Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tải Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận - 12 bài văn mẫu Phân tích bài thơ Tràng giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.77 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích bài thơ Tràng Giang Ngữ văn 11</b>


Trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn
- nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ Thơ mới. Bài thơ Tràng giang (1939 - trích từ tập
Lửa thiêng) thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài; nỗi
cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa q hương mình. Bài thơ cịn thể hiện tình u đất
nước thầm kín của nhà thơ


Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang với âm
hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bao la, bát ngát hơn (tràng giang đại hải). Tác giả dùng
từ Hán - Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dịng sơng. Mở đầu bài thơ là cảnh sơng
nước:


Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song


Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.


Câu thơ đầu gợi tả cảnh dịng sơng mênh mang, những con sóng gợn lơ nhơ gối nhau tới
chân trời tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng sẵn nỗi buồn:
buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về trăm ngả: sầu trăm ngả.
Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính;


Xanh om cổ thụ trịn xoe tán.
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ.


(Thuyền đi)


Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành củi khơ chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát ngát
của dịng sơng: Củi một cành khơ lạc mấy dòng. Từ rừng thẳm, cành củi qua bao sông suối


mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng đến cảnh đời lạc lồi,
bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng bị dịng đời cuốn trơi không
biết về đâu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm nổi bật cảnh bát ngát, vô tận của dịng sơng và thân
phận lẻ loi, bé nhỏ của con người.


Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cơ đơn, lạc lồi trong cuộc đời
cũ. Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được mở rộng ra và đẩy
lên cao hơn.


Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót


Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu.


Cồn nhỏ đơn côi giữa dịng sơng, lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng hoang vu,
hiu hắt, chìm khuất. Dịng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ giữa sơng
chỉ cịn nhơ lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những thân phận bị dịng đời nhấn
chìm xô dạt.


Không gian mở rộng sang bên bờ: cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ, xa lìa..
Cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, q nhà nhưng chỉ là âm thanh xao xác rồi mất hút
dần trong cảnh mênh mang vắng lặng của dịng sơng. Dịng sông và. nhà thơ như bị tách ra
khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm thương nhớ cuộc sống quê
hương.


Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng: Nắng xuống trời lên sâu chót vót. Câu thơ
giàu hình tượng, gợi tả khơng gian có hình khối đường nét và màu sắc: từng vạt nắng trên


cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ sâu của bầu trời như ở ngọn
cót vót. Cách dùng từ sâu gợi khơng gian bầu trời như mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu
hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ
dường như vô tận, mênh mơng:


Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu.


Dịng sơng, bến bãi, đến bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ, buồn
vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống. Nhưng cảnh càng xuất hiện càng
lạc lõng, hờ hững:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Khơng cầu một chút niềm thân mật


Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.


Các sự vật được bên nhau: bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một thế
giới không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết của cuộc
sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định:


Mênh mơng khơng một chuyển dị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật.


Khơng một con đị, khơng một chiếc cầu tri âm, khơng có bóng người hay cái gì gợi đến
tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Chỉ có mặt nước mênh mơng vắng lặng.


Tới ngã ba sóng nước bốn bề,
Nửa chiều gà lạ gáy bên đê


(Em về nhà)


Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng cuộc sống. Nhà thơ đứng
ngay giữa quê hương mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát gắn bó với con
người, cuộc sống, với q hương:


Thuyền khơng giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm


(Đảo)
Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hơn kì vĩ nơi chân trời xa:


Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.


Lịng q dợn dợn vời con nước,
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ
Phủ) nhưng lại có vẻ đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm cho bức tranh
thêm sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh chim nhỏ như bị nắng
chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm cho khơng gian như có hình
khối, trọng lượng và thiên nhiên có vẻ như trĩu nặng nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mơng
lung xa vắng ấy càng gợi thêm lịng thương nhớ q hương:


Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.


Con sóng lịng nhớ q của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước cảm
thơng đã mang tình q mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thơng đã mang tình quê
mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:



Quê hương khuất bóng hồng hơn
Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai.


(Hồng Hạc Lâu)
Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, cịn Huy Cận khơng cần khói sóng vẫn nhớ q
hương. Vì mối tình ấy ln khắc khoải trong lịng. Đó là nguyên nhân chính của nỗi buồn
trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê hương khi đúng ngay giữa quê hương
mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm sao! Bài thơ kết thúc là cảnh hồng hơn trên sơng
nước và mở ra một tình q bát ngát.


Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi đau
cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gởi gắm vào đó một tấm lịng tha thiết yêu quê hương
đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt. Vì vậy, Xuân Diệu đánh giá: “Tràng giang là một
bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lịng u giang san, Tổ quốc”.
Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ
cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ khơng phải cái buồn vì cảnh tù
túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ. Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh,
giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến
tứ thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ Mới, thơ ơng có
một bản sắc và giọng điệu riêng, có chiều sâu xã hội cũng như triết lí. Thơ Huy Cận mang
một nỗi buồn sâu lắng, miên man, ảo não và thảm đạm; nỗi buồn của "đêm mưa", của
"người lữ thứ", nỗi buồn của "quán chật đèo cao", của "trời rộng sông dài". Tràng Giang là
một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác vào năm 1939, đăng lần đầu trên báo Ngày
nay, sau đó in vào tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ mang phong vị Đường thi khá rõ. Đây là bài
thơ được cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng gợi tứ. Huy Cận đã có lần tâm sự:
Tơi có thú vui thường chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm để ngoạn cảnh sông
Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông nước đẹp, gợi cho tôi nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ
khơng chỉ so sơng Hồng gợi cảm mà cịn mang cảm xúc chung về những dịng sơng khác


của q hương".


Lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" khái quát chủ đề của cả bài thơ là một nỗi
niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa đất trời mênh mơng, rộng lớn và bao la. Bài
thơ tốt lên vẻ đẹp vừa hiện đại, vừa cổ điển, cũng là một nét đặc trưng trong thơ của Huy
Cận.


Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước, khổ thơ đầu làm người đọc liên tưởng đến con sông
thăm thẳm chứa đựng biết bao nỗi buồn miên man


Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xi mái nước song song,


Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

liền với nhau, thế mà Huy Cận lại để chúng xa cách nhau "thuyền về nước lại" sao nghe
mà xót xa thế. Chính vì thế mà gợi lên trong lịng người một nỗi "sầu trăm ngả". Lượng từ
"trăm" kết hợp cùng chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ một nỗi buồn dài vơ tận, khơng có
điểm dừng.


Nỗi buồn ấy được trút hết vào câu thơ cuối "củi một cành khơ lạc mấy dịng", Huy Cận
đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện sự cô đơn, lạc lõng
trước cảnh sắc bao la, rộng lớn. "Một" gợi lên sự cô đơn, đơn chiếc, "cành khô: gợi lên sự
khơ héo, cạn kiệt nhựa sống, cịn lại thân xác trơ trụi, khô héo, "lạc"mang nỗi sầu vô đinh,
trôi nổi, khơng có định hướng trên "mấy dịng" là thể hiện sự chảy trơi một cách hư vơ.
Hình ảnh cành củi khô cứ trôi mãi trong vô định khiến người đọc cảm thấy trống vắng, cô
đơn đến lạ, thể hiện một kiếp người long đong, đang trôi dạt giữa cuộc sống bộn bề chật
chội.



Đến khổ thơ thứ hai dường như muốn đẩy nỗi hiu quạnh tăng lên gấp bội.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,


Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;


Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Sang khổ thơ thứ ba, tác gải muốn tìm sự ấm áp của đất trời mênh mông nhưng dường
như cảnh sắc thiên nhiên lại không như lòng người mong đợi


Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang.


Khơng cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.


Đọc khổ thơ thứu 3, người đọc cảm nhận một sự chuyển biến, vận động của thiên nhiên,
khơng cịn buồn rầu, u mê như những khổ thơ đầu và khổ thơ thứ 2. Từ “dạt” đã diễn tả
tinh tế sự chuyển biến của vạn vật thiên nhiên Tuy nhiên nó lại được gắn liền với hình ảnh
“bèo” mà “bèo” thì vốn vơ định, trơi nổi khắp nơi, khơng có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về
đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh
mơng khơng có một chuyến đị. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự
sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.


Đến khổ thơ cuối cùng, những cảm xúc, bút pháp của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm,
nét vẽ chấm phá dùng rất đắc điệu


Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.



Lịng q dợn dợn vời con nước,
Khơng khói hồng hôn cũng nhớ nhà


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Sang hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà nhớ, nhớ quê được tác giả bộc lộ một
cách rõ ràng, tất cả những tình ảm ấy nhà thơ chẳng biết gửi vào đâu mà chỉ biết chất chứa
đong đầy trong trái tim mình. Hai từ "dờn dợn" gợi nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng
trước cảnh hoang vắng của một chiều khi hồng hơn bng xuống. Câu thơ muốn nói lên
nỗi nhớ quê hương da diết của nahf thơ khi đứng trước sông nước rợn ngợp. “Khơng khói
hồng hơn” nghĩa là khơng một yếu tố ngoại cảnh nào tác động trực tiếp nhưng cảnh vật
vẫn gợi trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ quê cha đất tổ. Câu thơ cuối như bộc lộ tư tưởng,
tình cảm mà nhà thơ muốn gửi gắm xuyên suốt bài thơ. Lúc nào trong lòng Huy Cận cũng
mang một cái tình quê sâu đậm, một nỗi nhớ quê da diết khôn nguôi.


Tràng giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Bài thơ
“Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một
bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh. Qua đó khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc
của con người và một tình u q hương, mong ngóng về q hương chân thành, sâu sắc
của Huy Cận. Dưới hình thức một bài thơ mang đậm phong cách thơ Đường thi, kết cấu
mạch lạc và cái tài sáng tạo ngơn ngữ, hình ảnh của tác giả, bài thơ hiện lên như một bản
hòa ca mà ở đó, các nốt nhạc đều hợp sức tấu lên khúc ca yêu thiên nhiên, đất nước. Nhà
thơ Xuân Diệu đã viết :Tràng giang là một bài thơ ca non sơng đất nước, do đó dọn đường
cho lịng yêu giang sơn Tổ quốc".


Bài thơ "tràng giang" là bài thơ đặc sắc trong cuộc đời thơ ca của Huy Cận. Bài thơ là
sự kết hợp bút pháp hiện thực đan xen bút pháp cổ điển đã khắc họa một bức tranh thiên
nhiên u buồn, hiu quạnh, qua đó bộc lộ tâm trạng cơ liêu, đơn độc của con người và một
tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của nhà thơ. Bài thơ
"tràng giang" của Huy Cận đã để lại rất nhiều tình cảm, ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn
đọc.



<b>Bài làm 3</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng làm nên nét độc đáo riêng của mình. Huy Cận là
một nhà thơ xuất sắc với lời thơ đượm buồn một nỗi sầu nhân thế. Bài thơ “Tràng Giang”
là một bài thơ đắc sắc và thể hiện rõ nỗi sầu nhân thế của Huy Cận lúc bấy giờ.


Huy Cận là một trong số những nhà thơ mới trong giai đoạn 1930- 1945. Nếu như Xuân
Diệu say đắm trong trường tình thì Huy Cận lại chìm đắm trong nỗi sầu của nhân thế. Bài
thơ “Tràng Giang” là một bài thơ tiêu biểu và đặc sắc nhất được trích trong tập “Lửa
thiêng” (1940). Huy Cận sáng tác bài thơ khi đang đứng ở bờ Nam bến Chèm của sơng
Hồng, nhìn ngắm cảnh thiên thiên sơng nước suy ngẫm về cuộc đời mình mà “tức cảnh
sinh tình”. Bài thơ thể hiện sâu sắc vẻ đẹp thiên nhiên cũng như nỗi buồn nhân thế của tác
giả.


Ngay từ đầu bài thơ Huy Cận đã đưa chúng ta đến với một nét đẹp cổ điển mà ít ai có, chỉ
khi đến với Hay Cận chúng ta mới cảm nhận được. Đó là cách đặt tên nhan đề bài thơ,
“Tràng Giang” là sông lớn, sông dài. Nhưng tại sao ở đây tác giả không dùng “Trường
Giang” mà lại là “Tràng Giang”? “Tràng Giang” điệp vần “ang” tạo nên một âm thanh
vang xa, đồng thời cũng thể hiện một nỗi buồn trải dài xuyên suốt cả bài thơ. “Buâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài” lời đề từ cũng đã mở rộng ra trước mắt chúng ta một không
gian rộng lớn “trời rộng, sông dài”, một nỗi buồn da diết “buâng khuâng”.


“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

giữa thuyền và nước: “thuyền về” còn “nước lại” gọi sự chia ly, sự xa cách hững hờ. Tâm
trạng của thi nhân được bộc lộ rõ nét nhất qua câu thơ cuối cùng: “Củi một cành khơ lạc


mấy dịng” . “Củi” là một hình ảnh nhỏ bé, mong manh vậy mà lại lênh đênh vô định giữa
một không gian rộng lớn của sông nước không biết sẽ trôi dạt về đâu. “Củi” đã bé nay lại
càng nhỏ bé hơn khi kết hợp với số từ “một” tác giả như muốn nhấn mạnh thân phận bé
nhỏ của chính bản thân mình trơi nổi mênh mơng giữa dịng đời. Một nỗi buồn cơ đơn về
thời thế.


Nỗi buồn của thi nhân càng được tăng thêm, càng được đẩy đến đỉnh điểm khi đến với khổ
thơ thứ hai:


“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sơng dài, trời rộng bến cơ liêu”.


Bức tranh thiên nhiên sơng nước ấy có phần tăng thêm sức sồng khi có thêm những “cồn
nhỏ”. Những gị đất nổi lên giữa lịng sơng ấy lại chỉ “lơ thơ” thưa thớt gợi lên một sự đơn
sơ, hoang vắng, “đìu hiu” cơ quạnh khi những làn gió thổi qua. Những cơn gió khơng ồn
ào mà chỉ “đìu hiu” làm cho nỗi buồn của thi nhân như được nhân lên khi đứng trước một
không gian tiêu điều.


Chợt có đâu đây có tiếng “chợ chiều”. “Chợ” là nơi mà khi đến đó ta biết được cuộc sống
nơi đây có ấm no sầm uất hay khơng. “Đâu” gợi cho chúng ta cảm giác mơ hồ không biết
có phải là có âm thanh đó hay khơng, tác giả cũng chỉ nghe thấy cảm nhận thấy chứ không
được nhìn thấy. Âm thanh ấy cũng mờ mờ ảo ảo, vừa thực mà vừa hư. Tưởng chừng như
âm thanh xuất hiện làm con người thêm vui nhưng chính nó lại khiến tác giả thêm cơ đơn,
lẻ lõi trên chính mảnh đất q hương mình.


“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sơng dài trời rộng bến cô liêu”



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Đây là cảm nhận mà chỉ khi đến với con người hiện đại chúng ta mới thấy mới cảm nhận
được. Không gian không chỉ được mở rộng theo chiều rộng, chiều cao mà còn theo chiều
sâu. Nắng càng xuống thấp, trời càng trở nên cao hơn ngả bóng xuống lịng sơng sâu “chót
vót”. Tác giả đã sử dụng từ rất đặc biệt, khơng phải cao “chót vót” mà là “sâu chót vót”
vừa tả được độ cao cũng vừa cảm nhận được độ cao ấy. Con người trở nên bó nhỏ cơ đơn
trước vũ trụ bao la vô tận… “Sông dài, trời rộng” cảnh vật càng rộng lớn, kì vĩ bao nhiêu
thì con người càng bé nhỏ bấy nhiêu với hình ảnh “bến cơ liêu”- bến đã nhỏ lại cịn hiu
quạnh. Con người camt hấy bé nhỏ hơn bao giờ hết.


“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng


Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật


Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”


Đến đây, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh những cánh bèo gợi sự
tan tác chia ly, những cánh bèo trôi “hàng nối hàng” vô định không biết trôi dạt về nơi đâu.
Đây cũng chính là số phận của những kiếp người nhỏ bé, cô đơn với một cuộc sống bấp
bênh. Giữa không gian “mênh mơng” rộng lớn, thi nhân cố kiếm tìm một niềm vui nhưng
“khơng một chuyến đị ngang” khơng có hình bóng cuộc sống của con người. “Khơng cầu
gợi chút niềm thân mật” khơng có được sự chia sẻ của tình người, tình đời. Điệp từ
“khơng” như càng làm tăng thêm sự buồn bã cơ đơn, chỉ có “bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ có
một mình thi nhân với thiên nhiên quạnh hiu.Một lần nữa không gian lại được đẩy đến sự
tận cùng của sự hoang vắng, cô liêu.


Thi nhân mở rộng thêm tầm nhìn của mình, khơng cịn khơng gian ở tầm thấp nữa mà được
nhìn với tầm cao, tầm xa:


“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc



Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều xa
Lịng q dợn dợn vời con nước,
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà”


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

một đàn chim mà chỉ duy nhất có một cánh chim lạc đàn nhỏ bé đơn cơi “nghiêng cánh
nhỏ” dưới “bóng chiều sa”. Cánh chim ấy cô đơn, lạc lõng, nỗi buồn như càng đè nặng lên
đôi cánh giữa bầu trời rộng thênh thanh. Nhiên nhiên ở khổ thơ được vẽ ra là một thiên
nhiên hung vĩ, tráng lệ không giống với thiên nhiên ở các khổ trước hiu quạnh, vắng lặng.
“Lòng q dợn dợn vờn con nước


Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà”


“Lịng q” hay chính là tình u thiên nhiên đất nước mà nhà thơ muốn gửi gắm, nó cuộn
trào lên “dợn dợn” như sóng nước mênh mơng. Tình u q hương bất tận, chống ngợp
như chính con sơng “Trường Giang” vậy. “Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhớ”, những
người con xa quê hương chỉ cần một hình ảnh nhỏ thơi cũng làm họ gợi nhớ đến q
hương mình. Bóng chiều đã ngả đây là lúc con người ta nhiều tâm trạng nhiều cảm xúc
nhất, nếu như Thơi Hiệu nhìn thấy khói hồng hơn thì nhớ nhà “Q hương khuất bóng
hồng hơn/ Trên sơng khói song cho buồn lịng ai” thì đến với Huy Cận ơng khơng cần
nhìn thấy “khói hồng hơn” nhưng vẫn nhớ tới nhà da diết. Đây là sự sáng tạo độc đáo của
Huy Cận trong thơ mới.


Bài thơ “Tràng Giang” đã vẽ trước mắt ta những một bức tranh hùng vĩ, với cách nhìn độc
đáo vừa gần vừa xa, vừa cao vừa sâu, nhưng bao chùm khơng gian ấy là một nỗi buồn. Đó
khơng chỉ là nỗi buồn cơ đơn lẻ loi của chính tác giả mà còn là nỗi buồn của một thế hệ khi
phải sống trong cảnh nước mất nhà tan. Bức tranh mà Huy Cận tạo nên với những hình ảnh
gần gũi như sông nước bến thuyền vừa mang một vẻ đẹp vừa cổ kính vừa hiện đại. Điều đó
đã tơ đậm thêm sự độc đáo trong thơ của Huy Cận.



</div>

<!--links-->

×