Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.04 KB, 2 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề bài: Bình giảng bài Thu vịnh để thấy được chân dung của nhân vật trữ</b>
<b>tình</b>
<b>Bài làm</b>
Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà
trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu. Thu
điếu, Thu vịnh, Thu ẩm (Xuân Diệu). Trong ba kiệt tác ấy, Thu vịnh dường
như có thần hơn cả. Bài thơ khơng chỉ là một minh chứng về tài năng mà còn
mang đậm hình ảnh Nguyễn Khuyến với những băn khoăn, trăn trở đáng trọng.
Trăn trở ấy hiện ngay trong câu thơ đầu tiên. Trời thu xanh ngắt mấy từng cao
Có phải vơ tình chăng khi cả ba bài thơ mùa thu của cụ, da trời đều mang màu
“xanh ngắt”? Xanh ngắt chứ không phải xanh lơ, xanh dịu hay xanh lục. Chỉ
riêng mấy tiếng “mấy từng cao” đã thấy một độ cao khá lớn.
Nhưng khi bàn tay Nguyễn Khuyến tô vẽ cho da trời một màu “xanh ngắt” thì
trời thu như bị đẩy lên cao hơn, xa hơn, chẳng dừng lại ở mấy tầng nữa mà gấp
bội lần như thế. Đến câu thơ sau: Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu Câu thơ vẻn vẹn
bảy âm tiết mà đã có tới hai từ láy song vẫn không hề thúc ép, gượng gạo “lơ
phơ” là một từ láy chỉ số lượng chẳng mấy đơng đúc, thậm chí rất thưa thớt, vả
chăng, khi thu sang, thân măng đã thành thân tre, có hình cong như cần câu và
lá hãy cịn thựa thớt lắm. Không chỉ mô tả được dáng điệu của sự vật, từ láy
này còn gợi cả một chuyển động, dù rất nhỏ – nếu khơng tinh mắt, thì khó mà
phát hiện ra. Ngay đến gió thu cũng chi “hắt hiu” chứ khơng phải là cơn gió
mạnh mẽ căng đầy nhựa sống, cũng khơng phải là cơn gió lay lắt cuối mùa.
Hơi “gió hắt hiu” gợi một cảm giác buồn sầu thanh nhẹ, ngắm dần vào con
người. Và khi đã ngắm rồi thì buồn và sầu sẽ bị đẩy lên tới đỉnh điểm. Câu thơ
đầu tiên đã tạo được một ấn tượng mạnh mẽ từ màu “xanh ngắt” thì đến câu
thứ ba, một lần nữa, ấn tượng ấy lại được khắc họa: Nước biếc trơng như từng
khói phủ. Đáng chú ý là sự xuất hiện hình ảnh so sánh đầu tiên và duy nhất
trong bài thơ. So sánh, không phải để cụ thể hóa đối tượng, sự vật mà để cho nó
Do vậy, cảnh thu như nhiều hơn là thực. Có trời, có nước, có trúc và bây giờ
đến trăng: Song thưa để mặc bóng trăng vào Ngỡ là thêm sự vật thì bức tranh
thu sẽ trở nên đông đúc, rộn rã hơn. Nào ngờ càng thêm vào thì cái lạnh lẽo
đơn độc càng tăng lên gấp bội. Lúc này, trăng không khơi gợi được cảm xúc
của thi nhân cũng tỏ ra hờ hững với trăng nên mới “để mặc”. Hờ hững với
trăng hay là còn hờ hững cả với đời nữa vậy? Đúng! vẫn chưa rõ duyên cớ.
Song tôi chắc chắn rằng nỗi buồn của Nguyễn Khuyến chưa đến mức tuyệt
vọng, bởi nếu tuyệt vọng thì cụ cịn nhìn cảnh âu sầu hơn thế rất nhiều. Tâm
trạng của cụ Tam Nguyên lúc này vui thì khơng vui mà tuyệt cùng khơng phải
là tuyệt vọng.
nước nào? Chỉ trong khoảng thời gian năm ngoái đến năm nay đã xảy ra những
biến cố gì để thi nhân phải quay về cảm xúc trong “hoa năm ngối” và xót xa
trước tiếng “ngỗng nước nào”? “Một tiếng trên không ngỗng nước nào” là một
câu hỏi hoài nghi song cũng là một câu trả lời chắc chắn. Thế mới đau, thế mới
uất, mới rầu…
Âm thanh duy nhất của bài thơ cất lên không chút rộn rã đà đành, lại chỉ duy
nhất “một tiếng” và đặt vào chú “ngỗng nước nào” thì u hồi, lạc lõng biết bao
nhiêu. Mà tồn bộ bài thơ, hình như cái gì cũng ít ỏi: trúc thì “lơ phơ”, song thì
“thưa”, hoa thì “mấy chùm”, ngỗng thì “một tiếng”… Lạ! Vì mải mê suy nghĩ
mà hững hờ với cảnh hay đấy chỉ là những âm thanh, sự vật của tâm tưởng, của
cảm giác? Dù sao những sự vật đó đều tạo cho bài thơ một khơng gian lí tưởng
để con người tự đối diện với chính mình mà giãi bày tâm sự. Cho vơi bớt đi
chăng? Có lẽ càng giãi bày bao nhiêu thì nỗi niềm ấy càng hun đúc lại bấy
nhiêu; bởi làm gì có tri âm mà giãi bày giữa cõi đời ô trọc này? Tất cả vẫn chỉ
là cảnh, bóng dáng con người chỉ thấy rõ nét nhất trong hai câu kết: Nhân hứng
cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. Song lại là con người vơ