Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Tải Cảm nhận của em về thơ khi đọc “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi - 2 bài văn mẫu lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.18 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Cảm nhận của em về thơ khi đọc “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn</b>
<b>Đình Thi Ngữ văn 12</b>


<b>Bài làm</b>


Phần đầu bài tiểu luận, Nguyễn Đình Thi đã nhắc lại một số định nghĩa về thơ,
một số quan niệm về thơ từng được lưu truyền như: thơ là những lời đẹp, thơ là
ở những đề tài đẹp, thơ in sâu vào trí nhớ, đầu mối của thơ là ở bên trong tâm
hồn con người,…


Tác giả vừa nhắc lại định nghĩa về thơ vừa tranh biện. Nhắc lại câu thơ Nguyễn
Du tả Tú Bà, thơ Hồ Xn Hương “nơ na…” để trên cơ sở đó, tác giả bác bỏ ý
kiến cho rằng “thơ là những lời đẹp”.


Cho rằng thơ là những đề tài đẹp, Nguyễn Đình Thi đưa ra bài thơ của
Bô-đơ-le nhà thơ Pháp tả cái xác chó chết đầy giịi bọ, nêu lên cái ba lơ, cái khẩu súng,
bóng dây thép gai hung ác của đồn giặc trong thơ kháng chiến để phản bác lại.
Bảo rằng thơ “in sâu vào trí nhớ”, tác giả nêu câu hỏi tại sao, những cơng thức
tốn học không phải là thơ mà ta lại rất nhớ.


Phần tiếp theo, Nguyễn Đình Thi đưa ra một vài ý nghĩ về thơ: làm thơ để thể
hiện một trạng thái tâm lý đang rung chuyển khác thường; làm thơ là đang sống
khi tâm hồn đang rung động. Bài thơ làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi
niềm trong lịng người đọc; bài thơ là sợi dây chuyền tình cảm cho người đọc.
Thơ là tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống. Thơ phải
có tư tưởng, có ý thức, nhưng tư tưởng của thơ nằm ngay trong cảm xúc, tình
tự, v.v…


Chung quy lại: thơ là tiếng nói của tâm hồn, là tư tưởng, tình cảm của con
người. Tác giả nói hơi dài và văn hoa về những điều trên đây. Có lúc người đọc
cảm thấy lối diễn đạt hơi cầu kỳ rắc rối. Trong bài tựa Cùng bạn đọc (tác phẩm


Thơ Sóng Hồng), Sóng Hồng viết một cách giản dị mà sâu sắc về bản chất của
thơ, mà trong chúng ta nhiều người đã được đọc. Mọi chân lý đều giản dị. Cần
phải nói một cách giản dị mới dễ đi vào lịng người.


Sau đó, tác giả nói về một số đặc trưng của thơ: hình ảnh trong thơ, câu chữ
trong thơ, nhạc của thơ, đường đi của thơ, tính hàm súc của thơ.


Hình ảnh thơ khơng phải là hình ảnh cầu kỳ, trái lại, phải là hình ảnh thực nảy
lên trong tâm hồn. Người làm thơ lượm những tia lửa ấy (tia lửa sự sống trong
tâm hồn) rồi “kết nên một bó sáng, nó là hình ảnh thơ”. “Thơ là nơi tư tưởng,
tình tự quấn quýt với hình ảnh như hồn với xác để tạo ra cái biết tồn thể, biết
bằng cả tâm hồn, khơng phải chỉ biết bằng ý niệm, bằng ý thức”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nguyên mà nhà thơ tìm thấy, bao giờ cũng mới mẻ, đột ngột lạ lùng”. “Hình
ảnh của thơ vừa làm ta ngạc nhiên, vừa đã quen với chúng ta tự bao giờ”.
Chữ và tiếng trong thơ phải hình tượng, hàm súc, biểu cảm và đa nghĩa.


Nói về tính hình tượng, hàm súc, biểu cảm, đa nghĩa của ngôn ngữ thơ, tác giả
viết: “Chữ và tiếng trong thơ; phải còn có một giá trị khác, ngồi giá trị ý
niệm”. Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngồi các nghĩa của nó,
ngồi cơng dụng gọi lên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung
quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh khơng ngờ, tỏa ra xung quanh nó
một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của thơ là ở sức gợi ấy.


Thi tại ngôn ngoại, thơ đa nghĩa và hàm súc là vẻ đẹp của thơ: Nguyễn Đình
Thi đã dùng hình ảnh ngọn nến để nói lên đặc trưng ấy của thơ. “Mỗi chữ như
một ngọn nến đang cháy, những ngọn nến ấy xếp lên nhau thành một vùng
sáng chung. Ánh sáng không những ở đầu ngọn nến, nó ở tất cả xung quanh
những ngọn nến. Ý thơ không những trong những chữ, nó vây bọc xung
quanh”.



Thơ mang tính biểu cảm, nên “đường đi của thơ là con đường đưa thẳng vào
tình cảm, khơng quanh co, qua những chặng, những trung gian, những cột cây
số”.


Ngôn ngữ thơ hàm súc, “thơ là tổng hợp, kết tinh”; thơ “luôn ln địi hỏi sự
tồn bích”.


Thơ tự do và thơ khơng vần


Nguyễn Đình Thi cho biết những luật lệ của thơ, từ âm điệu, đến vần, đều là
những vũ khí rất mạnh trong tay người làm thơ. Nếu thiếu vũ khí ấy “trận đánh
gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng”. (Phải là thiên tài
mới có thể thắng!). Tác giả cho rằng: “Khơng có vấn đề thơ tự do, thơ có vần
và thơ khơng vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và thơ không hay, thơ
khơng thơ”. Phải để cho nhà thơ “tìm tịi, thử thách”, “một thời đại mới của
nghệ thuật thường bao giờ cũng tạo ra một hình thức thơ mới”.


Bên cạnh những ý tưởng đúng đắn về chất lượng thơ, sự đổi mới thơ, ta còn
băn khoăn về điều tác giả nói như đinh đóng cột: “Khơng có vấn đề thơ tự do,
thơ có vần và thơ khơng có vần”. Đọc thơ Việt hiện nay, ta càng thấy ý kiến ấy
không thuyết phục.


Thơ phải sáng tạo nhưng không thể buông thả, bừa bãi. Những bài thơ tục tĩu
hoặc nói lãng nhăng tầm phào mà ta thường thấy trên báo chí hiện nay đã làm
cho “thơ phản thơ”, làm cho độc giả quay lưng lại với thơ! Hành trình của thơ
Việt cịn cần rất nhiều những nhà thơ tài năng, lỗi lạc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

một cách viết tài hoa, cảm xúc dào dạt. Cầu kỳ và lan man, sa đà là phần hạn
chế, nhất là khi tác giả nói về bản chất của thơ, ngơn ngữ thơ, hình tượng thơ,


tính biểu cảm, tính hàm súc, đa nghĩa của thơ. Một số so sánh của tác giả nêu
lên có lúc làm cho lí lẽ thêm rối.


Thơ Việt từ năm 1945 đến nay đã có nhiều thành tựu và đang trên đà đổi mới.
Lý luận về thơ cũng không dừng lại cái hôm qua đã có, đã bàn luận. Khiếu
thẩm mỹ của độc giả ngày nay khơng cịn đơn giản nữa; các nhà làm thơ, các
nhà lí luận phê bình thơ cần biết rõ sự thật ấy. “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn
Đình Thi như một tiếng nói tâm tình, chúng ta đón đọc với tình cảm trân trọng.
<b> Bài làm 2</b>


Nguyễn Đình Thi (1924-2003) tại Luông Pha Băng (Lào) quê gốc ở Hà Nội,
Việt Nam. Thủa nhỏ, ơng sống cùng gia đình tại Lào đến năm 1931 mới trở lại
Việt Nam cùng gia đình. Năm 1941, ơng tham gia hoạt động cách mạng và giữ
nhiều trọng trách quan trọng trong Hội Văn học – Nghệ thuật sau này là Hội
nhà văn Việt Nam. Nhắc đến Nguyễn Đình Thi là nhắc đến một người nghệ sĩ
đa tài, một nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học lỗi lạc. Ở lĩnh vực nào ông
cũng để lại những đóng góp đáng nghi nhận cho hậu thể. Trong số đó phải kể
đếnn tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ” là một trong những tác phẩm để đời của
Nguyễn Đình Thi.


Tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ” của Nguyễn Đình Thi được viết ngày 12-9-1949
tại Hội nghị tranh luận văn nghệ diễn ra ở Việt Bắc. Tác phẩm sau này được
đưa vào tập “Mấy vấn đề về văn học” của ông. Trong bài tiểu luận, ông muốn
hướng tới một định nghĩa khác về thơ, gợi mở một chân trời sáng tạo mới cho
nhà thơ Việt Nam vào những năm cuối của thập niên 40, thế kỉ XX. Đây là bài
phát biểu về quan niệm thơ ca thực sự có giá trị mà đến bây giờ người ta vẫn
nhắc đến khi đề cập đến vấn đề cách tân thơ ca.


Ngay từ phần đầu bài tiểu luận, Nguyễn Đình Thi đã nhắc lại một số định nghĩa
về thơ, một số quan điểm về thơ đã từng được lưu truyền như: thơ là những lời,


thơ là những đề tài đẹp, thơ in sâu và trí nhớ, đầu mối của thơ là ở bên trong
tâm hồn con người…Tác giả vừa nhắc lại ý nghĩa của thơ vừa đưa ra tranh
biện. Ông đã dẫn chứng ra hai câu thơ Nguyễn Du tả tú bà như:


Thoắt trông lờn lợt mầu da
Ăn chi to béo đẫy đà làm sao!


Qua đoạn miêu tả tú bà trong Truyện Kiều cho thấy không phải lúc nào thơ
cũng này những lời hay, ý đẹp. Những câu từ trau chuốt mà nó cịn có cả những
câu chữ tầm thường trong cuộc sống hàng ngày. “Nôm na mách qué” đã trở
thành những lời thơ được truyền tụng muôn đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

ở nước ta một cái xe đạp, một khẩu súng cho đến cái ba lô trên vai người chiến
sĩ…cũng trở thành đề tài cho các nhà thơ. Nhà thơ ngày này khơng tìm đến cái
viển vơng bên ngồi mà hướng tới cuộc sống thực của con người.


Nếu bảo rằng thơ dễ “in sâu vào trí nhớ” thì tác giả nêu câu hỏi tại sao những
cơng thức tốn học không phải là thơ mà ta vẫn nhớ rất lâu.


Phần tiếp theo tác giả đưa ra một vài ý nghĩ về thơ đó là: “làm thơ thể hiện một
trạng thái tâm lí đang rung chuyển khác thường, làm thơ là đang sống khi tâm
hồn đang rung động. Bài thơ làm sống ngay lên một tình cảm, một nỗi niềm
trong lịng người đọc. Bài thơ được xem là sợi dây truyền tình cảm cho người
đọc…” Thơ được xem là tiếng nói của tâm hồn, là tư tưởng và tình cảm của
con người.


Sau đó tác giả đi sâu vào phân tích đặc trưng hình ảnh trong thơ, câu chữ trong
thơ, nhạc của thơ, đường đi của thơ và tính hàm xúc của thơ. Hình ảnh trong
thơ khơng phải là hình ảnh cầu kỳ mà là hình ảnh thực nảy lên trong tâm hồn.
Người làm thơ lượm những tia lửa ấy rồi “kết nên một bó sáng, nó là hình ảnh


thơ”. Vấn đề là ở chỗ: hình ảnh thơ là “hình ảnh sống”, nó đến theo kiểu “bắt
chợt”, nó có khả năng “truyền cảm”, nó mang tính “tự nhiên”, “tươi ngun”,
“mới mẻ”, "đột ngột", “lạ lùng”, thốt ra khỏi “thói quen”, “sự rập khn”.
Hình ảnh thơ phải làm ta ngạc nhiên vừa cảm thấy như đã quen thuộc tự bao
giờ.


“Chữ” và “tiếng” được thể hiện trong thơ cần phải mang hình tượng, hàm súc,
biểu cảm và đa nghĩa. Điều kì diệu của mỗi bài thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ ngồi
nghĩa của nó, ngồi cơng dụng gọi tên sự vật cịn giúp mở rộng ra xung quanh
lan tỏa cảm xúc như một vùng ánh sáng động đậy. Và sức mạnh của thơ chính
là nằm ở sự gợi tả đó. “Thi tại ngơn ngoại, thơ đã nghĩa và hàm súc”. Khi nhắc
đến sự đa nghĩa của thơ, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng hình ảnh ngon nến:
“Mỗi chữ như một ngọn nến đang cháy, những ngọn nến ấy xếp lên nhau thành
một vùng sáng chung. Ánh sáng khơng những ở đầu ngọn nến, nó ở tất cả xung
quanh những ngọn nến”. Ý thơ cũng khơng nằm trong những câu chữ mà nó
vây bọc xung quanh tồn bộ tác phẩm.


Nói đến thơ khơng thể khơng nhắc đến vần điệu. Nguyễn Đình Thi cho rằng
những luật lệ của thơ, từ âm điệu, đến vần đều là vũ khí rất mạnh trong tay
người làm thơ. Nếu thiếu vũ khi ấy thì “trận đánh gay go thêm nhiều, những
người làm thơ vẫn có thể thắng”. Tác giả cũng khẳng định “khơng có vấn đề
thơ tự do, thơ có vần hay thơ khơng vần. Chỉ có thơ thực và thơ giả, thơ hay và
thơ không hay, thơ và không thơ”. Do đó nhà thơ phải tìm tịi, thử thách để tìm
ra một hình thức thơ mới. Thơ cần sự sáng tạo nhưng không thể buông thả, bừa
bãi. Những bài thơ tục tĩu, lăng nhăng tầm phào chỉ làm cho độc giả quay lưng
lại với thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tiểu luận “Mấy ý nghĩ về thơ” có hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt
chẽ, sắc sảo. Tác giả sử dụng linh hoạt các thao tác lập luận so sánh, phân tích,
giải thích cũng như bác bỏ. Cách suy luận cực kỳ logic, cách lấy dẫn chứng độc


đáo và tinh tế giúp soi sáng cho luận điểm. Ngơn ngữ có sự chọn lọc vận dụng
một cách linh hoạt, sáng tạo. Tác phẩm mặc dù đã ra đời cách đây 60 năm
nhưng cho đến nay người đọc vẫn dễ dàng nhận thấy những điều mà tác giả đặt
ra không hề cũ. Nó có ý nghĩa sâu sắc cho đến hiện thực sáng tác văn học ngày
nay.


</div>

<!--links-->

×