nhân hậu đầy cảm thơng, nhà văn vẫn nhận ra rằng khát vọng hạnh phúc trong
Mị có thể bị vùi dập, lãng qn đâu đó nhưng khơng thể bị tiêu tan. Vào một đêm tình mùa xuân trong

ngày Tết, những yếu tố ngoại cảnh đánh thức kí ức và gợi lại kỉ niệm yêu đương bị vùi lấp bấy lâu
trong tâm hồn lầm lũi thường ngày, trở thành tiếng gọi của sự sống mỗi lúc một rõ, một tha thiết. Thế là
từ ngoại cảnh đã tác động đến cảm xúc, tâm trạng và cuối cùng là hành động.
- Trong cái trạng thái nửa say, nửa tỉnh, lại thêm sự thôi thúc của tiếng sáo đã dẫn Mị đến một hành
động chưa từng thấy kể từ khi cô bước chân vào nhà thống lý Pá Tra “cơ quấn lại tóc và với tay lấy váy
mới, chuẩn bị đi chơi”. Nhưng khi bị trói Mị bỗng ý thức được cảnh ngộ hiện tại của mình và lịng ham
sống lại trào lên một nỗi dâu xót, tủi nhục. Mị lại thổn thức, miên mang nghĩ về thân phận không bằng
con trâu, con ngựa của mình rồi dần thiếp đi.
- Khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị bắt trói, ban đầu Mị thản nhiên. Mị dường như đã trở nên vô cảm
trước tất cả. Nhưng Mị lé mắt trông sang thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bị
xuống hai hõm má đã xám đen lại…” thì Mị lại chợt bừng tỉnh “trông người lại nghĩ đến ta”. Hình ảnh
ấy khiến Mị bỗng nhớ đến câu chuyện rùng rợn về những người đàn bà bị trói đứng cho đến chết trong
nhà thống lý cũng trên cái cọc này và hồi ức đưa cô về với những lần chính mình bị đánh, bị trói trước
đây… Ý nghĩ A Phủ từ có thể sẽ bị chết trong đêm nay đã hồn tồn đánh thức tình thương và lịng
căm hận trong lòng Mị. Từ thương người đến thương thân và tình thương ấy cứ lớn dần, lớn dần để rồi
dẫn Mị đến với ý thức ngày càng rõ rệt hơn về sự thật tàn bạo và vơ lí, bất cơng. Ý thức đó đã thơi thúc
Mị đứng dậy cắt dây trói cho A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hồng Ngài.
-> Hành động bộc phát nhưng thật quyết liệt đó của Mị một phần là do sự thúc bách của tình thế khiến
cơ khơng thể làm khác, bởi cơ hiểu rõ “ở đây thì chết mất”. Nhưng mặt khác, đó cũng là q trình tất
yếu của một quá trình dồn nén, bức xúc cả về thể xác lẫn tinh thần đối với Mị. Đồng thời đó cũng vừa
là biểu hiện, vừa là kết quả của một sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ đã được trỗi dậy trong con người Mị,
kết thúc cả quãng đời đày ải, tối tăm của cô trong nhà thống lý để bắt đầu một cuộc sống mới.
2. Phân tích hành động thị theo Tràng về làm vợ.
+ Vài nét về nhân vật thị
- Cảnh ngộ: Người “vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trơi nổi, bấp bênh.
- Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng về làm vợ
+ Phân tích, lí, giải hành động theo Tràng về làm vợ
- Bề ngoài thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ
nhọc thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy theo đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai,
12



khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa, cong cớn.
Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hốy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị
cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì.
Người phụ nữ ấy hành động hồn tồn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được … ăn!
Đó là ý thức bám lấy sự sống là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ. Cận kề bên cái
chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng
xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất đáng quý.
3. Nêu sự tương đồng và khác biệt.
a. Tương đồng
- Họ là những số phận đáng thương, những cuộc đời nghiệt ngã và đầy bất hạnh. Nhưng không dừng lại
ở việc khai thác những nỗi đau khổ, những bất công của xã hội, của cuộc sống đã đẩy cuộc đời họ vào
những bế tắc cùng cực. Mà ở đấy, các nhà văn đã tô đậm vẻ đẹp phẩm chất và tâm hồn người phụ nữ.
- Bằng tình yêu cuộc sống, khát vọng được sống mãnh liệt và với những phẩm chất tốt đẹp vốn có của
người phụ nữ, họ vượt qua những rào cản, những bất công xã hội, vượt qua số phận bất hạnh để tìm đến
hạnh phúc.
- Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung – tiếng nói nhân đạo đối với họ. Khơng những thể hiện
sự quan tâm, thông cảm, đồng cảm với những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng,
ngợi ca những phẩm chất cao quý của người phụ nữ - luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp.
b. Sự khác biệt
- Nghệ thuật xây dựng nhậ vật, nghệ thuật miêu tả rất tinh tế… trong VCAP – TH (phân tích ngắn gọn)
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả nội tâm rất tinh tế… trong Vợ nhặt – Kim Lân (phân tích ngắn
gọn).
- Sáng tạo về nội dung: Mỗi nhà văn đều tìm cho mình một hướng đi riêng, khắc họa phẩm chất, số
phận của những người phụ nữ trong những hoàn cảnh khác nhau: Kim Lân tập trung miêu tả số phận
người phụ nữ trong nạn đói 1945, Tơ Hồi tập trung khắc họa, vẻ đẹp của người phụ nữ miền núi dưới
ách áp bức thống trị của chúa đất phong kiến.
4. Lí giải sự khác nhau
+ Do thể loại

+ Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn
+ Do hoàn cảnh
Kết bài: Đánh giá chung

Đề 5: So sánh giá trị nhân đạo trong Vợ Nhặt (KL) và Vợ chồng A Phủ (TH)?
* Gợi ý:
13


I. Mở bài:
+ Giới thiệu Kim Lân và tác phẩm Vợ Nhặt
+ Giới thiệu TH và tác phẩm VCAP
+ Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Những điểm giống và khác nhau trong tư tưởng nhân đạo của KL và
TH được thể hiện qua hai tác phẩm “Vợ Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”.
II. Thân bài:
1. Định ngĩa khái niệm giá trị nhân đạo (luận điểm phụ)
Giá trị nhân đạo trong văn chương truyền thống được thể hiện ở khía cạnh, phương diện. Song nhìn
chung là thái độ thương yêu trân trọng những phẩm chất của con người, đó là sự đồng cảm với những
đau khổ cũng như gợi ca, đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người, lên án những tố cáo những
thế lực áp bức, bóc lột gười lao động,… Một số tác phẩm hàm chứa những nội dung trên được coi là có
tính nhân văn sâu sắc.
2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong Vợ nhặt
a. Số phận bi thảm của con người: Phân tích cảnh ngộ, số phận của các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt,
Bà cụ Tứ.
b. Khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai
Vợ nhặt không chỉ cho chúng ta thêm trân trọng những phẩm giá đáng quý của con người mà còn giúp
ta hiểu được được khát vọng sống của họ. Cái đói, cái chết có thể khiến người ta phần nào tha hóa nhân
cách nhưng hạnh phúc đã như một nguồn sinh lực thay đổi của họ.
Cuộc hôn nhân lạ lùng của Tràng voeis người Vợ nhặt ngoài đường là một minh chứng. Khơng phải
trước đó Tràng khơng khát khao có một gia đình, có một gia đình, có một người vợ chăm sóc mẹ anh

lúc anh già yêu. Không phải Trnagf không mơ về một ngày nhà cửa quang quẻ, đàn gà ấp nở trong sân,
vợ chồng vợ con vui vầy. Cái cảnh chết chóc, tiếng khóc tỉ tê, cái đói đã khiến con người ta có lúc trở
nên tưởng như không đủ tới hạnh phúc nhỏ bé ấy. Chỉ tới khi người đọc bắt gặp ánh mắt rạng rỡ, hân
hoan của Tràng và bà cụ Tứ trước gọn đèn hiếm hoi, chúng ta mới hiểu rằng nỗi khát khao giờ phút đó
đã cháy bỏng da diết như thế nào trong lịng họ. Hai hịa dào phung phí đổi lấy một chút “sáng sủa” đón
mừng hạnh phúc của con trai khiến bà cụ như lên trẻ lại
Những mảnh đời nghèo đói đến với nhau, cùng chắp lại thành một cuộc đời ấm áp, nhen nhóm hy
vọng. Chủ nghĩa nhân đạo mà nhà văn KL muốn gửi gắm vào nhân vật, tác phẩm của mình vừa trực
tiếp thể hiện qua tâm trạng nhân vật, vừa gián tiếp qua bố cục câu chuyện. Chiều hướng vận động của
thời gian trong chuyện đi từ chiều tàn, đêm tối đến ánh sáng từ “tuyệt vọng” tới “hi vọng”, từ “một
ngọn đèn” đến hiếm hoi được khêu lên đến hình ảnh “lá cờ đỏ” phấp phới trong trí nhớ của Tràng. Tất
cả là tích cực, là sự tin tưởng vào khả năng thay đổi cuộc sống, hoàn cảnh của nhà văn và nhân vật. Một
nhân cách, một khát vọng mà một sự chuẩn bi cho tương lai yên ổn chắc chắn sẽ khiến mỗi người tự tin
hơn. Và phải chăng qua “lá cờ đỏ trên con đê” KL muốn báo trước một ngày mai rạng rỡ hơn, một cuộc
đời mới được sởi ấm bởi ánh sáng của “ngọn đèn” vĩnh cửu là cách mạng?
3. Biểu hiện của giá trị nhân đạo trong VCAP
a. Số phận bi thảm của con người
14


Cũng giống như KL, Tơ Hồi dành cho nhân vật Mị trong VCAP (1953) một tình cảm thương yêu, trân
trọng vơ cùng. Sự trân trọng đó bộc lộ ở những chi tiết tài tình khi miêu tả tâm lý, tình cảm và nỗi cơ
cực của nhân vật. TH đã rất chắt lọc chi tiết và nhịp văn để nhấn mạnh thêm cuộc sống lao khổ, buồn
bã Mị phải chịu đựng. “Ngày ngày cô ngồi bên một tảng đá, cạnh tàu ngựa, cúi mặt buồn rười rượi”.
Người ta đã quên Mị với tư cách nàng dâu của nhà thống lý. Thực chất Mị sống đời nô lệ, chôn vùi tuổi
xuân, sắc đẹp ở đó. Mị là nạn nhân của đồng tiền và các thế lực phong kiến cường quyền tàn ác, Mị
sống âm thầm, làm lụng quần quật đến nỗi quên mất cả khái niệm thời gian. “Ở cái buồng Mị nằm, kín
mít, có cửa sổ một lỗ vng bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắn, không biết là sương
hay là nắng”. Khơt q, Mị muốn có lá ngón để tự tử, thốt khỏi nhà mồ - nhà thống lí Pá Tra – nhà bố
chồng của Mị. Nỗi đau của Mị không chỉ dừng lại ở việc bị đày đọa thể xác, mà còn bị áp bức về tinh

thần.
Dàn trải nỗi đau, nhục nhã mà Mị chịu đựng trên trang giấy cũng là nỗi khổ đau của TH. Ơng viết lên
sự thật, mặc dầu lệ rơi, xót xa cho nhân vật. Ơng đã khơng dè dặt tố cáo các thế lực đã đẩy con người
vào vực thẳm cuộc đời. Trước ngòi bút của TH, cuộc sống yên ổn của người dân miền núi cịn là một
cái gì đó rất xa xơi.
b. Sức sống tiềm tàng, mãnh liệt
Chỉ qua đây, chúng ta mới hiểu được rằng người dân vùng cao phải trải qua đau khổ, phải đấu tranh để
tồn tại như thế nào. Mị là một điển hình của sự phán kháng tất yếu kia, sở dĩ không để cho Mị phải chết
là vì ơng hiểu một cách thấm thía rằng chính giây phút định tìm đến cái chết là giây phút người ta thèm
được sống hơn bao giờ hết. Mị khơng thể chết. Mị cịn khao khát sống lắm. mị che dấu lòng khao khát
hạnh phúc bằng dáng vẻ lặng lẽ âm thầm nhưng chính nỗi nhớ về thuở thanh xuân khi chợt nghe tiếng
sáo đã “chống” lại cô. Sáu lần tác giả nhắc tới tiếng sáo thì chỉ có ba lần là tiếng sáo thật. Cịn ba lần
sau là tiếng sáo thức tỉnh trong lòng Mị, tự cất tiếng hát trong lịng Mị.
Có thể nói TH đã đồng cảm sâu sắc với khát vọng của Mị, TH khám phá ra quy luật của cuộc sống
nhân thân nhỏ bé của Mị. Ơng hiểu điều gì ắt phải đến . Và Mị phản kháng là điều tất yếu. Sức sống,
sức trẻ, tình thương vốn tiềm tàng trong cơ đã giúp cơ đủ sức mạnh để cởi trói cho A Phủ. “Trời tối lắm,
nhưng Mị vẫn băng đi” Mị đi theo A Phủ, chạy trốn từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa. Mị đã chứng tỏ được
sức sống của con người để giúp thốt khỏi chính số phận cay nghiệyt của cuộc đời mình.
Một lần nữa, chúng ta nhận thấy rằng dù ở đề tài nào, góc độ nào, nhân đạo luôn là giá trị cốt lõi của tác
phẩm văn học. Nhờ có giá trị nhân đạo mà qua hơn nửa thế kỉ nay, người đọc vẫn cảm thấy gắn bó với
con người, với tình tiết của câu chuyện. Nỗi khổ cực của con người cùng với khát vọng sống của họ
mãi mãi là vấn đề của văn học. Mỗi khám phá mới mẻ của một nhà văn đều nhằm hồn thiện con
người, bản thân họ cũng như cách nhìn của mỗi con người với cuộc đời.
4. So sánh điểm giống và khác nhau
* Giống nhau: đều thể hiện sự cảm thông sâu sắc trước số phận của người nông dân trong xã hội cũ,
đều tố cáo, lên án các thế lực tàn bạo đã gây ra bi kịch cho con người và sự trân trọng vẻ đẹp phẩm chất
của con người lao động.
* Khác nhau:
- Ở truyện ngắn “Vợ nhặt”:


15


+ Đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt, tác giả bày tỏ sự cảm thương trước số phận bi thảm của
người nơng dân bị nạn đói dồn đẩy đến mức đường cùng, giá trị con người trở nên rẻ mạt (HS phân tích
quang cảnh xóm ngụ cư ngày đói, hình ảnh người đàn bà vợ nhặt…)
+ Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít đã gây ra nạn đói khủng khiếp
+ Những phát hiện và ngợi ca khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, tình cảm cưu mang đùm bọc lẫn
nhau giữa những người cùng chung cảnh ngộ và niềm tin hướng về tương lai của họ (hành động táo
tợn, liều lĩnh của thị; hành động và tâm trạng của Tràng khi gặp thị, mời thị ăn và đưa đi về, suy nghĩ
của bà cụ Tứ, của xóm ngụ cư trước hạnh phúc của Tràng…)
- Ở truyện “VCAP”
+ Nhà văn cảm thông trước số phận bi thảm của người lao động vùng cao Tây Bắc, đặc biệt là thân
phận người phụ nữ dưới ách áp bức bóc lột của bọn chúa đất phong kiến. (Thân phận và cảnh ngộ của
Mị khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra, số phận của A Phủ…)
+ Tố cáo, lên án tội ác của giai cấp phong kiến thông trị (điển hình là cha con thống lý Pá Tra: bắt trả
lãi cắt cổ, bắt người gạt nợ, trói người dã man, xử kiện không cho thanh minh)
+ Trân trọng khát vọng tự do, tinh thần đấu tranh phản kháng của quần chúng bị áp bức (tâm trạng của
Mị trong đêm tình mùa xn, khi cắt dây trói cứu A Phủ…)
5. Lí giải và sao giống , và sao khác?
+ Do hồn cảnh sáng tác
+ Do phong cách, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn
KB: Đánh giá vấn đề:
+ Tóm lại, qua ba tác phẩm văn xi cách mạng trên, ta thấy nổi bật lên rằng giá trị nhân đạo của thời
kì này khơng chỉ dừng lại ở sự đồng cảm thương yêu con người, sự trân trọng phẩm chất tốt đẹp của
con người mà các nhà văn đã có ý thức thể hiện, bộc lộ sự chống lại nguyên nhân gây nên nỗi khổ ấy.
Đặc biệt, các nhà văn cách mạng đã tìm ra những giải pháp đưa con người ra khỏi bế tắc, tối tăm.
+ Đóng góp riêng của mỗi nhà văn đã góp phần làm phong phú, mới mẻ cho truyền thống nhân đạo của
văn học dân tộc (đặc biệt là ở cái nhìn đầy lạc quan tin tưởng vào tương lai), tạo nên diện mạo mới cho
văn xuôi giai đoạn 1945 – 1975.


Nhân vật người mẹ trong các truyện ngắn: Vợ nhặt (Kim Lân), Một người Hà Nội (Nguyễn
Khải), Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)
I. Về số phận của nhân vật
1. Cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ
Gánh nặng của kiếp mưu sinh là một chủ đề lớn trong các tác phẩm văn học của lồi
người nói chung và của văn học Việt Nam nói riêng. Trong nền cảnh chung của kiếp nhân
16


sinh nhọc nhằn vì những lo toan kiếm sống thì nhân vật người mẹ của nhà văn Việt Nam
hiện đại đã gợi cho người đọc bao cảm thương. Số phận của họ gộp cả vào đấy những lam
lũ của kiếp người và của người phụ nữ. Điều đó được thể hiện rõ nét qua hai tác phẩm Vợ
nhặt - Kim Lân và Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu.
1. 1. Đói nghèo làm hủy hoại ngoại hình, dáng vẻ
Kim Lân là nhà văn xuất thân từ tầng lớp bình dân. Ơm mộng trở thành họa sĩ nhưng vì
nhà nghèo khơng có tiền ăn học nên ơng đã đến với văn chương như một duyên nợ. Chính
cuộc sống nghèo khổ đã giúp Kim Lân có cái nhìn rưng rưng, thấu cảm với những kiếp nhân
sinh nhọc nhằn. Ông đã xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ
trên bối cảnh của nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Khó có thể hình dung truyện ngắn Vợ
nhặt sẽ thế nào nếu thiếu đi nhân vật người mẹ này. Nhân vật bà cụ Tứ xuất hiện ở nửa sau
của truyện. Kim Lân đã dùng những chi tiết ấn tượng để miêu tả sự xuất hiện của nhân vật.
Nhà văn để cho Tràng ngóng mẹ với trạng thái nơn nóng, sốt ruột. Người con trai bồn chồn
đứng ngồi không yên mong mẹ về bởi anh đang lo lắng, sợ hãi vì tự ý dẫn người đàn bà về
làm vợ - điều mà trước anh chưa nghĩ đến. Giống như Tràng, bạn đọc hẳn cũng hồi hộp,
mong chờ sự xuất hiện của người mẹ. Kim Lân không tả nhiều, chỉ bằng mấy câu “Ngồi ngõ
có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào. Bà lão vừa đi
vừa lẩm bẩm, tính tốn gì trong miệng” [7. 27] cũng đủ để nhân vật nhanh chóng đi vào tâm
trí của người đọc. Từ láy “lọng khọng” gợi hình ảnh một bà lão già yếu, hẳn là cịng lưng.
Đồng thời, nó cũng đánh thức trong lịng người đọc bao xót thương. Người mẹ ấy đến già

vẫn chưa hết lo toan, chưa có lúc nào được thanh thản qua dáng vẻ “vừa đi vừa lẩm bẩm
tính toán”. Cuộc sống mưu sinh vất vả hiện lên qua dáng đi, đậm nét trên khuôn mặt “bủng
beo u ám” của bà. Suốt cả đời cực khổ kiếm miếng ăn, bà cụ Tứ chưa lúc nào thoát khỏi nỗi
lo về đói nghèo. Do vậy, trước tình cảnh con trai “nhặt” được vợ vào lúc đói, người mẹ ấy lại
một lần nữa chua xót nghĩ đến đời mình “Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của
mình” [7. 28].
Đến với nhà văn Nguyễn Minh Châu, người đọc khó có thể qn được hình tượng người
đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (1983). Đây là sáng tác thuộc giai đoạn thứ
17


hai trong sự nghiệp văn học của nhà văn. Bằng khát vọng đổi mới nghệ thuật và tài năng
thiên bẩm, Nguyễn Minh Châu đã tự vượt mình trong giai đoạn văn học trước 1975 và trở
thành một trong nhưng cây bút cách tân, mở đường xuất sắc cho con đường đổi mới văn
học nước ta, được đánh giá là “người mở đường tinh anh và tài năng” (Nguyên Ngọc). Tác
phẩm Chiếc thuyền ngoài xa chứa đựng nhiều quan niệm tiến bộ của nhà văn về nghệ thuật
và cuộc đời. Những tìm tịi mới mẻ của Nguyễn Minh Châu về con người có thể thấy qua
những hình tượng nhân vật trong đó có người đàn bà hàng chài.
Người đàn bà hàng chài xuất hiện ở phát hiện thứ hai của người nghệ sỹ, dưới điểm nhìn
trần thuật của nhân vật Phùng. Bước ra từ con thuyền như mơ lại là người đàn bà xấu xí, thơ
kệch “Người đàn bà trạc ngồi bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển,
cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức
trắng kéo lưới, tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng” [7.
91]. Người đàn bà đó khơng có tên, chỉ được giới thiệu về tuổi tác, vóc dáng. Ngoại hình
người đàn bà gợi đến cuộc sống khốn khó, lam lũ của những người lao động nghèo. Cái đói,
cái nghèo kéo dài nhiều năm, nhiều tháng đã hủy hoại dáng hình, vẻ đẹp của của người phụ
nữ và dường như ở chị khơng cịn sinh khí. Ngay cả cái dáng vẻ sợ sệt của chị khi đến tòa án
gặp Đẩu cũng gợi cho chúng ta biết bao điều. Người mẹ của đàn con đông đúc ấy có cảm
giác mặc cảm, tự ti trước người đại diện cho pháp luật. Chính cuộc sống cực khổ đẩy chị vào
cảnh nhếch nhác về hình hài, kèm theo đó là tâm lí mặc cảm dày vị.

1. 2. Bi kịch do cuộc sống khốn quẫn
Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, người đàn bà hàng chài là hiện thân của
những đau khổ. Nhan sắc xấu xí, chị lấy chồng trong niềm biết ơn với người chồng đã cho
mình cuộc sống đàn bà đúng nghĩa: được làm mẹ, làm vợ. Tuy nhiên, cả đời chị phải lao
động nhọc nhằn với nghề chài lưới để nuôi con với điều kiện “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp
cả vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một
chiếc thuyền. Xóm giềng khơng có. Q hương bản quán cả chục cây trời nước chứ không cố
kết vào một khoảnh đất nào.” [10. 253]. Vất vả, cực khổ là vậy mà con chị vẫn đói, vào
những lúc biển động sóng gió cả gia đình phải ăn tồn “xương rồng luộc chấm muối” và
18


chồng chị vẫn cay nghiệt. Người đàn bà hàng chài phải gánh chịu những trận địn chồng vơ lí
“Bất cứ lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”, “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một
trận nặng”. Người đàn bà chịu nỗi đau về thể xác cùng với đó là nỗi đau đớn về tinh thần. Bị
đối xử dã man, chị cảm thấy đau đớn, nhục nhã. Mặt khác, người mẹ ấy luôn nơm nớp lo sợ
cho sự phát triển nhân cách của các con, sợ chúng bị tổn thương về tâm hồn khi chứng kiến
cảnh bạo lực gia đình. Bị chồng đánh, người đàn bà hàng chài “không hề kêu lên một tiếng,
không chống trả, cũng khơng tìm cách trốn chạy” khiến cho người nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng
không thể nào hiểu nổi “trong mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Tuy vậy, khi
thằng Phác xuất hiện, đánh trả bố để bảo vệ mẹ thì người mẹ ấy mới bộc lộ nỗi đau đớn vô
cùng. Điều chị muốn giấu, muốn bảo vệ các con là không thể, cái điều chị e ngại đã xảy ra.
Hành động “mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, chắp tay vái lấy
vái để, rồi lại ơm chầm lấy” [7. 92] có thể lí giải là chị muốn cầu xin con khơng dùng thói cơn
đồ đối với người bố dữ dằn, khơng được thù ghét bố. Thằng Phác còn quá nhỏ để hiểu bao
cái rối rắm, cái đa đoan trong kiếp sống của những người lao động khổ cực. Như vậy, người
đàn bà vô danh trong tác phẩm đã đại diện cho biết bao kiếp người nheo nhóc, lênh đênh
trên đại dương cuộc đời mà Nguyễn Minh Châu muốn phản ánh.
2. Những nỗi đau do chiến tranh
Văn học Việt Nam 1945- 1975 phát triển trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc.

Đất nước oằn mình gánh trên vai hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ.
Trong hoàn cảnh ấy, văn học nước nhà đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: là nguồn lực tinh
thần cho cả dân tộc. Đó là lí do vì sao ta ít gặp những giọt nước mắt, nỗi đau khi phải chia li
bởi “Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt” (Nam Hà). Vậy nên, “Nụ cười tiễn đưa con, nghìn
bà mẹ như nhau” (Chế Lan Viên). Trong khơng khí cởi mở của văn học sau 1975, nhiều nhà
văn viết về chiến tranh với những nhận thức lại, không né tránh khi viết về mất mát, đau
thương. Nguyễn Khải là một trong số đó.
Truyện ngắn Một người Hà Nội khá tiêu biểu cho tính triết luận trong phong cách văn
xi của Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác từ cuối những năm bảy mươi của thế kỷ XX. Nhân
vật người mẹ trong tác phẩm được nhà văn tái hiện trong nỗi đau do chiến tranh gây ra. Khi
19


Dũng con trai lớn của bà Hiền lên đường vào Nam chiến đấu, người mẹ trong tác phẩm
không hề giấu giếm cảm xúc thực của mình với người cháu “Tao đau đớn mà bằng lịng”.
Trách nhiệm cơng dân được bà Hiền - một người Hà Nội thanh lịch, bộc lộ không ồn ào, giả
tạo. Tiễn những đứa con thân yêu, những khúc ruột của mình vào nơi hịn tên mũi đạn, lòng
người mẹ nào mà chẳng đớn đau, mà nỗi đau như rút cả tim gan. Bên cạnh nhân vật bà
Hiền, Nguyễn Khải cũng tạo dựng chân dung của một bà mẹ Hà Nội khác qua chi tiết nhỏ
nhưng đắt giá. Câu chuyện về mẹ của Tuất được Dũng kể trong bữa tiệc mừng chiến thắng
của những người Hà Nội thành danh. Người lính trở về từ chiến trường khốc liệt khơng biết
nên nói thế nào với người mẹ có con hi sinh. Dũng mang trong mình cái mặc cảm của người
sống trong khi đồng đội của mình khơng cịn. Anh gặp mẹ của Tuất, chưa nói được điều phải
nói đã khóc, cịn người mẹ ấy “run bần bật nhưng khơng khóc”. Sự đau đớn tột cùng được
diễn tả thật đắt qua cụm từ chỉ trạng thái cảm xúc của người mẹ “ người …run bần bật” “nói
run rẩy”. Khơng có giọt nước mắt nào nhỏ xuống, nỗi đau mất con của người mẹ đã lặn vào
trong tâm khảm, ghìm nén mà đau đớn vơ cùng. Ta q trọng những giọt nước mắt của
người lính và càng cảm phục trước phản ứng của người mẹ. Điều này, một lần nữa cho thấy
cống hiến thầm lặng, không màu mè, ầm ĩ của những người mẹ Việt Nam trong chiến tranh.
Đồng thời, nó cũng khiến người ta ngậm ngùi nghĩ đến cái giá quá đắt của chiến thắng.

Chẳng có ai có thể đo đếm được những vết thương sâu thẳm trong lòng những người mẹ và
trong những người lính phải kinh qua những trận “mưa bom bão đạn” trong chiến tranh.
II. Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật người mẹ
1. Giàu đức hi sinh, vị tha, bao dung
Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã để lại trong lòng bạn đọc một ấn tượng sâu
đậm bằng một tình huống éo le, cảm động: Tràng “nhặt” được vợ vào nạn đói khủng khiếp.
Cái tài của nhà văn chính là trong tình huống ấy phẩm giá của con người được bộc lộ rõ nét
nhất. Nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm cho thấy điều đó. Trước việc con trai dẫn về nhà
một người đàn bà đồng nghĩa với việc thêm một miệng ăn trong cảnh “tối sầm vì đói khát”,
người mẹ già ấy đã chấp nhận người đàn bà đói, bỏ qua những việc tối cần thiết vào lúc
dựng vợ gả chồng cho con. Bà có trái tim nhân hậu khi vượt qua nỗi ám ảnh của cái đói để
20


cưu mang, đùm bọc, xót thương người “vợ nhặt” với suy nghĩ “ Người ta có gặp bước khó
khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình” [7. 28]. Người mẹ chồng ấy nhìn con dâu
với ánh mắt xót xa và ái ngại. Bằng tình thương của mình, bà đã xua đi cái cảm giác mặc cảm
của người con dâu qua câu nói “Ừ thơi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng
mừng lòng” [7. 28]. Mừng lịng chứ khơng phải bằng lịng, bà Tứ nhân hậu là ở chữ ấy, Kim
Lân sâu sắc cũng là chữ đấy. Người mẹ nghèo khổ trong tác phẩm đã khơng vì cái đói, cái
cực của kiếp người tha hương cầu thực mà chai sạn tâm hồn, dửng dưng, vơ cảm với tình
cảnh khốn cùng của người khác. Bà nói với người con dâu mới với giọng “thân mật”, chân
tình biết bao khi mời người đàn khốn khổ theo không con trai bà “Con ngồi xuống đây. Ngồi
xuống đây cho đỡ mỏi chân” [7. 28]. Đọc đến đây người đọc hẳn thấy mình rưng rưng xúc
động cũng như cảm phục tấm lòng nhân ái của người mẹ trong truyện. Đồng thời, ta cảm
nhận được tình người thật ấm áp bởi trong cái đói thê thảm, những người nghèo vẫn giang
rộng vòng tay, che chở, yêu thương nhau. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ ở
nhân vật này là vì thế.
Bên cạnh tình yêu thương với người cùng cảnh ngộ, bà cụ Tứ hiện lên là một người mẹ
có lịng u thương con vơ bờ. Con trai có vợ vào lúc đói kém, người chết vì đói “như ngả rạ”

đã tác động mạnh đến tâm lí của người mẹ. Bà cụ Tứ có những cảm xúc đan xen phức tạp,
bà vui vì con có được vợ nhưng buồn, lo lắng “Biết rằng chúng có ni nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này khơng.” [7. 28]. Hơn nữa, nỗi tủi của người mẹ không lo được chuyện
trăm năm cho con cứ đầy lên uất nghẹn “Thơi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng
được cho con…” [7. 28]. Người đọc nhận thấy sự thay đổi của người mẹ ấy vào sáng hôm
sau. Khơng cịn khn mặt bủng beo u ám mà thay vào đó là nét “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
ngày thường” “rạng rỡ hẳn lên”, vượt lên cả cái mệt mỏi của dáng đi “lọng khọng” là hàng
động hoạt bát “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”. Trong bữa ăn đầu tiên của gia đình có
nàng dâu mới, bà cụ nói chuyện ngăn nhà ni gà với bao nhiêu là hi vọng. Người nói đến
tương lai nhiều nhất trong truyện lại là bà mẹ gần đất xa trời. Phải chăng người mẹ muốn
gieo vào lòng con trai, con dâu niềm tin vào sự đổi thay, vào sự sống bất diệt? Cũng trong
buổi sáng hôm ấy, bà cụ nấu nồi chè khoán để đãi nàng dâu mới. Cái dáng lật đật, lễ mễ và
hành động vừa khuấy khuấy vừa tươi cười đon đả mới đáng kính và xúc động làm sao. Tình
21


cảm của người mẹ được Kim Lân diễn tả đầy đủ và tinh tế qua những từ láy đó. Phải chăng
bà vội vã để níu kéo niềm hạnh phúc mong manh mà bà cảm nhận đang mất đi trước thực
tại đói khổ? Có thể thấy, mọi suy nghĩ, hành động của bà cụ Tứ đều xuất phát từ lòng
thương con vơ bờ. Người mẹ già ít nghĩ đến mình. Bà lo, thương, trĩu nặng, trăn trở vì con.
Đức hi sinh của bà thật cao cả.
Với nhân vật người mẹ trong tác phẩm Chiếc thuyền ngồi xa lịng bao dung, vị tha, đức
hi sinh được thể hiện trong hoàn cảnh nghiệt ngã. Bị chồng đánh dã man nhưng chị không
hề trách chồng mà nhận lỗi về mình “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”. Cái
lí do chị đưa ra mang trong nó bao nhiêu là bao dung bởi chị cũng như những người đàn bà
khác đâu có đẻ một mình được. Điều đáng nói ở đây là người phụ nữ ấy nhận hết lỗi về
mình xuất phát từ niềm cảm thương sâu sắc dành cho chồng. Còn đối với những đứa con,
người đàn bà hàng chài là người mẹ yêu con đến mức có thể chịu mọi đau đớn tủi cực vì
con. Chị cần một đàn ông chèo chống lúc phong ba để nuôi đàn con đơng đúc lớn lên, dù có
phải sống với một người chồng tàn ác, phải chịu những trận đòn đau đớn. Hạnh phúc của

người mẹ ấy thật giản dị nhưng cũng rất hiếm hoi “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi
chúng nó được ăn no…” [7. 96]. Với chị, thiên chức của người mẹ gắn liền trách nhiệm bổn
phận “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi con khôn lớn cho
nên phải gánh lấy cái khổ” [7. 96]. Vì vậy, người đàn bà có một lựa chọn đầy cay đắng, chị
xin chồng “đưa lên bờ mà đánh”. Không phải chị khơng biết đến quyền được giải thốt khỏi
người chồng vũ phu. Ở đây chị khước từ nữ quyền để thực hiện bổn phận làm mẹ với
những đứa con. Câu nói “Cá chuối đắm đuối vì con” quả là khơng sai. Nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã phát hiện và tôn vinh cái đẹp trong hoàn cảnh nghiệt ngã của số phận. Tình mẫu tử
cao cả được đặt trong thử thách ghê gớm khiến người ta liên tưởng đến người mẹ trong
tiểu thuyết Báu vật của đời của Mạc Ngôn, nhà văn đoạt giải thưởng Nobel năm 2012. Trong
tác phẩm của nhà văn Trung Quốc, người mẹ già đi làm thuê nhưng khơng đủ sức ni
người con gái mù lịa và đứa cháu ngoại nên đã ăn cắp. Bà nuốt những hạt đậu một cách
vụng trộm rồi về nhà đau đớn móc ra. Những hạt đậu ni con, ni cháu có dính cả máu,
dịch nhờn của dạ dày. Mạc Ngơn đã tìm cái đẹp ngay trong cái xấu, mĩ hóa cái xấu. Làm
được điều đó phải là một cây bút điêu luyện và một trái tim yêu thương con người, tôn vinh
22


con người ngay cả những giây phút cơ cực, nhọc nhằn nhất của kiếp nhân sinh. Người mẹ
trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu và Mạc Ngôn làm ta nhận ra một điều: tình yêu của
người mẹ thật diệu kì như câu danh ngơn “Vũ trụ có nhiều kỳ quan nhưng tuyệt mĩ nhất
chính là trái tim của người mẹ”
2. Sắc sảo, hiểu đời và trải đời
Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ là người mẹ có trái
tim nhân hậu mà cịn là người sắc sảo, hiểu đời. Bà ngạc nhiên, “phấp phỏng” trước thái độ
vồn vã, trang trọng của người con trai và cịn ngạc nhiên hơn khi trong nhà mình có một
người đàn bà, lại chào bà “U đã về ạ”. Bao suy đoán làm cho bà mẹ cứ phân vân, băn khoăn,
điều bà không bao giờ dám nghĩ tới - con trai bà có vợ, lại đến vào lúc bà không ngờ nhất.
Do vậy, bà cụ Tứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tuy nhiên, chỉ nghe mấy câu nói
của người con trai “Nhà tơi mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp

với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả…” [7. 27], bà mẹ ấy “cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu
rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy cịn hiểu biết bao cơ sự”. Cái cúi đầu nín lặng của bà cụ Tứ
hàm chứa tất cả những éo le mà bà đã đốn ra. Bà khơng hỏi con trai về điều Tràng đang
tránh nói, khơng dám kể và người phụ nữ lạ kia đang bẽ bàng, tủi hổ. Bằng sự từng trải,
người mẹ đã không tra xét mà bà nhìn, nghe và thấu thị những uẩn khúc trong câu chuyện
“nhặt” vợ để con trai đỡ căng thẳng và người đàn bà theo con trai mình khơng bị tổn
thương. Cách ứng xử của bà cụ Tứ vừa thông minh, vừa nhân ái vô cùng.
Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
là nhân vật khá đặc trưng, tiêu biểu cho những khám phá về con người của nhà văn ở giai
đoạn sáng tác thứ hai. Một kiểu nhân vật đa diện mà ta khó có thể đánh giá kết luận bằng
một mệnh đề đơn giản. Bề ngoài chị là một người thất học, lạc hậu nhưng thực ra ở nhân
vật này có sự trải đời, thấu hiểu lẽ đời. Nếu như Đẩu và Phùng cho rằng người đàn ông đáng
bị lên án vì hành động thơ bạo của anh ta thì người đàn bà hàng chài lại có những lí lẽ riêng
để thấy rằng người chồng của mình đáng được cảm thơng. Chị khơng bỏ người chồng dữ
tợn của mình vì nhận thấy những biến đổi trong tính cách của anh ta có căn nguyên từ cuộc
sống đói nghèo. Anh phải lao động vất vả ở trên một con thuyền chật mà con lại đông, nheo
23


nhếch, khổ sở. Trong cảnh túng quẫn, bức bối, bi phẫn người chồng thay đổi tâm tính từ
người cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập vợ trở thành người chồng vũ phu.
Sự thâm trầm trong việc thấu trải lẽ đời của người đàn bà làm cho Đẩu và Phùng có thêm
những vỡ lẽ về con người, cuộc đời và nghệ thuật. Vấn đề được Nguyễn Minh Châu gợi ra ở
đây là con người cần có cái nhìn đa diện và thấu đáo về cuộc đời.
Bà Hiền trong sáng tác Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải là một người mẹ trí
tuệ và đầy bản lĩnh - bản lĩnh mang cốt cách văn hóa. Lúc cịn là thiếu nữ, cô Hiền đã chọn
bạn đời theo một tiêu chí riêng về mái ấm gia đình khiến cả “Hà Nội phải kinh ngạc”. Trở
thành mẹ, người phụ nữ ấy chú ý dạy con biết tự trọng trong tư cách của người Hà Nội có
văn hóa. Giữa những biến động của thời cuộc, bà Hiền không a dua theo thời, thẳng thắn
bày tỏ suy nghĩ của mình “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ” [7. 76]. Tuy có

bộ mặt rất tư sản, lối sống rất tư sản nhưng bà Hiền không phải đi học tập cải tạo bởi bà đã
khôn khéo bán ngôi nhà ở Hàng Bún, ngăn không cho chồng mua máy in để kinh doanh.
Người phụ nữ thanh lịch ấy chọn nghề làm hoa giấy vì “rất đủ ăn, lại nhàn”. Những việc làm
đó cho thấy sự thích ứng của con người mang bản lĩnh văn hóa trước những biến động lớn
của xã hội. Khép lại tác phẩm là câu chuyện về cây si cổ thụ của bà Hiền khiến người cháu
trầm trồ ngưỡng mộ “Bà vẫn giỏi quá, khiêm tốn và rộng lượng quá” [7. 82]. Trước sự băng
hoại, xuống cấp của văn hóa Hà Nội do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, bà vẫn thể
hiện niềm tin vào sự trường tồn của văn hóa đất kinh kì. Sự sắc sảo ấy của bà có cội nguồn
của sự từng trải. Qua Một người Hà Nội, Nguyễn Khải muốn gửi gắm khám phá của ơng về
bản sắc văn hóa Hà Nội, cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là
nền tảng cho bước phát triển của nó trong tương lai.
III. Nghệ thuật khắc họa nhân vật
1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật bà cụ Tứ
Kim Lân xây dựng nhân vật người mẹ trong tác phẩm của mình bằng một tình huống
truyện độc đáo. Việc Tràng dẫn người vợ “nhặt” về nhà giữa cảnh người chết như ngả rạ vì
đói đã tác động mạnh mẽ đến tâm lí của nhân vật người mẹ. Những cảm xúc vui, buồn, âu
lo, thương xót… đan xen nhau trong nội tâm của bà cụ Tứ. Nhờ có tình huống truyện mà tâm
24


lí nhân vật được diễn tả thật tự nhiên, sống động. Vì thế, hình ảnh bà mẹ nhân hậu đọng lại
trong trí nhớ và để lại ấn tượng khó phai trong lịng bạn đọc.
Để miêu tả tâm lí nhân vật, nhà văn cịn dùng phương thức trần thuật theo ngơi thứ ba
của người trần thuật giấu mình nhưng lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật (lời nửa trực
tiếp) “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn nào lại đứng ngay đầu
giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? …” [7. 27]. Những suy nghĩ thầm
kín của bà cụ Tứ đã cho thấy sự tinh tế của nhà văn trong khắc họa phẩm chất của nhân vật.
Tìm hiểu nhân vật này khó có thể bỏ qua những lời độc thoại nội tâm cảm động như thế.
Mặt khác, trong sáng tác truyện ngắn, Kim Lân luôn coi trọng chi tiết. Miêu tả nhân vật
bà cụ Tứ, nhà văn đã tạo dựng được những chi tiết đắt giá như chi tiết về ngoại hình nhân

vật, chi tiết về nồi chè khốn…
2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật bà Hiền và nhân vật mẹ của Tuất
Khi xây dựng nhân vật bà Hiền, nhân vật bà mẹ của Tuất, nhà văn Nguyễn Khải sử dụng
phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất. Nhân vật kể chuyện xưng “tôi” là người cháu họ
của bà Hiền, mang dáng dấp của chính tác giả. Sử dụng cách trần thuật ở ngơi thứ nhất, ngịi
bút Nguyễn Khải được tự do lựa chọn chi tiết, không quá lệ thuộc vào một cốt truyện chặt
chẽ. Hơn nữa, nhà văn có thể thoải mái xen vào những lời bình luận nhận xét của người kể
chuyện ví như người “cháu” đánh giá về vẻ đẹp văn hóa Hà Nội ở nhân vật bà Hiền qua hình
ảnh “hạt bụi vàng”. Trong truyện, nhiều đoạn văn có những lời bình luận như thế. Nhờ có
phương thức trần thuật này, tác giả tạo được một ngữ cảnh gần gũi với độc giả, gợi khơng
khí một cuộc trò chuyện trực tiếp, lại dễ làm cho người đọc tin vào những điều được kể.
Nhân vật “tôi” khi kể lại những điều mình thấy về bà Hiền cịn ln tự đối sánh, nhìn lại để
phản tỉnh những quan niệm ấu trĩ, giản đơn của mình để từ đó làm nổi bật những giá trị văn
hóa bền vững trong lối sống, cách ứng xử của bà Hiền.
Nhân vật mẹ Tuất được kể qua điểm nhìn của Dũng, con trai lớn của bà Hiền. Người mẹ
Hà Nội ấy được hiện lên qua những suy ngẫm của Dũng vừa cảm động vừa mang những
chiêm nghiệm sâu sắc.

25


×