Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Vận dụng tư tưởng về con người trong di chúc của chủ tịch hồ chí minh để xây dựng chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.15 KB, 104 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN CƠNG LẬP

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ CON NGƯỜI
TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2011


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN CƠNG LẬP

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ CON NGƯỜI
TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

Chuyên ngành

: Hồ Chí Minh học

Mã số

: 60 31 27


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. LÊ VĂN TÍCH

HÀ NỘI - 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
chính xác, trung thực và có độ tin cậy. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.

Tác giả Luận văn

Nguyễn Cơng Lập


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI TRONG
DI CHÚC
1.1. Bối cảnh ra đời bản Di chúc lịch sử


7
7

1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
trong Di chúc

15

Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON
NGƯỜI TRONG DI CHÚC ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH
SÁCH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Các nhân tố tác động đến con người hiện nay

41
41

2.2. Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp
đổi mới
2.3. Các nhóm giải pháp

47
75

KẾT LUẬN

88

DANH MỤC CƠNG TRÌNH, BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ


91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

93


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến trình phát triển của nhân loại thể hiện ngày một rõ vị trí, vai trị
của nhân tố con người. Con người được đánh giá là nhân tố quyết định trong
các nguồn lực, là tài nguyên quý báu nhất của mỗi quốc gia, là động lực phát
triển của mọi xã hội. Vì vậy, phát triển con người phải là mục tiêu cao nhất
của tiến trình lịch sử nhân loại.
Là nhà cách mạng chuyên nghiệp, trong đó có gần 40 năm từ cương vị
sáng lập đến người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thực tế hóa hệ thống tư tưởng của mình và Đảng ta trong tiến trình
cách mạng Việt Nam từ đầu thập kỷ 30 đến hết thập kỷ 60 của thế kỷ XX.
Trong đó, trung tâm và cũng là mục tiêu của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tư
tưởng về con người - trước hết là con người Việt Nam bị áp bức, dân tộc, giai
cấp cần được giải phóng và phát triển tồn diện. Nói cách khác, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, con người được nhìn nhận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Tư tưởng ấy được thể hiện
trong hệ thống bài nói, bài viết và trong thực tiễn hoạt động cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và đặc biệt, trong Di chúc, một lần nữa Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định tồn bộ tư tưởng và trải nghiệm trọn cuộc đời cách mạng
của Người. Tư tưởng của Người đã trở thành giá trị của cái đẹp, của văn hóa,
của truyền thống nhân văn Việt Nam.

Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có tác dụng
quyết định đến sự thành công của cách mạng Việt Nam, của sự nghiệp giải
phóng triệt để con người và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng
đường lối và hoạch định chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta đối với


2
con người trong sự nghiệp đổi mới. Do vậy, quan điểm con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển - “con người là nguồn lực của mọi nguồn
lực” của Đảng ta cần được thể hiện trong chính sách xã hội nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của toàn dân, nhằm thực hiện mục tiêu cao cả của chủ
nghĩa xã hội là phát triển các năng lực sáng tạo của con người trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, chính sách xã hội của Đảng và
Nhà nước ta đã và đang đi vào cuộc sống, từng bước tích cực hóa nhân tố con
người nhờ giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Tuy vậy, công cuộc đổi
mới hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề xã hội, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần
hoạch định và tổ chức thực thi chính sách xã hội cho phù hợp với tình hình
mới, nhằm phát huy có hiệu quả nguồn lực con người, thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh” [27, tr.70].
Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người để xây dựng
chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới là một trong những vấn đề bức thiết
hiện nay cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan
trọng của chính sách xã hội đối với sự phát triển của con người, đề tài “Vận
dụng tư tưởng về con người trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để
xây dựng chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới” đang là vấn
đề cấp thiết cần được triển khai nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con

người được thể hiện xuyên suốt, nhất quán trong cuộc đời và sự nghiệp cách
mạng của Người. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính
sách xã hội được Đảng ta và nhiều nhà khoa học quan tâm.
Vì vậy, trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ
VI (1986) đến nay, Đảng ta đều xác định mục tiêu của chính sách xã hội thống


3
nhất với mục tiêu phát triển kinh tế là nhằm phát huy sức mạnh của con người.
Đặc biệt, Đại hội đại biểu của Đảng lần thứ XI (2011) vừa qua, Đảng ta tiếp tục
khẳng định chính sách xã hội phải vì hạnh phúc con người. Việc phát huy nhân
tố con người đối với sự phát triển xã hội: “Phát huy tối đa nhân tố con người;
coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”
[27, tr.100]; trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
cơng dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội coi đây
là tiền đề quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bàn về vấn đề con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển kinh tế - xã hội, trong cuốn “Vấn đề con người trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tác giả Phạm Minh Hạc (chủ nhiệm) đã đặt viên gạch đầu tiên cho
ngành khoa học về con người ở nước ta, coi con người là trung tâm của sự
phát triển, con người là giá trị của mọi giá trị.
Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tác giả Lê Sỹ Thắng (chủ biên) đã khẳng
định tư tưởng Hồ Chí Minh về con người ln là cơ sở cho việc hoạch định các
chính sách kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Tuy
vậy, cơng trình khơng đi sâu tìm hiểu các chính sách xã hội cụ thể mà dừng lại
ở việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho việc hoạch định các
chính sách ấy.

Trong cuốn “Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1993, tác giả Hồng Chí Bảo đã có nhiều
thành cơng trong nghiên cứu lý luận và phương pháp luận về chính sách xã
hội, khái niệm và nội dung của chính sách xã hội cũng như mối quan hệ giữa
chính sách xã hội với các chính sách khác.


4
Tác giả Lê Quang Hoan trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, đã phân tích những nội dung
cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và khẳng định sự cần thiết phải
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong cuốn “Về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh”, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2008, tác giả Thành Duy khẳng định chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh thực chất là sự kết tinh những giá trị của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản,
thấm đượm tinh thần dân tộc và tinh thần nhân loại trong sáng, cao cả.
Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tác giả Nguyễn Hữu Công chủ yếu bàn
về quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện và
khẳng định vai trị của nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa trong q trình hình
thành và phát triển con người tồn diện.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về chính sách xã hội cịn
được cơng bố trên các kỷ yếu Hội thảo khoa học về 35 năm, 40 năm thực hiện
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trên nhiều tạp chí khoa học. Nội dung
các bài viết đề cập sâu nhiều khía cạnh tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
chính sách đối với con người nói chung và người có cơng với cách mạng, về
chính sách xóa đói giảm nghèo,… của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Với góc độ tiếp cận khác nhau, tác giả đều đề cập vấn đề con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp đổi mới với tư cách vừa là mục tiêu,

vừa là động lực của sự phát triển xã hội, là trung tâm của các chính sách xã hội.
Tuy nhiên, do mục tiêu và đối tượng nghiên cứu mà các tác giả chưa đi sâu
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc và sự vận dụng


5
của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng, tổ chức thực thi chính sách xã
hội trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.
Kế thừa thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước nên tôi chọn vấn đề
“Vận dụng tư tưởng về con người trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
để xây dựng chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp cuối khóa của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Từ những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong
Di chúc, luận văn nghiên cứu làm rõ sự vận dụng quan điểm đó của Đảng và
Nhà nước trong việc xây dựng chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp
đổi mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tập trung làm rõ:
-

Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc.

-

Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh về con người trong Di chúc để xây dựng chính sách xã hội trong cơng
cuộc đổi mới hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc.
- Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc của
Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội ở nước
ta trong cơng cuộc đổi mới thơng qua các văn kiện, các chính sách đảm bảo
quyền lợi của con người các thành phần xã hội.
* Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề con người.


6
- Thực trạng con người Việt Nam sau hơn 40 năm thực hiện Di chúc và
những chính sách xã hội chủ yếu nhất, cơ bản nhất của Đảng và Nhà nước ta
đối với sự phát triển của con người Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử - lơgíc,
kết hợp phương pháp phân tích và tổng hợp,…
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc
để góp phần làm rõ giá trị to lớn tư tưởng đó đối với sự nghiệp xây dựng phát
triển con người tồn diện. Đồng thời, minh chứng tính đúng đắn và những hạn
chế của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định, xây dựng chính sách xã hội
ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu con người với tư cách vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng và ý nghĩa của việc xây dựng các chính sách
xã hội nhằm phát triển con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham

khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy mơn học tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


7
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI TRONG DI CHÚC
1.1. BỐI CẢNH RA ĐỜI BẢN DI CHÚC LỊCH SỬ

Năm 1965, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu khởi thảo bản Di chúc
cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang bước
vào giai đoạn gay go, ác liệt. Tháng 2- 1965, không quân Mỹ ồ ạt leo thang
đánh phá miền Bắc. Tháng 3- 1965, quân viễn chinh Mỹ bắt đầu đổ bộ vào Đà
Nẵng. Lịch sử lại đặt dân tộc ta trước một thử thách cực kỳ khó khăn, nghiêm
trọng. Hành động bắn phá miền Bắc của đế quốc Mỹ nhằm mục đích cứu
nguy cho sự thất bại nặng nề của chế độ ngụy quyền Sài Gịn trước những địn
tấn cơng của quân giải phóng. Chúng huyênh hoang tuyên bố ném bom miền
Bắc, hòng đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá. Nhiều thành phố, làng mạc ở
miền Bắc phải hứng chịu mưa bom bão đạn, bị tàn phá nặng nề. Nhưng đồng
bào hai miền Nam Bắc vẫn nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng đánh bại âm
mưu xâm lược của đế quốc Mỹ. Hậu phương lớn miền Bắc vẫn không ngừng
chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Còn miền Nam vẫn
hướng về miền Bắc, hướng về Bác Hồ và Trung ương Đảng, vững tin vào ngày
chiến thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những năm ấy tuổi đã cao, sức đã yếu
nhưng vẫn ngày đêm cùng Trung ương Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, vẫn
thương nhớ miền Nam, miền Nam luôn ở trong trái tim Người.
Từ những năm 50 của thế kỷ XX, quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Liên Xơ

và Trung Quốc góp phần tăng cường sức mạnh của các nước trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng từ đầu những năm 60, trước âm
mưu vươn lên làm bá chủ thế giới, Mỹ phô trương tiềm năng kinh tế, sức mạnh
quân sự bằng cách tăng cường can thiệp vũ trang vào nhiều quốc gia, khu vực;


8
thế giới đã xuất hiện nhiều cách đánh giá về sức mạnh, vai trò của Mỹ trên
trường quốc tế và theo đó là “thái độ” đối với Mỹ. Nhiều quốc gia thần phục
trước tiềm năng kinh tế, sức mạnh quân sự của Mỹ đã nảy sinh tâm lý sợ Mỹ. Họ
cho rằng, khơng nên chống Mỹ, vì có thể dẫn đến chiến tranh lớn. Ngay trong
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế cũng nảy sinh tình trạng đánh giá
khác nhau về Mỹ. Có người cho rằng “Mỹ là con hổ giấy!” nên dẫn đến thái độ
coi thường sức mạnh Mỹ, xa rời Tuyên bố Mátxcơva năm 1960 của Hội nghị các
Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế. Họ tự nêu định nghĩa nội dung thời đại là
“gió Đơng thổi bạt gió Tây!”. Số khác lại cho rằng, Mỹ là “con hổ giấy có răng
nanh nguyên tử!” và do vậy không nên chống Mỹ. Bởi lẽ, từ những cuộc chiến
khu vực có thể dẫn đến chiến tranh lớn, chiến tranh thế giới. Từ đó dẫn đến thái
độ thần phục Mỹ, sợ Mỹ, không ủng hộ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Cùng với nhiều nguyên nhân khác, tình hình trên đây đã dẫn đến
sự bất hòa trong phe xã hội chủ nghĩa, mà biểu hiện mâu thuẫn giữa Liên Xơ và
Trung Quốc là tiêu biểu.
Tình hình trên đây đặt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân Việt Nam trước sự bất lợi. Bởi lẽ, Liên Xô, Trung Quốc là hai nước lớn
trong phe xã hội chủ nghĩa đang là hai nước viện trợ lớn cho cuộc kháng chiến
của nhân dân ta. Nhưng nay hai nước nảy sinh bất đồng, vấn đề viện trợ quân
sự, sự giúp đỡ về đường lối kháng chiến của ta đặt trước những thử thách mới.
Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và Công nhân
quốc tế tại Mátxcơva tháng 11- 1960, khẳng định xu thế lớn mạnh của phong

trào cộng sản và công nhân quốc tế, ủng hộ đường lối “chung sống hịa bình
giữa hai hệ thống và phát triển phong trào cách mạng ở các nước thuộc hệ
thống tư bản chủ nghĩa là hai mặt khăng khích của cuộc đấu tranh hiện nay
của nhân dân thế giới…giữ vững và tăng cường sự đồn kết nhất trí giữa các


9
nước xã hội chủ nghĩa và giữa các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân các
nước,…” [19, tr.1038-1043].
Mặc dù vậy, “sự bất hịa” của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế,
trong đó giữa Đảng Cộng sản Liên Xơ và Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn
không được ngăn chặn. Cùng với những khó khăn của cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam, sự phân biệt của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế
nói trên đã “góp phần” làm sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày một yếu.
Trong bối cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì rèn luyện sức
khỏe và cùng Trung ương Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Đồng thời, Người bí mật
chuẩn bị cho “chuyến đi xa” của mình. Người biết rõ sức khỏe của mình, quy
luật khắt khe của tạo hóa. Vì vậy, tháng 5- 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt
đầu bí mật viết những dòng đầu tiên trong Di chúc, mà Người đặt dưới cái tên
cũng rất bình dị như những dịng viết khác trong cuộc đời hoạt động cách
mạng đầy gian lao, bí mật của mình là “Tuyệt đối bí mật”. Đây là bản gồm ba
trang, do chính Người đánh máy, phần cuối đề Hà Nội, ngày 15- 5- 1965,
dưới có chữ ký “Hồ Chí Minh” và bên trái có chữ ký của đồng chí “Lê Duẩn”
- “Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng chứng kiến”.
Trong tác phẩm “Bác Hồ viết Di chúc”, đồng chí Vũ Kỳ - Thư ký riêng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh kể lại cứ vào diệp tháng 5- 1966, 1967 Người đọc
lại, suy ngẫm, cân nhắc kỹ những điều đã viết ra trong “Tài liệu đặc biệt”
nhưng khơng có sửa chữa gì thêm và khơng có những bản viết riêng. Bởi
Người cịn suy nghĩ, cân nhắc mọi điều sẽ dặn lại cho chúng ta.

Bản Di chúc của Người cũng chứa đựng tình cảm bao la, bao qt tồn
bộ cuộc đời vì nước, vì dân, vì mỗi con người và tồn dân tộc Việt Nam.
Thơng thường, Di chúc là những điều “chắt lọc” của người sắp đi xa dặn
người ở lại: con cháu họ tộc về truyền thống họ tộc gia phong, về kinh


10
nghiệm, bài học cuộc đời, về dòng dõi họ mạc và sự phân chia tài sản cho con
cháu*. Nhưng với Chủ tịch Hồ Chí Minh - người “khơng có gia đình, cũng
khơng có con cái…khơng nhà cửa, khơng vợ, khơng con, nước Việt Nam là
đại gia đình của tơi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tơi. Phụ nữ Việt Nam
là chị em của tơi. Tơi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được
độc lập, thống nhất, dân chủ,…”[64, tr.40,171] trọn cuộc đời Người đã hy
sinh vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của mỗi người dân Việt
Nam. Mỗi từ ngữ trong “Tài liệu đặc biệt” đều là sự trăn trở, suy nghĩ vô cùng
kỹ lưỡng, là kết tinh sự lo toan cả cuộc đời cùng với khát vọng của từng
người dân Việt. Đó là lời dặn lại của người lãnh đạo cao nhất của dân tộc đối
với các thế hệ cách mạng, lời truyền lại của người cha với các thế hệ con
cháu, là phương án xây dựng lại đất nước sau ngày giải phóng. Vì vậy, sau
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968, thế trận miền Nam có
một số thay đổi và sức khỏe của Người càng yếu thêm, Người đã bổ sung
thêm một số đoạn, gồm sáu trang viết tay. Trong đó, Người viết lại đoạn mở
đầu và đoạn nói “về việc riêng” đã viết trong bản năm 1965, và viết thêm một
số đoạn. Đó là những đoạn nói về những việc cần làm sau khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như: chỉnh
đốn lại Đảng, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông
nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố và
làng mạc, khơi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố quốc phòng,
chuẩn bị thống nhất đất nước. Trong đó, đoạn viết về chỉnh đốn lại Đảng và
chăm sóc đối với thương binh, Người viết rồi lại gạch chéo; đoạn nói về xây

dựng lại đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, chuẩn bị thống nhất đất nước,
Người gạch dọc ở bên trái ngoài lề.
*

Theo từ điển bách khoa Việt Nam, Di chúc là một văn bản pháp luật dân sự của người từ 18 tuổi trở lên tự
nguyện lập trong khi cịn sống và minh mẫn, khơng bị lừa dối nhằm xử lý di sản hoặc các công việc khác và
phát sinh hiệu lực khi người đó chết.


11
Ngày 10- 5- 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉnh sửa và viết lại hoàn
chỉnh Di chúc.
Toàn văn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm bút tích đánh máy và
các trang viết tay chỉ cô đúc trong mấy trang giấy, nhưng đó là một tác phẩm
vơ cùng q giá vì nội dung tư tưởng cực kỳ lớn lao và phong phú. Bản Di
chúc chính là sự tổng kết một cuộc đời, một sự nghiệp của vị Chủ tịch kính
yêu của dân tộc. Với cách mạng và với Đảng, đó là cả một chặng đường chiến
đấu gian lao, trải qua những cuộc chiến tranh giải phóng, đánh bại hai tên đế
quốc lớn Pháp và Mỹ. Đó cịn là “bản thiết kế” xây dựng nước Việt Nam
thống nhất theo tinh thần đổi mới mang lại nhiều dân chủ, tự do, hạnh phúc
nhất của mỗi con người Việt Nam và là nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự
bền vững của độc lập dân tộc.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô giá kết tinh
những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ bản, những
quan điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, đúc kết những vấn đề có tính
nguyên lý của cách mạng Việt Nam và vạch ra phương hướng phát triển cho
cách mạng Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai. Những tư tưởng lớn
trong Di chúc được chắt lọc, được đúc kết bằng cả cuộc đời của một người
Việt Nam vĩ đại nhất, đã để lại những dấu tích sâu xa trong số phận của dân
tộc mình và quyết định rất nhiều số phận của dân tộc trong tương lai. Di chúc

đề cập đến hàng loạt vấn đề của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, những
nhiệm vụ trọng đại mà Đảng và nhân dân ta phải nỗ lực thực hiện ở thời điểm
bước ngoặt, những công việc cần giải quyết trong tương lai gần khi cách
mạng nước nhà sắp đến ngày toàn thắng. Di chúc cũng hướng tới một tương
lai xa với một niềm tin mãnh liệt vào sức sáng tạo của nhân dân và dân tộc,
vào triển vọng tốt đẹp của phong trào cách mạng thế giới. Đặt ra những vấn
đề như thế trong Di chúc, đó là sự thể hiện sức nghĩ, tầm nhìn và hành động


12
của một nhà tư tưởng với trí tuệ lớn và nhân cách lớn. Khẳng định giá trị của
bản Di chúc, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Bản Di chúc tuy
rất ngắn gọn, song nó chứa đựng biết bao giá trị tư tưởng và tình cảm, là sự
kết tinh của một đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đem lại sự đổi
đời của dân tộc Việt Nam ta, đồng thời để lại những di sản bất hữu với những
thế hệ mai sau”[31, tr.7]. Di chúc không chỉ thể hiện tầm cao tư tưởng mà còn
đặc sắc về phương pháp và phong cách, tất cả được kết hợp nhuần nhuyễn ở
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là một biểu tượng kiệt xuất về Văn hóa làm người,
một kiểu mẫu về Đạo làm người.
Có thể nói bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị như một
cương lĩnh chính trị xây dựng và phát triển đất nước mà Người đã để lại trước
lúc đi xa. Bản Di chúc đề cập đến nhiều phương diện, chứa đựng những giá trị
lý luận, thực tiễn sâu sắc, mang ý nghĩa nhân văn cao cả và giá trị lịch sử cho
muôn đời mai sau. Cùng với ý nghĩa nhân văn lớn lao, Di chúc đã trở thành
văn kiện quan trọng, một di sản vô giá của Đảng ta, dân tộc ta. Mỗi câu, mỗi
chữ trong “Tài liệu tuyệt đối bí mật” đều tốt lên nhân cách của một “cơng
bộc” phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Không dừng lại ở đó, Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là tài sản chung của cách mạng thế giới, của nhân
loại u tự do, hịa bình và tiến bộ trên khắp năm châu:
Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam đã phản ánh một sự hòa hợp

giữa mặt chủ quan của Chủ tịch Hồ Chí Minh với mặt khách quan
của phong trào cách mạng thế giới. Chính vì thế Bác Hồ cùng với
bản Di chúc của Người là thuộc về tất cả phong trào cộng sản, công
nhân và cách mạng trên thế giới. Người được liệt vào những bậc mà
thân thế và sự nghiệp đã vượt ra ngoài phạm vi biên giới của Tổ
quốc mình, và chính điều đó làm cho đối phương cũng phải kính
trọng [90, tr.66].


13
Nói đến Di chúc thì trước hết phải nói đến người viết ra nó. Con người
ấy có sức cảm hóa muôn người bởi trái tim nhân ái, vị tha, khoan hòa độ
lượng. Sự độ lượng vĩ đại ấy làm xúc động mn triệu người trên trái đất này.
Đó là con người suốt đời phấn đấu vì một lý tưởng cao đẹp, một chiến sĩ phấn
đấu không mệt mỏi trong suốt 60 năm vì những mục tiêu cao quý của dân tộc
Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ở tuổi 79, Chủ tịch
Hồ Chí Minh suốt đời hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân, dù phải từ biệt thế gian này, Người khơng cịn điều gì phải
hối hận, chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người là
nhà hoạt động cách mạng kiên cường, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn thử
thách, luôn chủ động và nắm bắt thời cơ để tiến đến đích, giành thắng lợi cuối
cùng. Nguồn gốc của sức mạnh này là con người Hồ Chí Minh với những
phẩm chất cao quý trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc, tinh
hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin, là niềm tin sâu
sắc vào sức mạnh to lớn của dân tộc và của con người Việt Nam. Do vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh ln xuất phát từ con người và cuối cùng trở về với con
người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người thể hiện đa dạng, phong phú trong
toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người. Tất cả đều tốt lên tình
thương u vơ hạn, thái độ bao dung và lòng tin yêu tuyệt đối của Người vào

con người. Nhận xét về tầm quan trọng của vấn đề con người trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định:
Tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ giải quyết mối tương quan
giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới là thực hay ảo ảnh,
khả tri hay bất khả tri, ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng
tạo mới lạ; mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con
người thật, đang sống trong quả đất này và chắc chắn còn sống lâu dài


14
đến vơ tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy nghĩ và chủ
đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó [38, tr.79].
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln u thương con người, đã khơng ngừng phấn
đấu, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng con người và luôn quan tâm đến mọi
đối tượng xã hội, mọi tầng lớp nhân dân. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh
khơng chỉ phản ánh khát vọng của con người mà quan trọng là hướng con
người đến hành động cách mạng để chinh phục thế giới, để giành lại hạnh
phúc mà con người cần có trong cuộc sống. Do vậy, chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh được gọi là chủ nghĩa nhân văn chiến đấu, chiến đấu cho mình,
chiến đấu cho đồng loại đau khổ, chiến đấu vì sự cơng bằng và nhân phẩm mà
con người cần có và đáng có, để đem lại cuộc sống đích thực với hạnh phúc
cho mọi người và vì mọi người. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói,
mỗi người chúng ta, ai cũng ở trong trái tim mênh mơng và tình thương yêu
bao la của Người. Bởi vậy, trong bản Di chúc lịch sử để lại cho toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta, khơng chỉ để lại “mn vàn tình thương u” cho
hết thảy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn căn dặn “Đầu tiên là công việc đối với
con người” [71, tr.503].
Con người trong Di chúc là sự tổng hợp nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người Việt Nam, là một nhiệm vụ quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ ra cho Đảng và Nhà nước ta cần phải làm cho con người Việt Nam sau khi

giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người trong Di chúc là sự tổng kết quan trọng về chủ nghĩa nhân văn mà
Người đã đúc kết trong quá trình hoạt động cách mạng của mình. Đây chính
là vấn đề cốt tủy, là hạt nhân, đồng thời cũng là mục tiêu cuối cùng, sâu thẳm
nhất trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh nói riêng.


15
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
TRONG DI CHÚC

1.2.1. Đầu tiên là công việc đối với con người
Cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn là quan điểm coi trọng nhân cách, phẩm
giá con người, thương yêu con người. Điều đó ở Chủ tịch Hồ Chí Minh thật
tồn diện và sâu sắc. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người ln là mục
tiêu quan trọng nhất và chi phối toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Không phải đến khi viết Di chúc Người mới đề cập đến con người.
Xuất dương tìm đường cứu nước từ thân phận của một người dân mất nước,
một người dân thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến nhiều nơi, sống chung
với nhiều người cùng cảnh ngộ, ở nhiều quốc gia, châu lục. Người đã tận mắt
chứng kiến bao cảnh thương tâm của kiếp người nô lệ, người cùng khổ trên
khắp thế giới. Người thấu hiểu sâu sắc về thân phận con người, quan niệm về
con người một cách rõ nét và định hướng đấu tranh vì con người. Dựa vào
quan điểm của ch sở quan trọng dẫn đường, soi
sáng sự nghiệp đổi mới đất nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, là nhân tố quan
trọng cấu thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động cho Đảng và
dân tộc ta. Nhờ đó, sự nghiệp đổi mới đã giành được nhiều thắng lợi, nhân
dân tin tưởng và đi theo Đảng.
Tuy nhiên, nhiều lúc, nhiều nơi chúng ta chưa chú ý đến việc nghiên

cứu, học tập, tun truyền như: thiếu tính hệ thống, khơng triệt để, nội dung
giáo dục, tuyên truyền không phù hợp với đối tượng,… Cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” bên cạnh những thành
cơng cịn nhiều hạn chế, yếu kém cần khắc phục: Việc triển khai Cuộc vận
động trong Ðảng và trong hệ thống chính trị chưa đều, hiệu quả chưa cao. Kết
quả chuyển biến nhận thức về Cuộc vận động trong mỗi cán bộ, đảng viên,
công chức chưa đồng đều. Kết quả làm theo tấm gương đạo đức Chủ tịch Hồ


76
Chí Minh ở một số nơi cịn chưa thật rõ nét; chưa tạo ra phong trào rộng lớn,
tự giác,… Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa X) nhận định: Kết quả
đạt được của Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” chưa đều khắp ở các cấp, các ngành và địa phương; những chuyển biến
trong việc làm theo cịn nhiều hạn chế.
Vì vậy, giải pháp đầu tiên phải kể đến là Đảng và Nhà nước cần tiếp tục
đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người và chính sách xã hội. Kết hợp Cuộc vận động xây dựng và chỉnh
đốn Đảng với cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, vận động học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phát huy dân chủ, tăng cường mở
rộng dân chủ trong đời sống xã hội. Cần nhận thức đúng đắn hơn nữa những
lời dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc về con người và mối quan
hệ của nó với chính sách xã hội và hệ quả của các chính sách xã hội do Đảng,
Nhà nước đề ra liên quan đến công cuộc đổi mới thế nào. Sao nhãng vấn đề
trên đây, sẽ không huy động được “lực lượng vĩ đại của toàn dân” để chiến
thắng trong “cuộc chiến đấu khổng lồ” như trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ.
2.3.1.2. Cần nhận thức đúng về vai trị của chính sách xã hội trong đổi mới
Các vấn đề xã hội có nội dung rất rộng và bao giờ cũng gắn với con
người. Do vậy, chính sách xã hội là một hệ thống chính sách về xã hội bao

quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống con người. Rõ ràng cùng với sự phát
triển kinh tế, chính sách xã hội có vai trị quan trọng đối với sự phát triển xã
hội. Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã nhận thức đúng đắn về sự phát triển của
xã hội phải dựa trên sự kết hợp giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.
Muốn phát triển kinh tế nhanh và bền vững phải lấy việc giải quyết các vấn đề


77
xã hội của con người làm mục tiêu, đến lược nó, các vấn đề xã hội của con
người sẽ là động lực cho sự phát triển kinh tế.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
chính sách xã hội được Đảng ta nhận thức theo quan điểm đổi mới và phát
triển. Đảng ta chỉ rõ: “Khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là
coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [20,
tr. 86]. Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to
lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo
đảm cơng bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài;
giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.
Như vậy, đối với nước ta, chính sách xã hội phải được xây dựng dựa trên
nền tảng lấy con người làm trung tâm. Bản chất của chính sách xã hội chính là
thực hiện cơng bằng và tiến bộ xã hội. Do đó, chính sách xã hội chính là các
chỉ báo cơ bản định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Muốn thực hiện mục tiêu vì con người và phục vụ cho lợi ích của con
người, chính sách xã hội phải là một bộ phận hợp thành chiến lược kinh tế xã hội. Trong lý luận cũng như trên thực tế, mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội phản ánh mối
quan hệ bản chất vốn có của chế độ ta. Tăng trưởng kinh tế tạo ra tiền đề vật
chất để thực hiện công bằng xã hội, ngược lại thực hiện tiến bộ và công bằng

xã hội lại là động lực cho sự phát triển kinh tế. Đây chính là cơ sở lý luận và
thực tiễn để chúng ta tiếp tục lựa chọn mơ hình phát triển của đất nước với tư


78
tưởng cơ bản là phải kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
ngay trong từng bước phát triển.
Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở thuận lợi để thực hiện các chính sách xã
hội. Việc giải quyết đúng đắn, hợp lý các chính sách xã hội góp phần làm ổn
định và phát triển xã hội. Trong cơ chế thị trường hiện nay, chính sách xã hội
một mặt góp phần điều hịa lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân
nhằm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, làm cho đất nước phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, chính sách xã hội đúng đắn cịn
là địn bẩy kích thích tính tích cực của lợi ích cá nhân, chuyển lợi ích cá nhân
thành động lực trực tiếp của sự phát triển. Do vậy, nhận thức đúng đắn về vai
trò của chính sách xã hội trong sự nghiệp đổi mới theo nguyên tắc công bằng,
dân chủ và nhân đạo sẽ là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển xã hội.
2.3.1.3. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
Tiến bộ và công bằng xã hội là tâm điểm của chính sách xã hội, là một
tiêu chí phản ánh bản chất chế độ xã hội. Công bằng xã hội là một phạm trù
lịch sử - cụ thể, mỗi xã hội khác nhau có những chuẩn mực khác nhau, chỉ
trong chủ nghĩa xã hội mới tạo ra những điều kiện cho công bằng xã hội được
thực hiện tốt nhất. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rằng chỉ
có trong chủ nghĩa xã hội mới tạo ra những tiền đề về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội để xóa bỏ bất công, thực hiện công bằng xã hội. Trước lúc đi xa,
Người căn dặn: “Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn
hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Rõ ràng trong tư
tưởng của Người, tăng trưởng kinh tế là tiền đề quyết định nhất để thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngày một tốt hơn.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện

nay, tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội có thể và cần


79
phải làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện vật
chất để thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội; đến lượt nó, thực hiện tốt tiến
bộ và công bằng xã hội lại trở thành động lực tinh thần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Khơng thể có tiến bộ và cơng bằng xã hội trên cơ sở một nền kinh tế
kém hiệu quả, chất lượng thấp. Do đó, trong mỗi bước đi, mỗi thời kỳ cụ thể
cần xác định đúng mức, hợp lý giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, sao cho hai mặt này không cản trở hoặc triệt
tiêu lẫn nhau mà hỗ trợ cho nhau, trở thành tiền đề của nhau.
Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội phải được
tiếp tục thực hiện ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Khơng
chờ đợi đến khi kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, càng không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để
chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Muốn vậy, mỗi chính sách kinh tế
đều phải hướng tới bảo đảm tiến bộ và cơng bằng xã hội; mỗi chính sách bảo
đảm tiến bộ và công bằng xã hội đều phải góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội phải tạo ra tiền đề và điều kiện cần thiết để mọi người
dân, nhất là những người thuộc các nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương, đều
được hưởng quyền bình đẳng về cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như
giáo dục, đào tạo, y tế, việc làm, bảo trợ xã hội,... để họ tự vươn lên và dần
dần cải thiện cuộc sống, đồng thời góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Mặt khác, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh
tế thị trường, đa sở hữu phải triệt để khắc phục những tàn dư của chế độ phân
phối bình quân, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất chấp chất lượng
hiệu quả sản xuất, kinh doanh và mức độ đóng góp, cống hiến của mỗi người



80
cho sự phát triển đất nước, như sai lầm trong thời kỳ bao cấp trước đây. Càng
không thể dồn mọi nguồn lực cho việc thực hiện các chính sách bảo đảm tiến
bộ và công bằng xã hội vượt quá khả năng mà nền kinh tế cho phép. Vì như
thế sẽ làm giảm những điều kiện cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
khiến cho kinh tế trì trệ, suy thối và rốt cuộc cũng khơng thực hiện được các
chính sách xã hội theo hướng tiến bộ và công bằng.
Những thành tựu bước đầu trong thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội trong những năm vừa qua chứng tỏ Đảng
Cộng sản Việt Nam đã hoạch định một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn,
phù hợp với hoàn cảnh của đất nước và có tính khả thi cao, nó đã và đang
phát huy tính tích cực đối với sự phát triển của đất nước, thể hiện tính ưu việt
của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Tóm lại, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và cơng bằng xã hội là
một địi hỏi tất yếu khách quan hiện nay ở nước ta để phát huy cao độ sức
mạnh vật chất và tinh thần của mỗi người cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
2.3.1.4. Xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, Nhà nước đóng vai trị nịng cốt,
đồng thời phát huy cao nhất mọi tiềm năng của từng cá nhân, cộng đồng và
toàn xã hội. Ở nước ta hiện nay, việc hoạch định và tổ chức thực hiện chính
sách xã hội từ giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển y tế,... cần
được tiến hành theo phương châm xã hội hóa.
Thực tế những năm qua cho thấy, vốn chi ngân sách cho các chương trình,
dự án là có hạn, vì vậy sự đóng góp của nhân dân, các tổ chức xã hội và tranh
thủ sự hỗ trợ ngoài nước là hết sức quan trọng. Huy động nguồn lực trong dân,
trong các tổ chức kinh tế, xã hội vào việc giải quyết các vấn đề xã hội là biện



81
pháp quan trọng để phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, tình
nghĩa, thủy chung trong cộng đồng để thực hiện tốt các chính sách xã hội. Xã hội
hóa việc thực hiện chính sách xã hội cịn góp phần xác lập những giá trị mới cho
mối quan hệ giữa người với người trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Phương châm xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội ở nước ta hoàn
toàn phù hợp với xu hướng mở rộng việc xã hội hóa và dân chủ hóa cơng tác
xã hội trong thế giới hiện đại trên cơ sở phát triển hệ thống mạng lưới các tổ
chức xã hội và phi chính phủ (NGO). Theo quan niệm quốc tế, việc huy động
các tổ chức xã hội và phi chính phủ tham gia vào thực hiện các chính sách xã
hội được đặt vào hệ thống các giải pháp quan trọng để đảm bảo tính khả thi
của chính sách. Bởi lẽ, chỉ có thơng qua các tổ chức của chính họ thì chính
sách xã hội mới đến đúng đối tượng và có hiệu quả. Đối với nước ta, việc
phát huy vai trò của các tổ chức xã hội còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị,
góp phần gắn bó quần chúng với tổ chức của mình và củng cố tổ chức ngày
càng vững mạnh. Do vậy, xã hội hóa việc thực hiện các chính sách xã hội là
bài học không thể thiếu được trong lãnh đạo thực hiện các chính sách xã hội
của Đảng và Nhà ta trong sự nghiệp đổi mới.
2.3.1.5. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
Thực tiễn của đời sống xã hội rất phong phú, đa dạng và luôn đặt ra
nhiều vấn đề xã hội bức bách cần giải quyết thông qua việc thực hiện các
chính sách xã hội. Ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể, việc hoạch định và tổ chức
thực thi chính sách xã hội vào cuộc sống cần được đẩy mạnh nghiên cứu cả
trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn nhằm phát hiện những mâu thuẫn và trở ngại trong việc thực hiện
chiến lược con người và chính sách xã hội để điều chỉnh sao cho phù hợp với
đà phát triển mới của đất nước. Nhiệm vụ này chúng ta khơng thể xem nhẹ vì



×