Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.63 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯƠNG LAN

TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG
BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG

Ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TUẤN KHANH

Hà Nội, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
thu thập và kết quả phân tích trong luận văn là trung thực và chính xác, những
kết quả nghiên cứu chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Phương Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ---------------------------------------------------------------------------------------- 1



CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC
XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN ----------------------------------------------------------------- 8
1.1. Quan niệm, đặc điểm xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại
Tịa án nhân dân -------------------------------------------------------------------------------- 8
1.2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành
chính tại Tòa án nhân dân -------------------------------------------------------------------- 16

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử
lý hành chính tại Tịa án nhân dân ---------------------------------------------------------- 28

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XEM XÉT, QUYẾT
ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN Ở TỈNH CAO BẰNG ---------------------------------------------------------------- 36

2.1. Khái quát điều kiện tinh tế - xã hội và tình hình áp dụng biện pháp xử lý
hành chính tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Cao Bằng ----------------------------------------- 36

2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy và việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại
hai cấp Tịa án nhân dân ở tỉnh Cao Bằng -------------------------------------------------- 39

2.3. Đánh giá chung về trình tự, thủ tục xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành
chính tại Tịa án nhân dân ở tỉnh Cao Bằng ----------------------------------------------- 43
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG --------------------------------------------------- 64
3.1. Quan điểm -------------------------------------------------------------------------- 64
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện trình tự, thủ tục xem xét,


quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân ở tỉnh Cao Bằng
-- 68

KẾT LUẬN ------------------------------------------------------------------------------------ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ------------------------------------------------ 81
PHỤ LỤC -------------------------------------------------------------------------------------- 86


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BPXLHC

: Biện pháp xử lý hành chính

TAND

: Tịa án nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội nước Cộng hịa Xã hội

chủ nghĩa Việt Nam thơng qua năm 2012, có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 quy
định hai nội dung chủ yếu là xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính. Theo đó luật quy định 04 hình thức xử phạt vi phạm
hành chính bao gồm: (a) Cảnh cáo; (b) Phạt tiền; (c) Tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;
(d) Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính (sau đây gọi chung là tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính); (đ) Trục xuất, và có 04 biện pháp xử lý hành chính gồm: (a) Biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn; (b) Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng;
(c) Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và (d) Biện pháp đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc. So với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì
Luật Xử lý vi phạm hành chính có nhiều quy định mới về hình thức xử lý,
thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, thủ tục xử phạt và thi hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính, mức xử phạt và một trong những điểm mới quan
trọng của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 là quy định về các biện
pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân, theo đó, Tịa án nhân dân có thẩm
quyền xem xét, quyết định áp dụng một số biện pháp xử lý hành chính.
Theo quy định tại Điều 106 của Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì: “Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định trình tự, thủ tục Tòa án nhân dân xem xét,
quyết định việc áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Nghị quyết số
24/2012/QH13 ngày 20/6/2012 của Quốc hội “Về việc thi hành Luật Xử lý vi
phạm hành chính” quy định: “các quy định liên quan đến việc áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính do Tịa án nhân dân xem xét, quyết định có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2014”. Như vậy, ngồi hoạt động xét
xử các vụ án, Tịa án nhân dân các cấp còn được giao thẩm quyền quyết định
áp dụng một số biện pháp xử lý hành chính, cụ thể là 3 trên 4 biện pháp xử lý

1



hành chính như đã nêu ở trên. Việc chuyển thẩm quyền xem xét, quyết định
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ Chủ tịch UBND sang TAND là
một cải cách lớn và có ý nghĩa rất sâu sắc, phù hợp với xu hướng tiến bộ, dân
chủ hiện nay. Việc giao Toà án quyết định áp dụng các biện pháp Xử lý hành
chính nêu trên theo thủ tục tư pháp sẽ tạo điều kiện cho đương sự, luật sư,
người bào chữa được tham dự để bảo vệ quyền lợi của đương sự, bảo đảm dân
chủ, khách quan, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế.
Về bản chất, các biện pháp xử lý hành chính do Tịa án xem xét, quyết
định áp dụng là những biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước, trực tiếp ảnh
hưởng đến quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền của người chưa
thành niên. Người bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính này ít nhiều bị
hạn chế tự do và một số quyền lợi khác, vì vậy, việc áp dụng các biện pháp
này cần phải được thực hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, dân chủ, công
khai, bảo đảm khách quan, chính xác theo đúng tinh thần “các cơ quan tư
pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền
con người” đã được khẳng định tại các Nghị quyết của Đảng và mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp quyền việt Nam.
Ngày 17/03/2014, Văn phòng Chủ tịch nước đã công bố Lệnh của Chủ
tịch nước về việc ban hành Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày
20/01/2014 về Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính tại Tịa án nhân dân (Sau đây gọi tắt là Pháp lệnh số 09). Pháp
lệnh đã thể chế hóa các quan điểm, chủ trưởng, chính sách của Đảng về cải
cách hệ thống hóa pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính đã được
xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng; bảo đảm trình tự, thủ tục
xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính chặt chẽ, nhanh
gọn, khả thi nhằm tăng cường tính cơng khai, minh bạch, cơng bằng dân chủ
trong q trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
bảo đảm quyền cơng dân, quyền con người đặc biệt là quyền của người chưa


2


thành niên trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tịa án nhân dân.
Tại tỉnh Cao Bằng, tình hình vi phạm pháp luật diễn ra ngày càng phức
tạp, số vụ việc vi phạm pháp luật hành chính do Tịa án nhân dân giải quyết
ngày càng tăng, trong đó việc áp dụng các BPXLHC tại Tòa án nhân dân được
tiến hành khá thường xun. Qua thực tiễn áp dụng có thể thấy trình tự, thủ
tục xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC tại Tòa án còn rườm rà, phải qua
nhiều bước, liên quan đến nhiều cơ quan như: Công an cấp xã; Công an
huyện, Phòng Tư pháp, Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội, Tòa án
nhân dân cấp huyện nên mất rất nhiều thời gian; điều kiện để lập hồ sơ áp
dụng BPXLHC quy định khá chặt chẽ nên khó để đưa được đối tượng vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc và trường giáo dưỡng hơn so
với trước đây, do đó, phần nào hạn chế đến việc áp dụng các biện pháp này
trên thực tế. Thêm nữa, các đối tượng cần được áp dụng biện pháp xử lý hành
chính tại TAND có số lượng tương đối lớn, tuy nhiên, số hồ sơ mà các TAND
đã thụ lý để xem xét, giải quyết cịn ít, chưa phản ánh đúng yêu cầu thực tế
của việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND nhất là tại địa bàn
tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, việc nghiên cứu tổng quát về trình tự, thủ tục xem xét, quyết
định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân có ý nghĩa
quan trọng và cần thiết trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay, từ đó đưa ra
giải pháp để hoàn thiện và đảm bảo việc thực hiện hoạt động này của Tòa án
nhân dân hai cấp.
Từ thực tiễn trên đây, học viên lựa chọn đề tài “Trình tự, thủ tục xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân từ
thực tiễn tỉnh Cao Bằng” làm luận văn Thạc sĩ luật học, chun ngành luật

Hiến pháp và luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bên cạnh hệ thống giáo trình Luật hành chính của các cơ sở đào tạo luật
cung cấp các kiến thức cơ bản về cưỡng chế hành chính nói chung và biện pháp

3


xử lý hành chính (trước đây là biện pháp xử lý hành chính khác) nói riêng, đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của biện pháp xử lý
hành chính. Trong đó, có thể nêu ra một số cơng trình tiêu biểu như: Luận văn
thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thủy (2001), "Thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính", trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị
Hà (2011), "Các biện pháp xử lý hành chính khác theo quy định của pháp luật
Việt Nam", trường Đại học Luật Hà Nội; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do
Đặng Thanh Sơn làm chủ nhiệm (2009), "Các biện pháp xử lý hành chính khác
và việc bảo đảm quyền con người", Bộ Tư pháp; Nguyễn Ngọc Bích (2003),
"Những điểm mới về các biện pháp xử lý hành chính khác trong Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính", Tạp chí Luật học, (Đặc san về xử lý vi phạm hành chính);
Trần Thanh Hương (2005), "Quyền công dân, quyền con người và chỗ đứng của
các biện pháp xử lý hành chính khác trong pháp luật về vi phạm hành chính",
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật; Lê Ngọc Thạch (2006), "Hoàn thiện các biện
pháp xử lý hành chính khác theo Pháp luật Việt Nam", Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật; Nguyễn Cửu Việt (2009), "Những vấn đề đổi mới pháp luật về vi phạm
hành chính ở nước ta", Tạp chí nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Mạnh Hùng
(2012), "Bàn về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong Dự thảo Luật Xử lý
vi phạm hành chính" - Chuyên đề thuộc Tọa đàm cấp bộ: Thông tin khoa học
tham vấn về Dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính, (04/2012), Văn phịng
Quốc hội - Ủy ban Pháp luật Quốc hội, Hà Nội. Ở những góc độ tiếp cận và
phạm vi nghiên cứu khác nhau, các cơng trình này đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý

luận và thực tiễn pháp lý về các biện pháp xử lý hành chính theo quy định của
pháp luật hiện hành ở thời điểm nghiên cứu (trước khi ban hành Luật xử lý vi
phạm hành chính ngày 20/6/2012). Do đó, một số kết quả của các cơng trình
nghiên cứu này khơng cịn tương thích với những thay đổi gần đây trong Luật xử
lý vi phạm hành chính năm 2012 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành Luật này về áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Gần đây, đáng chú ý là
cuốn sách do Đặng Thanh Sơn làm chủ biên (2017), "Tìm hiểu pháp luật về các
biện pháp xử lý vi phạm hành chính", Cục Xuất bản, in và phát hành. Đây là

4


cơng trình có tính quy mơ, tồn diện và khá chi tiết về các biện pháp pháp xử
lý hành chính. Tuy vậy, Cuốn sách chủ yếu luận giải các biện pháp xử lý hành
chính trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành để đưa ra các luận cứ
cho việc nhận diện và áp dụng đúng pháp luật đối với các biện pháp này.
Nhìn chung, các cơng trình nêu trên đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn pháp lý về các biện pháp xử lý hành chính theo nhiều phương
diện tiếp cận khác nhau. Đây là những luận cứ quan trọng để tiếp tục nghiên
cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chế định pháp luật về
áp dụng biện pháp xử lý hành chính và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện
chế định này trong thực tiễn.
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên, bằng kiến thức và kinh
nghiệm thực tiễn của bản thân người viết, việc nghiên cứu đề tài luận văn thạc
sĩ luật học "Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tịa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng" theo định hướng
ứng dụng được thực hiện trên trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả của các
cơng trình nghiên cứu có liên quan trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu vấn đề lý luận, đánh giá thực hiện và đưa ra giải pháp nhằm
đảm bảo việc thực hiện trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng
BPXLHC tại Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp
dụng BPXLHC tại Tòa án: quan niệm, đặc điểm, nội dung, thẩm quyền trình
tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án
nhân dân.
- Phân tích làm rõ thực tiễn việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp
xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân tại tỉnh Cao Bằng, chỉ ra những ưu
điểm, kết quả đạt được, hạn chế và bất cập, nguyên nhân của kết quả đạt được
cũng như những hạn chế, bất cập.

5


- Đưa ra quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm việc thực
hiện trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC tại TAND.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn có liên
quan đến trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tịa án nhân dân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về khơng gian: Luận văn nghiên cứu trình tự, thủ tục xem xét, quyết
định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân và các quy
định của pháp luật có liên quan đến việc quyết định áp dụng BPXLHC tại Tòa
án theo pháp luật Việt Nam trên địa bàn tỉnh Cao Bằng.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn công tác áp dụng các biện
pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tịa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Cao

Bằng, giai đoạn từ 2016 - 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của triết học Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về áp dụng BPXLHC tại TAND.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể: tổng hợp, phân tích
khái quát những vấn đề cơ bản nhất về lý luận và thực tiễn xem xét, quyết
định áp dụng BPXLHC trên cơ sở trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp
dụng BPXLHC được quy định tại Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn, tổng kết số liệu từ năm 2016 đến năm
2019 trong hoạt động thực hiện trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng
BPXLHC của Tòa án nhân dân tại tỉnh Cao Bằng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6


Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về trình tự, thủ tục xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân.
Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo dành cho các nhà nghiên cứu, các
cán bộ giảng dạy pháp luật. Luận văn cịn tổng hợp, phân tích tình hình thực
hiện các trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành
chính tại Tịa án nhân dân, thực trạng tồn tại, nguyên nhân, giải pháp thực
hiện những vấn đề quan trọng để phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
cũng như kỹ năng hoạt động cho các cán bộ, Kiểm sát viên và Thẩm phán
đang công tác tại các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tịa án trong q trình
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính được khách quan, chính xác, có căn

cứ và đúng pháp luật. Luận văn có giá trị tham khảo cho việc hoạch định
chính sách và hồn thiện chính sách pháp luật trong việc áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và giải pháp về trình tự, thủ tục xem xét, quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân
Chương 2: Thực trạng trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân ở tỉnh Cao Bằng
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hồn thiện pháp luật và bảo đảm thực
hiện trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
tại Tịa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.
Ngồi ra cịn có phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo
và phụ lục.

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRÌNH TỰ, THỦ TỤC XEM
XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Quan niệm, đặc điểm xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành
chính tại Tịa án nhân dân
1.1.1. Quan niệm về biện pháp xử lý hành chính và việc áp dụng biện
pháp xử lý hành chính của Tịa án nhân dân
Theo quy định của Luật XLVPHC năm 2012, xử lí vi phạm hành chính
bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lí hành
chính khác.
Tại Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012 quy định:

“3. Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá
nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an tồn xã hội mà khơng phải là
tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào
trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc.”
Từ đó có thể đưa ra khái niệm: Xử lí vi phạm hành chính là hoạt động
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế do
pháp luật quy định đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật
nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Xử lí vi phạm hành
chính bao gồm xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lí
hành chính khác.
Xuất phát từ Nghị quyết 49 năm 1961 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
các biện pháp xử lý hành chính quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính
năm 2012 hiện hành có nguồn gốc ban đầu là biện pháp cưỡng chế hành chính
đặc biệt. Nghị quyết này quy định việc đưa vào các cơ sở tập trung giáo dục,
cải tạo đối với người có hành động nguy hại cho xã hội, được giáo dục nhiều
lần, nhưng không hối cải. Chủ tịch tỉnh ra quyết định và Bộ trưởng Công an

8


duyệt với thời hạn 03 năm mà không cần thông qua việc xét xử của cơ quan
tư pháp - Tòa án. Những biện pháp này được dành cho những người chống
đối chế độ biểu hiện qua những hành vi như: gián điệp, mật thám, ngụy quân,
ngụy quyền, cốt cán đảng phái phản động… Biện pháp tập trung giáo dục cải
tạo, ngồi những đối tượng nói trên, cũng được áp dụng cho những người có
những hành tội phạm như lưu manh, trộm cắp, lừa đảo…
Theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1995 các biện pháp
cưỡng chế hành chính đặc biệt được xếp vào nhóm biện pháp xử lý vi phạm
hành chính khác.

Đến Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã được sửa đổi, bổ
sung theo hướng nhân đạo hơn nhằm tạo điều kiện cho người vi phạm sớm
hoà nhập cộng đồng:
Tại Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định:
"Các biện pháp xử lý hành chính khác được áp dụng đối với cá nhân có hành
vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức
truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại các điều 23, 24, 25, 26 của
Pháp lệnh này".
Các biện pháp xử lý hành chính khác được xem là biện pháp cưỡng chế
hành chính đặc biệt, sở dĩ được xem là đặc biệt vì nó khác các biện pháp
cưỡng chế hành chính thơng thường khác như đã phân tích trên và nó mang
những đặc trưng về mức độ nghiêm khắc cao hơn so với các biện pháp cưỡng
chế hành chính thơng thường . Về thực chất biện pháp xử lý hành chính khác
hạn chế quyền tự do cá nhân trong một giai đoạn nhất định với hình thức như
đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh,
không thua kém các biện pháp tư pháp hình sự về tính chất khắc nghiệt, trừng
phạt; hoặc biện pháp có tính chất tác động xã hội cao như giáo dục tại xã,
phường, thị trấn. Nhóm biện pháp này có đặc trưng là thời gian cưỡng chế dài
từ ba tháng đến hai năm, người bị áp dụng phải chịu sự giám sát và quản lý

9


chặt chẽ của các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức xã hội, các đoàn thể…
Đối tượng bị áp dụng các biện pháp này cũng đa dạng và đặc biệt hơn.
Đến ngày 01 tháng 01 năm 2014, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012
có hiệu lực hồn tồn, đã có nhiều quy định mới và cụ thể hơn về hình thức xử
lý, thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, thủ tục xử phạt và thi hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính cũng như mức xử phạt, đặc biệt là quy định về các
biện pháp xử lý hành chính do Tịa án nhân dân xem xét, quyết định.


Theo quy định tại Phần thứ ba của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm
2012 thì có 04 biện pháp xử lý hành chính, bao gồm: (1) biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn; (2) biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; (3) biện
pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và (4) biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc. Trong đó, Tịa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc. Xét về bản chất thì các biện pháp xử lý hành chính do Tịa án nhân dân
xem xét, quyết định áp dụng nêu trên là những biện pháp mang tính cưỡng
chế nhà nước, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền cơ bản của cơng dân, trong đó
có quyền của người chưa thành niên. Người bị áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính này ít nhiều bị hạn chế tự do và một số quyền lợi khác. Vì vậy,
việc áp dụng các biện pháp này cần phải được thực hiện theo một trình tự, thủ
tục chặt chẽ, dân chủ, cơng khai, bảo đảm khách quan, chính xác.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân như sau: “Áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tịa án nhân dân là một hình thức thực hiện pháp luật do Tòa án
nhân dân tuân thủ những quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính và Pháp
lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
tại Tịa án nhân dân để quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính đối
với cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội
nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bao gồm biện pháp

10


đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc”
1.1.2. Đặc điểm của xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC tại TAND

1.1.2.1. Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân là
q trình cá biệt hố các quy phạm pháp luật hành chính đối với hành vi vi
phạm hành chính.
Theo nguyên tắc của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Pháp
lệnh số 09 quy định về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện
pháp xứ lý hành chính tại Tịa án nhân dân thì việc xác định sự thật khách
quan của hồ sơ đề nghị xử lý vi phạm hành chính thuộc trách nhiệm của các
cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong đó có Tồ án.
Xác định sự thật khách quan của hồ sơ xử lý hành chính bao gồm các
việc như xác định các giai đoạn của quá trình thực hiện hành vi vi phạm hành
chính từ khi bắt đầu cho tới khi kết thúc; hành vi vi phạm pháp luật đó thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật xử lý vi phạm hành chính hay khơng, nếu thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật xử lý vi phạm hành chính thì sẽ áp dụng điều
luật nào, khoản nào, mức hình phạt nào hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính nào để tương xứng với hành vi vi phạm. Đồng thời khi nghiên cứu hồ
sơ xử lý vi phạm hành chính, những cá nhân có thẩm quyền cần xác định hành
vi phạm vi phạm hành chính trên thực tế và đối chiếu với quy định của Luật
xử lý hành chính để xem xét áp dụng một trong ba biện pháp xử lý hành chính
tại Tịa án nhân dân, là: đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc và đưa vào cai nghiện bắt buộc.
Tại phiên họp để xem xét việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Thẩm phán phải lựa chọn quy phạm pháp luật nội dung (Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012) và quy phạm pháp luật hình thức (Pháp lệnh số 09) phù
hợp để áp dụng và xem xét việc đưa ra biện pháp xử lý hành chính đối với
người thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Để thực hiện áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đúng, thì các chủ thể áp dụng biện pháp xử lý hành

11



chính phải có kiến thức pháp lý, có kinh nghiệm thực tiễn và có sự hiểu biết
rộng về các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
1.1.2.2. Áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án
nhân dân là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước do Tòa án nhân dân
tiến hành mà trực tiếp là Thẩm phán và được tiến hành tại trụ sở của Tòa án
Thẩm phán Tòa án nhân dân phải căn cứ vào các chứng cứ tài liệu mà cơ
quan lập hồ sơ đề nghị xử lý vi phạm hành chính (Cơng an hoặc Ủy ban nhân
dân ...) đã thu thập được và kết quả thẩm tra tại phiên họp để ra quyết định áp
dụng một trong ba biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân đối với người

vi phạm hành chính được khách quan, chính xác, đúng pháp luật được tiến
hành thông qua phiên họp xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC tại TAND,
nhằm xem xét, đánh giá các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá trình
các cơ quan, tổ chức lập hồ sơ đề nghị đối với người bị áp dụng BPXLHC.
Điều đó thể hiện uy quyền của Nhà nước mà cơ quan đại diện là TAND. Việc
mở phiên họp công khai tại trụ sở Tịa án khơng chỉ thể hiện sự tơn nghiêm
của pháp luật mà còn đảm bảo sự tham gia, giám sát của nhân dân. Qua đó,
đảm bảo quyền tự do, dân chủ của cơng dân, quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước; các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước, của công dân, các tổ chức được
pháp luật bảo vệ, công bằng xã hội được thực hiện triệt để, nghiêm túc.
Thẩm phán chủ trì phiên họp xem xét việc áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính tại Tịa án nhân dân. Tại phiên họp, người bị đề nghị áp dụng biện
pháp xử lý có quyền trình bày ý kiến về việc mình bị đề nghị áp dụng biện
pháp xứ lý hành chính là đúng hay sai và có quyền đưa ra chứng cứ và tham
gia tranh luận bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của mình. Những người
tham gia phiên họp còn phải chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên họp, nếu
vi phạm thì tùy theo mức độ sẽ bị Thẩm phán xử lý theo quy định của pháp
luật. Việc mở phiên họp cơng khai tại Tịa án nhân nhân cũng chính là cơ sở
xem xét, đánh giá chất lượng công tác áp dụng các biện pháp xử lý hành


12


chính tại Tịa án dân dân nói chung và khả năng, trình độ, năng lực người
Thẩm phán nói riêng.
Vì vậy, để đảm bảo cho một quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành
chính tại Tịa án nhân dân đạt hiệu quả, đúng pháp luật đòi hỏi Thẩm phán
phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật, có tâm huyết với nghề Tồ
án nói chung và uy tín của từng cá nhân Thẩm phán nói riêng.
1.1.3. Áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND là hoạt động
áp dụng pháp luật được tiến hành theo một trình tự, thủ tục xem xét chặt chẽ.
Pháp lệnh số 09 và Nghị quyết số 04/2015/NQ-HĐTP ngày 24/12/2015
của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
của pháp luật về xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xứ lý hành chính
tại Tịa án nhân dân đã quy định rất chi tiết và chặt chẽ trình tự thủ tục và cách
thức tiến hành các hoạt động xem xét áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
tại Tịa án nhân dân buộc cơ quan Tòa án mà đại diện là Thẩm phán phải tuân
thủ triệt để các quy định đó khi tổ chức phiên họp xem xét áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân. Thẩm phán được phân công xem
xét, quyết định áp dụng BPXLHC phải dự tính trước các tình huống phát sinh
tại phiên họp như: việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong quá trình lập hồ
sơ đề nghị; người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử hành chính vắng mặt; đại
diện cơ quan đề nghị, Kiểm sát viên hoặc phiên dịch vắng mặt.
Trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC, nếu Tịa án vi
phạm các trình tự, thủ tục phiên họp do pháp luật quy định thì bị coi là vi
phạm nghiêm trọng Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân và sẽ bị Viện kiểm sát
nhân dân kháng nghị, dẫn tới việc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành
chính tại Tịa án nhân dân có thể bị hủy bỏ.
Do vậy q trình tổ chức phiên họp, Thẩm phán phải tuân thủ triệt để các

quy định của Pháp lệnh số 09 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng
các biện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tịa án nhân dân. Đây chính là

13


việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình thức được quy định trong Pháp
lệnh số 09. Việc áp dụng đúng các quy định nêu trên giúp cho các quyền và
nghĩa vụ của công dân được bảo đảm thực hiện một cách nghiêm chỉnh; các
bước tiến hành trình tự, thủ tục được chính xác, khách quan; các quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính tại của Tồ án bảo đảm đúng pháp luật.
1.1.3. Nguyên tắc của xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC tại TAND
Nguyên tắc khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án được quy
định cụ thể tại Điều 2 Pháp lệnh số 09 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tịa án nhân dân, theo đó, nguyên tắc xem
xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính được quy định như sau:

Thứ nhất, việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
tại Tịa án phải đảm bảo nguyên tắc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
được quy định tại khoản 2 Điều 3 và khoản 2 Điều 5 của Luật xử lý vi phạm
hành chính, bao gồm: Cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu
thuộc một trong các đối tượng sau: đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng, đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc và đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Việc
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính phải được tiến hành nhanh chóng,
cơng khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định
của pháp luật; Việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính
phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân thân người vi phạm
và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng; Người có thẩm quyền áp dụng biện
pháp xử lý hành chính có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá

nhân bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thơng qua
người đại diện hợp pháp chứng minh mình khơng vi phạm hành chính; Đối
tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính là cá nhân được quy định tại các
điều 90, 92, 94 và 96 của Luật xử lý vi phạm hành chính.

14


Việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với
người chưa thành niên cịn phải bảo đảm các quy định tại các khoản 1, 2 và 4
Điều 134 của Luật xử lý vi phạm hành chính, cụ thể như sau:
“1. Việc xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính chỉ được thực
hiện trong trường hợp cần thiết nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Trong q trình xem xét xử lý người chưa thành niên vi phạm hành
chính, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính phải bảo đảm lợi ích
tốt nhất cho người chưa thành niên. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
chỉ được áp dụng khi xét thấy khơng có biện pháp xử lý khác phù hợp hơn;
2. Việc xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính cịn căn cứ vào
khả năng nhận thức của người chưa thành niên về tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi vi phạm, nguyên nhân và hoàn cảnh vi phạm để quyết định
việc xử phạt hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính phù hợp;
4. Trong quá trình xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính, bí
mật riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng và bảo vệ;”
Thứ hai, việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính do
một Thẩm phán thực hiện.
Thứ ba, khi xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính,
Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Thứ tư, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành phiên họp, gồm
Thẩm phán và Thư ký phiên họp. Nếu Thẩm phán, Thư ký được phân cơng

thuộc những trường hợp sau thì phải từ chối, thay đổi Thẩm phán, Thư ký
phiên họp: Là người thân thích của người bị đề nghị; Đã tiến hành xem xét,
quyết định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong cùng vụ việc đó;
Đã tiến hành việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị đối với quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong cùng vụ việc đó; Có căn cứ rõ
ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.

15


Thứ năm, tiếng nói, chữ viết dùng trong việc xem xét, quyết định áp
dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án là tiếng Việt. Người bị đề nghị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cha
mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình và phải có người phiên dịch.
Thứ sáu, người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề
nghị là người chưa thành niên có quyền tự mình hoặc nhờ luật sư, người khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trường hợp người bị đề nghị là
người chưa thành niên mà khơng có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
thì Tịa án u cầu Đồn luật sư phân cơng Văn phịng luật sư cử người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Tòa án bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị đề nghị.
Thứ bảy, bảo đảm quyền của người bị đề nghị được giải trình trước Tòa
án, tranh luận với cơ quan đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Thứ tám, bảo đảm quyền được xem xét theo hai cấp trong việc áp dụng
biện pháp xử lý hành chính. Theo đó, Tịa án có thẩm quyền xem xét, quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính là Tịa án nhân dân cấp huyện nơi cơ
quan đề nghị có trụ sở. Tịa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét lại quyết
định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị.
1.2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng

BPXLHC tại TAND
1.2.1. Thẩm quyền
Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh thần của
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đó là “hình thành
cơ chế pháp lý đế Chính phủ thực hiện quyền yêu cầu xem xét, xử lý bằng thủ
tục tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được phát hiện trong quá trình
quản lý, tổ chức thi hành pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân
tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng của cơng dân và cơ quan cơng quyền
trước Tòa án” cũng như bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con

16


người, tiến tới các chuẩn mực quốc tế về quyền con người theo hướng công
khai, minh bạch, công bằng, hạn chế việc ban hành quyết định áp dụng mang
tính khép kín, đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Luật
XLVPHC quy định chuyển thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng các
BPXLHC bao gồm biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục bắt buộc, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sang cơ
quan tư pháp, cụ thể ở đây là Tòa án nhân dân, là một cải cách lớn và có ý
nghĩa rất sâu sắc. Điều này giúp tăng uy tín quốc gia trong việc bảo đảm thực
hiện các cam kết quốc tế, hơn nữa, việc thực thi tốt các điều ước quốc tế về
quyền con người giúp doanh nghiệp gián tiếp hưởng lợi về đầu tư và việc
tham gia các hiệp định thương mại; giảm khiếu nại, tố cáo; hiệu quả thi hành
của quyết định áp dụng do đối tượng bị áp dụng và gia đình đồng tình với
quyết định áp dụng, tự nguyện thi hành cao hơn trước; tiết kiệm được chi phí
cơ hội nếu tránh được việc bị áp dụng sau pháp luật.
Tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây
gọi chung là Tịa án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền xem xét, quyết định
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ

sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là Tòa án nhân dân cấp tỉnh) có thẩm quyền xem xét, giải quyết các
quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc áp dụng biện pháp xử lý
hành chính bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị; xem xét, giải quyết hành vi
của người có thẩm quyền của Tịa án nhân dân cấp huyện trong việc áp dụng
biện pháp xử lý hành chính bị khiếu nại.
Điểm mới quan trọng của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 là quy
định về các biện pháp xử lý hành chính do Tịa án nhân dân xem xét, quyết định.
Theo khoản 2 Điều 105 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định:
“Tồ án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai

17


nghiện bắt buộc”. Việc chuyển thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc từ Chủ tịch Ủy ban nhân dân sang Tòa án nhân dân
là nội dung thay đổi rất lớn so với Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm
2002 trước đây, phù hợp với xu hướng tiến bộ, dân chủ hiện nay.
1.2.2. Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý
hành chính tại Tịa án nhân dân
Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính tại TAND được thực hiện theo quy định tại Pháp lệnh số 09. Biện pháp
xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân được tiến hành một cách chặt chẽ, qua
nhiều khâu xét duyệt với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền khác nhau. Bởi việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại
Tịa án nhân dân đối với các đối tượng vi phạm pháp luật ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền, tự do của mỗi cá nhân.Vì vậy, pháp luật cần phải quy định chính

xác, minh bạch trong q trình xử lý để vừa đảm bảo xử lý nghiêm những
hành vi phạm, đồng thời đảm bảo quyền tự do dân chủ của cơng dân.
Pháp lệnh gồm có 5 chương, 42 điều, quy định trình tự, thủ tục xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại
tòa án nhân dân; trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc hỗn, miễn chấp
hành, giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp
dụng biện pháp xử lý hành chính cịn lại; khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị;
giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị trong việc áp dụng biện pháp xử lý
hành chính; khiếu nại, giải quyết khiếu nại hành vi của người có thẩm quyền
của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Trình tự, thủ tục xem xét quyết định áp dụng BPXLHC tại TAND được
thực hiện qua 05 bước cơ bản như sau:

18


- Sau khi Tòa án thụ lý hồ sơ đề nghị của cơ quan có thẩm quyền, trong
thời hạn 01 ngày làm việc, phải tiến hành phân công Thẩm phán xem xét, giải
quyết.
- Tịa án thơng báo việc thụ lý bằng văn bản cho cơ quan đề nghị, người
bị đề nghị hoặc các cá nhân có liên quan và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời
hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý.
- Thẩm phán được phân công phải kiểm tra hồ sơ đề nghị trong thời hạn
03 ngày, kể từ ngày được phân cơng, từ đó quyết định việc yêu cầu bổ sung
tài liệu, chứng cứ; đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng
BPXLHC; hoặc mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC.
- Trường hợp mở phiên họp thì Thẩm phán ra quyết định mở phiên họp
và gửi cho người bị đề nghị, cơ quan đề nghị, Viện kiểm sát và những người
có liên quan khác tham gia phiên họp trong thời hạn chậm nhất 03 ngày làm

việc trước khi mở phiên họp.
- Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp được quy định tại Điều 20 Pháp
lệnh số 09. Tại phiên họp Thẩm phán phải công bố một trong các quyết định:
áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp XLHC hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ
việc xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC.
Có thể khẳng định rằng, với phạm vi điều chỉnh như trên, Pháp lệnh đã
thể chế hóa các quan điểm, chủ trưởng, chính sách của Đảng về cải cách hệ
thống hóa pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính đã được xác
định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng; bảo đảm trình tự, thủ tục xem
xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính chặt chẽ, nhanh gọn,
khả thi nhằm tăng cường tính cơng khai, minh bạch, cơng bằng dân chủ trong
quá trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính bảo
đảm quyền cơng dân, quyền con người đặc biệt là quyền của người chưa
thành niên trong quá trình xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp hành
chính.

19


Thời hạn để Tòa án xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC kể từ ngày
thụ lý hồ sơ đến khi công bố quyết định là 15 ngày, đối với vụ việc phức tạp,
thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
Trách nhiệm của Thẩm phán khi được phân công là phải vô tư trong khi
làm nhiệm vụ, nếu có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể khơng vơ tư thì Thẩm
phán phải từ chối xem xét, quyết định, trường hợp này thì Chánh án Tịa án
phân công Thẩm phán khác xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành
chính. Đặc biệt đối với việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng, Thẩm phán được phân cơng phải có hiểu biết cần thiết về
tâm lý học, khoa học giáo dục và hoạt động phòng ngừa người chưa thành
niên vi phạm pháp luật. Thẩm phán kiểm tra hồ sơ đề nghị về các nội dung

như: tài liệu trong hồ sơ đề nghị đúng, đủ theo quy định của Luật XLVPHC;
Thời hiệu áp dụng BPXLHC theo quy định của Luật XLVPHC; Thẩm quyền,
trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC. Trường hợp cần thiết,
Thẩm phán có thể tham vấn ý kiến của chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã
hội học và đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người bị đề nghị áp dụng biện
pháp xử lý hành chính cư trú để làm rõ tình trạng sức khỏe, tâm lý, điều kiện
sống, học tập của họ.
Đối với trường hợp cần bổ sung tài liệu, chứng cứ thì người bị đề nghị,
cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị có quyền cung cấp
tài liệu, chứng cứ cho tòa án đã thụ lý; Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan
đề nghị bổ sung tài liệu, chứng cứ khi tài liệu chứng minh hành vi vi phạm
của người bị đề nghị, tài liệu về nhân thân, tình trạng sức khỏe của người bị
đề nghị chưa rõ hoặc có mâu thuẫn mà khơng thể bổ sung, làm rõ tại phiên
họp hoặc khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục đề nghị xem
xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Đối với trường hợp đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng
BPXLHC khi có một trong các căn cứ theo quy định tại Điều 15 Pháp lệnh số 09

20


như sau: Hết thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính; Người bị đề nghị
đã chết; Người bị đề nghị không thuộc đối tượng áp dụng biện pháp xử lý
hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính; Người bị đề
nghị thuộc trường hợp khơng áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy
định của Luật xử lý vi phạm hành chính; Cơ quan đề nghị rút đề nghị; Người
bị đề nghị đã có bản án, quyết định hình sự của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật đối với hành vi bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; Người bị
đề nghị đang chấp hành hình phạt tù, đang chờ chấp hành hình phạt tù hoặc

hình phạt tử hình theo bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
Đối với trường hợp mở phiên họp thì thành phần tiến hành phiên họp gồm
có người tiến hành phiên họp là Thẩm phán và Thư ký phiên họp; Người tham
gia phiên họp gồm có đại diện cơ quan đề nghị, Kiểm sát viên, người bị đề nghị
hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị
đề nghị là người chưa thành niên, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị đề nghị; Trường hợp cần thiết, Tòa án yêu cầu đại diện cơ quan Lao
động - thương binh và xã hội cấp huyện, người giám định, người phiên dịch,
chuyên gia y tế, giáo dục, tâm lý, đại diện của nhà trường nơi người bị đề nghị là
người chưa thành niên học tập, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người bị đề
nghị cư trú hoặc những người khác tham gia phiên họp để trình bày ý kiến về các
vấn đề có liên quan. Người tham gia phiên họp phải thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình theo quy định tại Điều 18 Pháp lệnh số 09. Nếu người tham gia phiên
họp vắng mặt có lý do chính đáng thì Tịa án có thể hỗn phiên họp; trường hợp
vắng mặt khơng có lý do chính đáng hoặc có u cầu xem xét vắng mặt thì Tịa
án vẫn tiến hành phiên họp. Riêng đối với trường hợp đại diện cơ quan đề nghị,
Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp. Biên bản phiên họp xem xét,
quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa
điểm mở phiên họp; thành phần tham gia phiên họp; nội dung, diễn biến phiên
họp; quyết định của Thẩm phán. Sau khi kết thúc phiên họp, Thẩm phán phải
kiểm tra biên bản, cùng với Thư ký phiên họp ký vào biên bản. Kiểm sát viên,

21


×