Tải bản đầy đủ (.pptx) (23 trang)

Lịch sử nghê thuật- Tranh lụa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.41 MB, 23 trang )

LỊCH SỬ NGHỆ

THUẬT

“TRANH LỤA”
GVHD:

TRANH LỤA
LỚP


DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN


MỤC LỤC








KHÁI QT

04

Sự ra đời

04


Tranh lụa cổ

06

Q trình phát triển

07

ĐẶC ĐIỂM CỦA TRANH LỤA

10

CHẤT LIỆU, DỤNG CỤ VÀ KỸ THUẬT VẼ TRANH LỤA

13

Chất liệu

14

Dụng cụ

15

Kỹ Thuật

16

CÁC HỌA SĨ VIỆT NAM NỔI TIẾNG VỚI TRANH LỤA
Tạ Thúc Bình


17
18

Nguyễn Phan Chánh

19

Lưu Văn Đệ

20

Nguyễn Tiến Chung

21

Lê Phổ

22


1. SỰ RA ĐỜI
Tranh lụa với tư cách là một loại hình nghệ thuật độc đáo của các nước phương Đơng đã có mặt trong nền hội
họa Việt Nam từ lâu qua tranh chân dung các nhân vật lich sử, tranh thờ của một dòng họ quý tộc.
Tranh lụa bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 30 của thế kỷ XX tại trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông
Dương- do các họa sĩ người Pháp truyền dạy, được thành lập ở Hà Nội.



Nhắc đến tranh lụa Việt Nam không thể không nhắc đến Phan Chánh – một trong những họa sĩ vẽ tranh lụa

thế hệ đầu. Tại cuộc triển lãm năm 1931, “bức ô ăn quan” của ông được đánh giá “như một tác phẩm có giá
trị nghệ thuật cao và hiếm lạ, không giống một nước nào”. Ngồi ra cịn có Trần Phềnh, Nguyễn Nam Sơn, Tơ
Ngọc Vân,…



Sở dĩ tranh lụa Việt Nam đặc biệt như vậy là do tình hình kinh tế của đất nước. Khi đất nước đói khổ việc
đầu tư cho nghệ thuật hạn chế là điều hiển nhiên. Lúc bấy giờ, các sinh viên vẽ hỏng tranh không đủ tiền
mua lụa nên đã thử giặt rửa và vơ tình điều này tạo nên những tuyệt tác vô cùng đặc biệt mà không nước
nào có được. Trên chất liệu lụa mềm mại, đời sống sinh hoạt của con người Việt Nam được đưa vào một
cách sống động, gần gũi.

KHÁI QUÁT
CHUNG VỀ
TRANH LỤA


Nguyễn Phan Chánh và thời kỳ đầu tên:
Chúng ta hay nói, Nguyễn Phan Chánh tham khảo
tranh lụa Đường, Tống để từ đó tìm ra cách vẽ tranh
lụa Việt Nam, nhưng chính xác hơn thì tranh ơng
thiên về cái ý vị của Tống học, tinh túy tập trung ở
“tịnh lự” (Thiền). Sắc- không của Thiền nhập với vôhữu của Lão khiến ông luôn luôn ý thức được ý nghĩa
của các mảng trống. Thiền và Đạo thâm nhập vào
nhau tạo nên thi vị. Ấn tượng nhận được thường
mang tính chủ lý, giàu chất trí tuệ, giản dị tới mức
thanh thản.

Thập niên 1930 đương nhiên là thời kỳ đầu tiên, và cũng có thể được xem là thời kỳ hoàng kim của tranh lụa. Ở thời kỳ này, với lụa, hầu như
khơng có một họa sĩ nào không từng thử nghiệm.

Kĩ thuật vẽ cổ đại là phương pháp vẽ tượng trưng – sự vật khơng được mơ tả theo mắt thường nhìn thấy.

Ra đồng của Nguyễn Phan Chánh


Tranh lụa có từ lâu đời tại Trung Quốc và Nhật Bản. Ở Việt Nam ngày nay còn lưu lại một vài bức chân dung Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan, Trịnh Đình Kiên,
Phan Huy Cẩn, Phan Huy Ích, Phan Huy Thực, Phan Huy Vịnh từ thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Tất cả những bức họa này (chưa rõ tác giả) đều vẽ trên lụa.

Như người Trung Hoa, người
Việt Cổ cũng vẽ tranh trên lụa

TRANH LỤA CỔ

và giấy. Dưới thời phong kiến,
mỹ thuật chưa phát triển ở
nước ta, vì thế chỉ có một số

Hiện thân của tranh lụa thực ra chỉ là một cái
màng màu (hoặc mực) mỏng manh, rất loãng vật

bức tranh lụa vẽ chân dung thờ

chất. Bởi vậy, lụa rất thích hợp cho sự thể hiện cả

trong thế kỷ 19, bức tranh cổ

cái nhìn từ bên ngồi vào lẫn cái nhìn từ bên

nhất được cho là chân dung của


trong ra, hay nói khác đi, là sự hài hịa giữa tâm

Nguyễn Trãi thế kỷ 15.

và vật. Một bức tranh vẽ trên giấy chuyển sang vẽ
trên lụa đã mang một phẩm giá khác hẳn, nhiều
khi đồng nghĩa với việc chuyển một tư liệu thành
một tác phẩm.

Chân dung cụ Nguyễn Trãi

Chân dung cụ Trịnh Đình Kiên
(1715 – 1786)


*Trước năm 1945



Những năm 30 là giai đoạn mở đầu cho nghệ thuật tranh lụa tại Việt Nam, với sự kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật của phương Tây và tính dân tộc đặc biệt của nước ta,
các họa sĩ sớm tạo ra những tác phẩm mang giá trị nghệ thuật được thế giới công nhận.



Từ năm 1931 đến 1937, tranh lụa đại diện cho nền hội họa Việt Nam trên trường quốc tế ở các triển lãm ở Paris, San – Francisco, Java, Hồng Kông, Nhật Bản… Đây là bước
tiến thuận lợi cho nền hội họa nước nhà.



Tuy nhiên, những năm sau 1937, tranh lụa lại bắt đầu đi theo hướng khác. Tranh lụa thời kỳ này phần nào mất đi tính dân tộc, họa sĩ muốn khẳng định cá tính cá nhân, đổi

mới phong cách sáng tác, màu sắc cũng thay đổi.



Trong những năm cuối của thời kỳ này, tranh lụa đã có sự chệch hướng trong quá trình phát triển. Cái đạt được về chất thì về màu sắc không đem được lại hứng thú,
đồng cảm với người xem.

Q TRÌNH PHÁT
TRIỂN

Q trình phát triển của tranh lụa Việt Nam chủ yếu gồm 3
giai đoạn

Lê Văn Đệ (1906-1966) En famille, daté 1933, huile sur toile

 Tác phẩm “Người hát rong” được Nguyễn Phan Chánh vẽ năm 1929

Bức “Hầu đồng” được vẽ năm 1931


*Giai đoạn 1945 đến trước đổi mới



Cách mạng tháng Tám năm 1945 diễn ra đã đem lại hướng sáng tác mới cho tranh vẽ Việt Nam nói chung và tranh lụa nói riêng. Tranh lụa truyền thống có cơ
sở phát triển đúng đắn hơn, có bước tiến về con đường nghệ thuật





Tháng 8 năm 1946, triển lãm Mĩ thuật tồn quốc diễn ra với những màu sắc mới của tranh lụa với hình ảnh những em bé, chị nơng dân cấy lúa.



Tuy nhiên, đến thời kỳ này tranh lụa khơng phát triển kịp so với tranh sơn dầu, sơn mài và đã có khuynh hướng nghiên cứu để xuất khẩu. Lý do lớn là tranh
lụa khó bảo quản, các họa sĩ ít nghiên cứu sáng tác.

Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, tranh lụa đã chuyển từ hình ảnh phong tục sinh hoạt sang đề tài cách mạng, kháng chiến. Nghệ thuật đi vào tả
thực, gắn với cuộc sống chiến đấu đa màu sắc. Từ nghệ thuật dân tộc, tranh lụa mang tính chất xã hội.

Lê Văn Đệ (1906-1966) -  Nắng hè vẽ năm 1954 tại Hà Nội

Hợp tác xã chia thóc 1960- Ngơ Minh Cầu

Nguyễn Trãi 1969- Đặng Q Khoa


*Giai đoạn từ đổi mới đến nay
Những năm sau đổi mới, do nhu cầu của thị trường nên nhiều họa sĩ lao vào vẽ tranh lụa nhưng sau cơn sốt đó tranh lụa lại chìm dần. Sau họa sĩ
Nguyễn Phan Chánh, không một họa sĩ nào nghiên cứu chuyên sâu về vẽ tranh lụa, họa sĩ nào cũng “chấm” một chút, có vài bức kỷ niệm lại thơi.
Những tưởng tranh lụa Việt Nam sẽ đi vào quên lãng, nhưng năm 2007 Triển lãm về tranh lụa đã diễn ra. Với 154 bức được chọn treo ở Triển lãm.


ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA TRANH
LỤA


Trong kho tàng mỹ thuật Việt Nam bên cạnh các loại tranh dân gian như tranh
Đơng Hồ, trang Hàng Trống thì tranh Lụa được xem là một thể loại mang đậm
bản sắc và dấu ấn dân tộc. Cùng với tranh Sơn Mài và Sơn Dầu thì tranh lụa

cũng được xếp vào hàng Quốc Họa của Việt Nam. Kỹ thuật vẽ tranh lụa cũng
gồm cọ mực, màu, bút viết nhưng khác với các loại tranh khác là các họa tiết
đường nét được thể hiện trên nền vải lụa.


Nhưng ưu thế lớn nhất của tranh lụa chính là sự mềm mại, nhuần nhị, êm ả và sâu lắng. Để tạo được hiệu quả như vậy, các họa sĩ thường phải vẽ nhiều lần
cho một mảng màu để màu thấm vào từng thớ lụa. Nếu như trong kỹ thuật sơn mài có phần việc mài sơn cũng được coi là vẽ thì trong kỹ thuật tranh lụa,việc
rửa lụa cũng cần phải tính tốn kỹ.Cơng đoạn đầu tiên khi vẽ lụa là căng lụa lên khung sao cho thật đều tuy có thể để lụa khơ hoặc ẩm. Sau đó, họa sĩ hồ lụa
bằng nước bột gạo có pha một chút phèn để khi vẽ, màu bám không bị loang. Có người bỏ qua cơng đoạn hồ lụa, họ thích khai thác những nét nhòe, loang, tạo
sự mơ màng của tác phẩm. Khi thể hiện màu, họa sĩ có thể can hình lên bằng nét chì thật mảnh qua giấy can hoặc đặt bút vẽ thẳng lên lụa để cảm xúc được
tuôn trào qua nét bút. Vẻ đẹp của tác phẩm tùy theo cách sử dụng ngọn bút của tác giả, của sự hòa quyện giữa màu, nét, bố cục, mảng màu. Một nét riêng của
kỹ thuật vẽ lụa là họa sĩ có thể dùng nước rửa lụa. Cách vẽ lụa truyền thống yêu cầu họa sĩ phải kiên trì: màu được pha lỗng, sau đó nhuộm từng sợi vải, lớp
màu nọ chồng lên lớp màu kia sao cho màu ngấm, thẩm thấu kỹ vào từng thớ lụa. Sau khi bức tranh hồn thành, người vẽ có thể biểu lên giấy hoặc ghim lên
giấy không bồi.
      

        Trên nền lụa, mực nho hay thuốc nước là những chất liệu khá phù hợp khi kết hợp với nhau chi phối kỹ năng vẽ lụa. Chúng đều dễ hòa tan trong nước, tùy theo mức

độ nước mà trở thành những mảng đậm nhạt khác nhau trên nền lụa và có độ loang thấm sang nhau rất duyên, rất riêng mà mềm mại. Những mảng để sáng của lụa
thường nổi rõ các thớ lụa tạo độ sâu, độ chín cho những mảng màu bên cạnh và tạo cho tranh lụa vẻ trong trẻo, làm tăng thêm hiệu quả chất lượng của tranh. Đã có họa
sĩ dùng trắng điệp trong tranh dân gian làng Hồ để thay trắng của màu nước. Chất điệp óng ánh và xốp, tạo sự tương phản với nền lụa mịn màng. Như vậy dù đậm hay
nhạt, màu sắc không bao giờ che phủ hay đọng trên mặt lụa mà ngấm vào từng thớ sợi để lan tỏa, biểu hiện vẻ óng ả của nền lụa.


GIÁ TRỊ BIỂU ĐẠT CỦA TRANH LỤA
Ở tranh lụa, bản thân chất lụa đã rất mong manh, mịn màng. Mỗi bức tranh lụa mang vẻ đẹp hiền hòa nhưng cũng vô cùng phá cách và tinh tế. Tranh lụa Việt Nam mang tính chất mơ màng, tạo được chất riêng của người Việt Nam nói
riêng và người Á Đơng nói chung.




Việc vẽ tranh lụa hiển nhiên cũng phải tuân theo những quy luật bố cục
đã được đúc kết. Tuy nhiên mỗi chất liệu lại có đặc tính riêng và mỗi họa sĩ lại có
cảm xúc và cách nhìn riêng, tạo ra những cách bố cục đặc trưng.Thông thường
các họa sĩ ít dùng những khối nổi không gian của tự nhiên, ít sử dụng đến ánh
sáng như cách vẽ của sơn dầu. Người họa sĩ sáng tạo theo một không gian của
mình, có khi khơng nhờ đến một phối cảnh nào, hoặc chỉ gợi lên bằng cách sử
dụng những bộ phận của phối cảnh. Trong tương quan giữa người và phối cảnh,
có khi họa sĩ dùng sắc độ mạnh để nhấn vào người, cịn cảnh vẫn để ở sắc độ
trung bình hoặc làm nhẹ đi để tôn các nhân vật nhưng vẫn tạo ra sự thống nhất.
Có khi vật ở tiền cảnh được thể hiện mờ đi để tôn vật ở xa hơn mà vẫn không gây
xáo trộn về không gian. Sự vẽ rõ nét hoặc làm mờ nhòe đi trong tranh lụa được
xử lý theo chủ ý của họa sĩ bằng một tương quan hợp lý mà họa sĩ đặt ra, khiến
người xem có thể xem gần hay xa cũng được.



 Phải khẳng định một điều rằng, không gian trong tranh lụa phần nhiều
được tạo nên từ các mảng lụa trống. Điểm sáng tạo này chúng ta thấy nhiều ở
các bố cục của Việt Nam xưa như trong tranh dân gian, tranh thờ và cả phù điêu
cổ, mà ngày nay các họa sĩ Việt Nam đã khai thác và phát triển trong nhu cầu
muốn cô đọng và tập trung vào chủ đề. Trong trường hợp họa sĩ không dùng
phối cảnh, các mảng trống trong tranh trở thành một phần của bố cục. Họa sĩ
phải làm cho những mảng hình và mảng trống ăn ý, hòa hợp với nhau. Vai trò của
các mảng trống là làm tơn ý chính của tồn bộ bức tranh, tạo nên nhịp điệu cho
bố cục. Bên cạnh đó, bố cục cịn là tương quan của các mảng đậm, mảng sáng và
trung gian, có tranh dùng những mảng đậm làm điểm nhấn nhưng có tranh lại
nhấn vào những điểm thật sáng trên một hòa sắc đậm. Bố cục còn là sự sắp xếp
các mảng màu tạo ra một hịa sắc chung, trong đó, tạo điểm nhấn bằng sắc màu
ngược lại.



CHẤT LIỆU, DỤNG CỤ VÀ KỸ THUẬT VẼ
TRANH LỤA

Chất liệu

Dụng cụ

Kĩ thuật




Hiện nay, loại lụa mà các họa sĩ thường dùng để vẽ là lụa của làng Quan Phố, được dệt hoàn toàn bằng tơ tằm nên độ bền
chắc và thấm màu rất tốt.



Trước kia, họa sĩ thường dùng lụa Trung Quốc, một loại lụa có kết cấu sợi ngang dọc như nhau, do vậy khi vẽ, màu hịa với
nước có thể tạo sự mờ ảo, loang nhòe dễ dàng nhưng cảm giác về sắc nhị của màu bị mỏng và nông.



Mặt khác khi vẽ thường phải để lụa ẩm, nếu vẽ lúc nền lụa khơ thì gây cảm giác đanh cứng, đục và cặn vì mặt lụa quá mỏng

CHẤT
LIỆU

manh, độ hút nước, thấm màu có hạn. Do vậy, lụa Trung Quốc chỉ phù hợp với cách vẽ chấm phá quốc họa nhiều hơn, không
thể cọ rửa và nhuộm màu nhiều lần được.


Lụa dùng để vẽ ở Việt Nam thường sử dụng lụa tơ
tằm, có loại sợi mướt, nhỏ mịn, có loại thơ mộc tạo
nên những thớ khỏe khoắn, sù sì. Mỗi loại lụa sẽ
mang lại một hiệu quả khác nhau khi vẽ do độ ken
dày mỏng của thớ lụa. Trước kia, nhiều vùng nông



thôn dệt vải thủ công để phục vụ sinh hoạt, trong đó

Màu vẽ để vẽ lụa thường là màu nước, phẩm hoặc mực nho. Theo dân gian, màu vẽ trên lụa được chế từ những sản

có một loại gọi là vải sồi, dệt bằng tơ tằm thô, khổ

phẩm thiên nhiên, có sẵn và dễ kiếm, như màu đen từ tro than lá tre, màu xanh từ lá chàm, màu vàng từ nước hoa hòe

hẹp dùng để may áo, làm bao ruột tượng. Sồi cũng

(giã nhỏ hoa và lọc lấy nước cốt) hoặc từ cây gỗ vang, trắng từ điệp tán nhỏ. Những màu từ thiên nhiên này rất bền, sắc

được một số họa sĩ thử nghiệm vẽ, có một số nét mới

độ đằm chín tự nhiên nhưng kém phần tươi tắn so với màu nước hiện đại. Ngày nay, nhiều họa sĩ còn dùng những họa

lạ.

phẩm đục, dày hơn như tempera, màu bột, phấn màu,... để thử sức với lụa.



- Bút đi nét: Bút cán tre màu đen, lông mềm mỏng và có nhiều loại kích thước khác nhau phù hợp để đi nét.



Bút đi nét: Bút cán tre màu đen, lơng mềm mỏng và có nhiều loại kích thước khác nhau phù hợp để đi nét.



Bút vẽ loại trịn: Bút có lơng mềm nhưng to hơn theo kích cỡ. Bút này thường rất ngậm màu, đầu bút lại
mỏng chóp, rất thích hợp cho đi những chi tiết và vờ tả.





Bút vẽ loại bè: Đầu bút bè, lơng cứng hơn một chút,thích hợp vẽ các mảng phẳng và sử dụng khi vẽ lụa thưa.



Bút Banhxo: Bút to lơng cứng, dùng để vẽ những mảng lớn, và dùng để chuốt nước ấm khi vẽ.

Bút vẽ cọ màu: Khi vẽ hỏng, hoặc muốn lấy bớt màu ra trong một mảng màu đậm ta lấy bút sơn dầu đã sơ, lông cứng, dùng để cọ trong các mảng ta muốn rửa đi.

DỤNG CỤ





Công đoạn đầu tiên khi vẽ lụa là căng lụa lên khung sao cho thật đều tuy có thể để lụa khơ hoặc ẩm.




Khi thể hiện màu, họa sĩ có thể can hình lên bằng nét chì thật mảnh qua giấy can hoặc đặt bút vẽ thẳng lên lụa để
cảm xúc được tuôn trào qua nét bút. Vẻ đẹp của tác phẩm tùy theo cách sử dụng ngọn bút của tác giả, của sự hòa
quyện giữa màu, nét, bố cục, mảng màu.

Sau đó, họa sĩ hồ lụa bằng nước bột gạo có pha một chút phèn để khi vẽ, màu bám khơng bị loang. Có người bỏ qua
cơng đoạn hồ lụa, họ thích khai thác những nét nhịe, loang, tạo sự mơ màng của tác phẩm.

KỸ THUẬT

Một nét riêng của kỹ thuật vẽ lụa là họa sĩ có thể dùng nước rửa lụa. Cách vẽ lụa truyền thống yêu cầu họa sĩ phải kiên
trì: màu được pha lỗng, sau đó nhuộm từng sợi vải, lớp màu nọ chồng lên lớp màu kia sao cho màu ngấm, thẩm thấu
kỹ vào từng thớ lụa. Sau khi bức tranh hoàn thành, người vẽ có thể biểu lên giấy hoặc ghim lên giấy khơng bồi.
 

Khi vẽ lụa, người ta thường vẽ từ nhạt đến đậm, màu nhạt chồng lên nhau nhiều lần sẽ thành đậm nhưng vẫn nhìn thấy thớ lụa, tạo nên vẻ đẹp của chất lụa. Vẽ chồng lên nhau bằng các
màu khác nhau cũng là một cách pha màu. Thỉnh thoảng, khi màu đã khô, họa sĩ phải rửa nhẹ cho sạch những chất bẩn nổi lên mặt lụa và để cho màu ngấm vào từng thớ lụa.

Nghệ thuật đặt màu lên lụa cũng hết sức tinh tế và
chủ động vì khi lụa đã ngấm màu thì khơng thể
nào làm cho chúng sáng lại được nữa, khác hẳn
với sơn dầu hay bột màu, có thể dùng màu nọ
chồng lấp lên màu kia. Nhưng ưu thế lớn nhất của
tranh lụa chính là sự mềm mại, nhuần nhị, êm ả và
sâu lắng. Để tạo được hiệu quả như vậy, các họa
sĩ thường phải vẽ nhiều lần cho một mảng màu để
màu thấm vào từng thớ lụa. Nếu như trong kỹ
thuật sơn mài có phần việc mài sơn cũng được coi

là vẽ thì trong kỹ thuật tranh lụa,việc rửa lụa cũng
cần phải tính tốn kỹ.


CÁC HỌA SĨ
VIỆT NAM NỔI
TIẾNG VỚI
TRANH LỤA


Click icon to add picture
 

Tạ Thúc Bình chuyên về lụa và bột màu. Cái đẹp trong sáng nhiều ẩn
dụ của tranh lụa thấm vào ông qua con đường rất hàn lâm của hội
họa phương Tây mà ông được hấp thụ tại nhà trường tạo ra một
phong cách rất riêng biệt gần với cách nhìn bình đồ của tranh dân
gian. Tác phẩm của ông thường gắn liền với những sự kiện của đời
sống, cho dù có khắc nghiệt và gian khó đến đâu, ơng cũng ln
nhìn ra vẻ đẹp của người của cảnh. Những tác phẩm lớn của ông
cũng ở giai đoạn này, như những bức lụa khổ lớn: Góp thóc vào
Tranh lụa Góp thóc vào kho - Tác phẩm điển hình về sự điêu luyện trong bút pháp của họa sĩ Tạ Thúc Bình

 

kho, Mùa lúa chín, Mừng hội làng..., cùng những ký họa màu trên

Họa sĩ Tạ Thúc Bình sinh ngày 29 tháng 2 (nhuận) năm 1917 tại phủ
Lạng Thương (nay là TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang) trong một gia đình
đơng con có nền nếp gia phong, nhưng chỉ có một mình ơng theo

ngành mỹ thuật. Năm 1937, Tạ Thúc Bình tốt nghiệp Thành chung. Đi
làm được ba năm, năm 1940 ông quyết định thi vào Trường Cao đẳng

từng chặng đường. Góp thóc vào kho là một thí dụ điển hình về sự

Mỹ thuật Đơng Dương và vào học khóa 15 cùng lớp với các họa sĩ: Bùi

điêu luyện trong bút pháp Tạ Thúc Bình  cộng với cách bố cục hồn

19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, theo lời kêu gọi của Chủ

tồn Á Đơng theo đơn tuyến bình đồ, với tồn cảnh được nhìn từ
trên xuống. Với cống hiến cho mỹ thuật Việt Nam, ông đã được trao
tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.

Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Huỳnh Văn Gấm… Ngày

tịch Hồ Chí Minh, các văn nghệ sĩ lên đường tham gia kháng chiến.
Năm 1954, miền Bắc hồn tồn giải phóng, ơng là một trong những
người đầu tiên cùng với các họa sĩ: Trần Văn Cẩn, Trần Đình Thọ,
Phạm Gia Giang, Nguyễn Đức Nùng, Lương Xuân Nhị… tham gia
thành lập lại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (nay là Trường Đại
học Mỹ thuật Hà Nội). Ông là một trong những người thầy đầu tiên
giảng dạy tại ngôi trường này cho đến ngày nghỉ hưu và cũng là người
đã dành nhiều thời gian soạn chương trình Mỹ thuật dân gian vẫn cịn
sử dụng cho đến tận bây giờ.

Tác phẩm  Buổi sớm trong đầm



Click icon to add picture

Nguyễn Phan Chánh (1892-1984) là một trong những họa sĩ têu biểu cho nền hội họa Đơng Dương.
Ơng được coi là người chiết trung phương pháp tạo hình phương Tây và họa pháp tranh lụa phương
Đơng và là người đầu tên mang vinh quang về cho tranh lụa Việt Nam. Tên tuổi của ông luôn được

Bức "Người bán gạo" của danh họa
Nguyễn Phan Chánh được bán với
giá 3,03 triệu HKD (hơn 8 tỷ VND)
do Christie’s International tổ chức ở
Hồng Kông, được xem là giá bán kỷ
lục của tranh do họa sĩ Việt Nam vẽ

những người say mê hội họa nhắc đến với một niềm cảm phục và sự trân trọng đặc biệt.
Sở dĩ cứ nhắc đến tranh lụa, người ta lại nhắc đến Nguyễn Phan Chánh bởi ơng là người đã có cơng tìm
tịi, khai phá ra kỹ thuật vẽ tranh lụa hiện đại. Mặc dù tranh lụa đã xuất hiện tại Việt Nam từ thời nhà Lê
qua hai tác phẩm chân dung Nguyễn Trãi và chân dung Phùng Khắc Khoan, nhưng phải đến thời của
Nguyễn Phan Chánh, tranh lụa mới thực sự được biết đến. Ngắm nhìn tranh của ơng, người ta cảm thấy
sự nhẹ nhàng, bay bổng, trầm ấm nhưng vơ cùng thanh thốt. Cái tài của danh họa cịn được thể hiện ở
khơng gian nửa hư, nửa thực khiến cho người xem cảm giác “lạc lối” trong các tác phẩm.  Cả một đời,
ông là người chăm chỉ, bình dị và yêu cuộc sống. Vốn có năng khiếu bẩm sinh về hội hoạ, điều đó chẳng
những nâng đỡ tinh thần ơng mà nó cịn trực tiếp cùng ông kiếm kế sinh nhai, nét vẽ tài hoa của ông đã
để lại cho hậu thế một dịng tranh lụa dạt dào thấm đậm tính dân tộc.
 
Với những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Phan Chánh được mời tham gia giảng dạy Mỹ
thuật tại một số trường học như Trường Bưởi  và Trường Đại Học Mĩ Thuật Hà Nội, góp phần đào tạo
nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam sau này. Suốt cuộc đời làm nghệ thuật, Nguyễn Phan Chánh đã để lại một

Tên khai sinh: Nguyễn Phan Chánh
Bút hiệu: Hồng Nam


sự nghiệp đồ sộ với số lượng ước khoảng trên 170 tác phẩm. Ông là người đang giữ kỷ lục về số tác

Ngày sinh: 21 tháng 7, 1892 tại huyện Thạch Hà, tỉnh Hà

phẩm được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Tĩnh (nay thuộc thành phố Hà Tĩnh)
Ngày mất: 22 tháng 11, 1984 tại Hà Nội
Phong cách nghệ thuật: Chất liệu chính là lụa. Chủ đề
chính là người nông dân, đặc biệt là phụ nữ nông dân và trẻ
em
Tác phẩm chính: Chơi ơ ăn quan, Lên đồng, Em bé cho chim
ăn, Rửa rau cầu ao, Đi cày, Trốn tìm, Chim sổ lồng, Chị em
đùa cá, Trăng tỏ, Trăng lu, Chiều về tắm cho con, Sau giờ trực
chiến, Bát nước giải lao, Đi chống hạn, Đan mây, Bữa cơm
mùa thắng lợi, Tiên Dung và Chử Đồng Tử, Người bán gạo

Tác phẩm "Chơi ô ăn quan" được vẽ năm 1931 và  có lẽ là tác phẩm nổi tiếng nhất và được nhiều
người biết đến nhất của Họa sĩ Nguyễn Phan Chánh 


Click icon to add picture
 Năm 1933, ông đoạt được giải nhì cho hội họa do Hội
Nghệ sĩ quốc gia Pháp tổ chức với 3 tác phẩm "Bà thầy
bói", "Trên sân ga Montparnasse", "Thiếu nữ điểm
trang". Tranh ông được chọn triển lãm tại phòng số 1 một gian phòng dành cho những tài năng xuất sắc chọn
từ 5.000 họa sĩ các nước. Có hơn 40 tờ báo Pháp lúc bấy
giờ đã đề cập đến tác phẩm của ông (theo Đông Dương
tuần báo). Trong cuộc triển lãm Nghệ sĩ quốc gia Pháp

năm 1934, Bộ Văn hóa Pháp đã chọn mua ngay một bức
tranh "Trong gia đình" của ơng để treo ở Bảo tàng Mỹ

Tên khai sinh:  Lê Văn Đệ
Nghệ danh: Celso-Léon Lê Văn Đệ
Ngày sinh: 24 tháng 8, 1906 tại Mỏ Cày, Bến Tre

thuật Luxembourg. 

Ngày mất: 16 tháng 3, 1966 tại Sài Gịn

Giải nhì Hội họa của Hội Nghệ sĩ quốc gia Pháp 1933

Phong cách nghệ thuật: Tranh tranh lụa, tranh sơn dầu và bích họa

Giải nhất Hội họa Triển lãm Báo chí Cơng giáo Thế giới
1936

với khuynh hướng tân cổ điển
Tác phẩm chính: Bà thầy bói, Trên sân ga Montparnasse, Thiếu nữ
điểm trang, Trong gia đình, Thánh mẫu nhân từ, Thánh nữ Madeleine
dưới chân thánh giá, Thiếu nữ ngủ ngày.
Năm 1931, Lê Văn Đệ được học bổng của Hội SAMPIC sang học tại
Trường Cao đẳng Quốc gia Mỹ thuật Pháp ở Thủ đô Paris. Trong thời
gian học tại Paris, nhiều tác phẩm của ông đã gây được sự chú ý trong
giới nghệ thuật.

Tác phẩm “Trong Gia Đình” (1934) cũng có bố cục mẹ bồng con nằm võng và thêm nhiều nhân vật, đã triển lãm tại
Milan (Ý) và được Bộ Trưởng Thương Mại Pháp Lamoureux mua về để treo tại Viện Bảo Tàng Luxembourg



Click icon to add picture

 
Họa sỹ Nguyễn Tiến Chung là tài danh xuất sắc của hội
họa hiện đại Việt Nam của thế kỷ XX. Ơng tốt nghiệp
Trường Mỹ thuật Đơng Dương khóa XI (1935 - 1940) lúc
26 tuổi. Cùng bao thanh niên nghệ sỹ tài hoa bay bổng
như Nguyễn Gia Trí, Tơ Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn

MÙA GẶT 1970

Tên thật: Nguyễn Tiến Chung

Tường Lân... thời tiền chiến lãng mạn “Hồn bướm mơ

Ngày sinh: ngày 8 tháng 8 năm 1914

tiên”, ông rất thành công ở những bức vẽ thiếu nữ thị

Ngày mất: ngày 5 tháng 3 năm 1976

thành, yểu điệu, xinh tươi, tà áo dài bay lượn trên cánh

Phong cách nghệ thuật: Thường sáng tác về người nông dân,

đồng vàng rực, cảnh thần tiên mộng ảo hoa lá, mây

nông thôn, thiếu nữ, bộ đội, công nhân Việt Nam mang


chim, những ngơi chùa cơ tịch, hồi vọng về một quá

phong cách, bản sắc Á Đông

khứ xa xơi trong cổ tích.

Các tác phẩm chính: Được mùa (tranh lụa, 1958), Mùa gặt

 

(tranh lụa, 1962), Chợ Nhông (tranh khắc gỗ màu, 1958),
Hợp tác xã Tây Hồ (1964), Phong cảnh Sài Sơn (tranh khắc gỗ
màu, 1970), Nữ dân quân trao đổi kinh nghiệm bắn máy bay
(tranh sơn dầu, 1971)

Tác phẩm Được mùa, lụa, 1958


Click icon to add picture

Họa sĩ Lê Phổ được coi là họa sĩ bậc thầy Việt Nam và trên thế giới
theo trường phái hậu ấn tượng với nhiều tác phẩm đắt giá. Ơng cịn
được nhiều người gọi là "Danh họa Việt Nam trên đất Pháp". Nhiều
người khác cịn coi ơng là "cây đại thụ" trong làng nghệ thuật vẽ
tranh Việt Nam. Những tác phẩm của ơng thường có giá cao nhất

Lê Phổ: (1907-2001)

trên thị trường nghệ thuật thế giới đối với một họa sĩ Người Việt.
Bức tranh ''Những chú chim'' được mua với giá 625.000 đô la Hồng Kông (hơn 1,7 tỷ đồng)


Phần lớn các bức tranh của ông được bán đấu giá tại nhà đấu giá
nghệ thuật Christe’s Internatonal Hồng Kơng.
Tranh Lê Phổ giàu tính biểu cảm, đề tài và lối thể hiện vừa gần gũi, chân
thực, nhưng cũng rất đài các, cao sang. Màu tươi sáng, hấp dẫn thị giác

Tên khai sinh:  Lê Phổ
Ngày sinh: 2 tháng 8, 1907 tại Thanh Xuân, Hà
Nội
Ngày mất: 12 tháng 12, 2001 tại Pháp
Phong cách nghệ tht:  Chất liệu chính là

nên được phần đơng giới thưởng ngoạn u thích. Tranh của Lê Phổ có

sơn dầu và lụa. Chủ đề chính là hoa, phụ nữ mơ

“khí chất” Á Đông rất rõ, và riêng biệt, không bị trộn lẫn, nên được

màng, quý phái.

nhiều khách phương Tây sưu tầm. Ông đã vận dụng rất khéo các chủ đề

Tác phẩm chính: Hồi cố hương, Kim Vân Kiều,

phổ qt của văn hóa phương Tây - nhất là chủ đề từ kinh thánh, rồi

Bức rèm tím, Thiếu phụ, Thiếu nữ bên hoa lan,

lồng ghép vào khung cảnh Á Đông, hoặc Việt Nam.


Tĩnh vật, Paysage du Tonkin, Bình hoa mẫu đơn,
Lịng mẹ, Giai nhân màu áo nắng...

Bức “Nhìn từ đỉnh đồi” vẽ năm 1937 đạt mức giá 840.000 đô la Mỹ (~18,3 tỉ đồng) hôm 22/11/2014  trong cuộc bán đấu giá tại nhà đấu giá nghệ
thuật Christie’s International Hồng Kông. Đây là kỷ lục mới về tranh đắt nhất của một họa sĩ người Việt.


THANKS FOR WACTCHING



×