BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HUỲNH HỒNG TRÚC
MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY MƠ, ĐỊN BẨY TÀI
CHÍNH VÀ MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh, Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HUỲNH HỒNG TRÚC
MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY MƠ, ĐỊN BẨY TÀI
CHÍNH VÀ MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã sớ : 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯ ỜI HƯ ỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
Thành phố Hồ Chí Minh, Năm 2019
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng bài luận văn “MỐI QUAN HỆ GIỮA QUY MƠ VÀ ĐỊN
BẨY TÀI CHÍNH, MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN RỦI RO CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM” là cơng trình nghiên cứu của riêng rơi và có sự hỗ trợ
của Giảng viên hướng dẫn là PGS TS. Nguyễn Thị Liên Hoa. Các thông tin, dữ liệu sử
dụng trong luận văn là trung thực; các nội dung trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc,
các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa được cơng bố tại bất
kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.
Hồ Chí Minh, năm 2019
Người thực hiện
Huỳnh Hồng Trúc
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC THUẬT NGỮ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT
ABSTRACT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1
1.1
ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................................................1
1.2
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .........................................................................7
1.3
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU ...........................................................................8
1.4
PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................8
1.5
KẾT CẤU BÀI NGHIÊN CỨU ...................................................................8
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT ..........................................................10
2.1. CÁC BÀI NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .................................................10
2.2. XÂY DỰNG GIẢ THIẾT ..........................................................................16
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................28
3.1. MƠ HÌNH NGHIÊN CỨU.........................................................................28
3.2. MÔ TẢ VÀ ĐỊNH NGHĨA CÁC BIẾN ....................................................33
3.3. THU THẬP DỮ LIỆU ...............................................................................40
3.4. KIỂM ĐỊNH MƠ HÌNH VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .........................43
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................54
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ......................................................................................57
5.1. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ..............................................57
5.2. HẠN CHẾ ĐỀ TÀI ....................................................................................58
5.3. HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO ......................................................59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC THUẬT NGỮ
Too big to fail
“Quá lớn để sụp đổ” – Một cơng ty hoặc một
tổ chức có quy mơ lớn và có tính kết nối với
nền kinh tế, khi công ty này sụp đổ sẽ khiến
cho nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng nặng
nề.
Systemically important financial Các tổ chức tài chính đạt đến trạng thái “too
intermediary – SIFI
big to fail” phải nằm trong danh sách bị kiểm
soát của chính phủ. Các cơng ty này phải
thường xun báo cáo tình hình tài chính và
duy trì tỷ lệ rủi ro ở mức quy định.
FED
Cục dự trữ liên bang Mỹ, đóng vai trị của
Ngân hàng Trung ương của Mỹ
2 Stage Least of Square - 2 SLS
Mơ hình hồi quy hai giai đoạn
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 : Tổng quan các bài nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa quy mô và
rủi ro của các ngân hàng
Bảng 2.2 : Tổng hợp các giả thiết
Bảng 3.1 : Tổng hợp các biến
Bảng 3.2 : Danh sách các ngân hàng thực hiện nghiên cứu
Bảng 3.3 : Thống kê mô tả các biến
Bảng 3.4 : Ma trận tương quan Pearson
Bảng 3.5 : Kết quả mơ hình hồi quy 2SLS nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy
mô và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Bảng 3.6 : Tổng hợp kết quả các biến có mối quan hệ với hệ số Z-score
Bảng 3.7 : Kết quả mơ hình hồi quy 2SLS nhằm kiểm định mối quan hệ giữa quy
mô và các thành phần cấu tạo nên Z-score của các ngân hàng thương mại Việt Nam
(gồm ROA, CAR, độ lệch chuẩn của ROA).
TÓM TẮT
Các bài nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi
ro ngân hàng, đều cho thấy mối quan hệ này là cùng chiều. Tuy nhiên, các nghiên
cứu này còn thiếu bằng chứng thực nghiệm tại các quốc gia đang phát triển, đại diện
là Việt Nam.
Vì thế tác giả quyết định thực hiện đề tài này nhằm kiểm tra xem mối quan hệ giữa
quy mơ, địn bẩy tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro cuả các ngân hàng thương
mại Việt Nam. Bài nghiên cứu thực hiện dựa trên bộ dữ liệu gồm 23 ngân hàng
thương mại cổ phần trong giai đoạn 2009-2017. Tác giả cũng xem xét về mối quan
hệ giữa các thành phần cấu tạo nên hệ số rủi ro Z-score (gồm ROA, độ lệch chuẩn
ROA và hệ số CAR) và quy mô ngân hàng, và các biến kiểm sốt khác.
Mơ hình hồi quy hai giai đoạn 2 SLS với dữ liệu bảng được sử dụng trong bài
nghiên cứu này do xuất hiện nội sinh giữa các biến.
Kết quả tìm thấy:
•
Thứ nhất, mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mơ và mức độ chấp nhận rủi ro.
•
Thứ hai, mối quan hệ cùng chiều giữa Quy mơ và địn bẩy tài chính.
•
Thứ ba, mối quan hệ ngược chiều giữa Rủi ro ngân hàng chấp nhận và Tỷ lệ
cổ phần ban quản trị nắm giữ.
Dựa trên kết quả bài nghiên cứu này, tác giả kỳ vọng sẽ giúp các nhà hoạch định
chính sách có cái nhìn chính xác hơn về ảnh hưởng của quy mô và cấu trúc vốn lên
rủi ro ngân hàng chấp nhận. Từ đó, đưa ra các quyết định giúp cải thiện quản trị rủi
ro ngân hàng thương mại.
Từ khóa : quy mơ ngân hàng, rủi ro, địn bẩy, Too big to fail, 2 SLS
ABSTRACT
Previous researches on the relationship between size and risk-taking of the bank is
positive corelation. However, these studies lacked empirical evidence in developing
countries, represented by Vietnam.
Therefore, the author decides to examines the relationship between size, leverage,
and risk-taking of 23 commercial banks in Viet Nam during the period of 2009 2017.
The author also examines the relationship between the combination of the Z-score
(including ROA, standard deviation of ROA and CAR) and bank size. Two-stage 2SLS regression model with panel data is used due to endogenous variables. This
exam has three contributions:
•
First, a positive correlation between bank size and bank risk-taking.
•
Second, a positive correlation between bank size and leverage.
•
Third, a negative correlation between risk-taking and holding shares ratio of
management.
Based on the results of this study, the author expects to help policy makers have a
accurated view of the impact of size and structured of the bank on risks. Since then,
making decisions to help improve the risk management.
Keywords: bank size, risk, leverage, Too big to fail, 2 SLS
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1
ĐẶT VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Sự ổn định và thịnh vượng của hệ thống tài chính là bàn đạp rất quan trọng để kinh
tế tăng trưởng bền vững. Đặc biệt là các ngân hàng có vai trị rất quan trọng trong
việc dẫn dắt cả nền kinh tế. Vì thế nên các tổ chức tài chính và các ngân hàng lớn
này ln nhận được những lợi ích và ưu ái đặc biệt từ các chính sách của chính phủ,
ngân hàng trung ương. Các tổ chức khổng lồ này hoạt động với niềm tin rằng sẽ
nhận được sự hỗ trợ từ chính phủ khi rủi ro xảy ra. Vì những đặc quyền đó nên xuất
hiện các rủi ro đạo đức kèm theo. Các tổ chức “Too big too fail” đã bóp méo các ưu
đãi hỗ trợ của chính phủ, những ưu đãi đặc quyền này đã khuyến khích các tổ chức
này ln tìm cách tối đa hố lợi nhuận của mình trong ngắn hạn bằng cách chấp
nhận rủi ro quá mức. Và khi có rủi ro xảy đến, họ sẽ đi cầu cứu chính phủ với các
chính sách bảo trợ độc quyền mà chỉ họ nhận được. Các gói cứu trợ của chính phủ
từ đâu, một câu trả lời rất đơn giản là từ tiền thuế của người dân.
Kể từ sau khủng hoảng tài chính thế giới, thuật ngữ “Too big to fail” trở thành tâm
điểm của sự chỉ trích. Thuật ngữ “Too big to fail” có nghĩa là các tổ chức tài chính
lớn như các doanh nghiệp, các ngân hàng có quy mơ, khả năng kết nối lớn và có sức
ảnh hưởng trong nền kinh tế buộc các chính phủ phải tăng cường hỗ trợ họ khi có
các bất ổn tài chính xảy ra dẫn đến sự sụp đổ hệ thống tài chính nhằm tránh những
những hệ luỵ nghiêm trọng cho cả nền kinh tế.
Câu chuyện “Too big to fail” và cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ mở đầu với
Bear Stearns. Tháng 3 năm 2008, Bear Stearns là một ngân hàng tuy nhỏ nhưng rất
nổi tiếng trong giới tài chính và là ngân hàng đầu tiên trong danh sách các tổ chức
quá lớn để sụp đổ, JP Morgan Chase đã mua lại ngân hàng này với sự hỗ trợ của
Cục dự trữ liên bang Mỹ 30 tỷ USD, vì FED lo ngại rằng sự sụp đổ của Bear
Stearns sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của dân chúng vào hệ thống tài chính của Mỹ.
Cùng năm đó, một ngân hàng đầu tư khác Lehman Brothers cũng sụp đổ, tuy nhiên,
thời điểm đó, Bộ trưởng Tài chính Hank Paulson khơng mở gói cứu trợ như đã làm
2
với Bear Stearns. Vào thứ hai tiếp theo khi Lehman Brothers nộp đơn xin phá sản,
chỉ số Dow Jones giảm 350 điểm. Hai ngày tiếp theo, thị trường tài chính rơi vào
trạng thái hoảng loạn.
Câu chuyện cứu trợ hoàn toàn dựa vào số tiền chính phủ đưa ra, các chính sách lúc
này khơng cịn hiệu quả để giải quyết cho khủng hoảng, cuối cùng sau nhiều tính
tốn, khoản cứu trợ 700 tỷ USD được đưa ra để tái cấp vốn cho các ngân hàng lớn
đang điêu đứng.
Citigroup đổi 27 tỷ USD cổ phần ưu đãi với lãi suất sinh lợi 8%/năm để lấy 20 tỷ
USD tiền mặt cứu trợ. Các ngân hàng đầu tư Goldman Sachs và Morgan Stanley
buộc phải chuyển thành ngân hàng thương mại để có thể mượn tiền từ FED.
Tiếp đó là vụ rót tiền lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ vào Fannie Mae và Freddie
Mac để Chính phủ đoạt quyền kiểm sốt doanh nghiệp. Với con số 187.5 tỷ USD,
số tiền này lớn hơn rất nhiều so với đợt bỏ ra cứu trợ trong đợt khủng hoảng tín
dụng năm 1989.
Fannie Mae và Freddie Mac là hai kẻ khổng lồ đóng vai trị trung tâm trong thị
trường địa ốc Mỹ. Hai định chế tài chính này được chính phủ bảo trợ để thu mua
các khoản vay mua nhà trả góp từ ngân hàng, các tổ chức tài chính khác rồi bán ra
thị trường thứ cấp. Vì các khoản thế chấp này được ngầm đảm bảo bởi chính phủ
nên hai cơng ty này chấp nhận rủi ro nhiều hơn để đem lại lợi nhuận cao hơn. Cuối
năm 2007, khi các ngân hàng kiểm sốt hoạt động tín dụng chặt chẽ hơn, các khoản
vay trả góp của hai công ty này nắm giữ đã khoảng 90% thị trường. Vì thế, chính
phủ khơng thể khơng ra tay cứu trợ, một phản ứng dây chuyền chắc chắn sẽ xảy ra
với hệ thống tài chính của Mỹ nếu hai kẻ khổng lồ này khủng hoảng.
Trường hợp Tập đoàn Bảo hiểm Quốc tế Mỹ (AIG) cũng là một ví dụ điển hình về
“Too big to fail”. AIG quá lớn, nằm trong một mạng lưới quá phức tạp của hệ thống
tài chính, nên khơng thể để rơi vào tình trạng vỡ nợ. Vì thế chính phủ phải ra tay
ứng cứu khẩn cấp với gói cứu trợ trị giá 182 tỷ USD, nhằm đưa AIG thoát khỏi
nguy cơ phá sản và tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ.
3
Để hạn chế những tác động xấu từ các tổ chức tài chính lớn, nhiều ý kiến cho rằng
phải giảm sự kết nối giữa các tập đồn, giảm quy mơ của các tập đồn có sức ảnh
hưởng lớn đối với thị trường, khi quy mô, năng lực của các tổ chức này giảm thì sẽ
làm mức độ chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp giảm, gánh nặng của nền kinh tế
cũng giảm xuống.
Năm 2011, Dự luật “Too big to fail” được đề xuất bởi Hạ nghị sĩ Paul Kanjorski
của Đảng Dân chủ được đưa ra Uỷ ban tài chính của Hạ viện Mỹ. Theo dự luật này,
chính phủ có quyền phân tán, giải thể các cơng ty tài chính q lớn, có mức liên kết
và tầm ảnh hưởng quá rộng, đến mức có thể gây hại cho nền kinh tế thậm chí cả khi
các cơng ty này vẫn đang hoạt động tốt.
Những người bỏ phiếu thuận cho rằng, chính phủ không thể sử dụng tài sản, tiền
thuế của người dân để cứu trợ những “ơng lớn” trong ngành tài chính – những cơng
ty lợi dụng sự hỗ trợ của chính phủ để kiếm lợi nhuận cao và khi đối mặt với khủng
hoảng lại đi xin cầu cứu. Bản thân các tổ chức tài chính này phải có trách nhiệm với
các khoản đặt cược đầu tư của mình và phải chịu trả giá khi gặp thất bại.
Tuy nhiên, khi dự luật này được đưa ra, những lập luật phản đối xuất hiện.
•
Lập luận đầu tiên là họ cho rằng điều này vi phạm quyền được tự do sở hữu
và được phát triển của cá nhân, tổ chức.
•
Lập luận thứ hai, khi ràng buộc giảm quy mơ, thì sẽ làm suy yếu khả năng
cạnh tranh của các tổ chức tài chính trên thị trường quốc tế. Và điều đó cũng dẫn
đến việc đánh mất thị phần cho các đối thủ cạnh tranh khác.
•
Lập luận thứ ba, rất khó xác định được ngưỡng quy mơ và định nghĩa chính
xác về “ơng lớn” trên thị trường. Thế nào gọi là lớn và quy mô tầm cỡ cần bị kiểm
sốt kiềm nén lại.
•
Lập luận thứ tư, những người phản đối dự luật đã đưa ra các ví dụ rằng
khơng chỉ các doanh nghiệp có quy mơ lớn, mà cả những doanh nghiệp nhỏ vẫn có
tác động đáng kể đến nền kinh tế.
4
Dermine và Schoenmaker (2010) cho rằng việc giới hạn quy mô doanh nghiệp
không phải là công cụ tốt nhất, dựa trên phát hiện rằng các nước có ngân hàng
tương đối nhỏ phải đối mặt với chi phí cứu trợ lớn; ngồi ra, bài nghiên cứu này cịn
cảnh báo rằng việc giới hạn quy mơ có thể có các tác động không mong muốn,
chẳng hạn như thiếu đa dạng rủi ro tín dụng.
Theo họ, quy mơ khơng phải là yếu tố tác động đến việc chấp nhận rủi ro của những
tổ chức tài chính, ngân hàng lớn. Việc kiểm sốt quy mơ và sự phát triển của các
doanh nghiệp là hồn toàn phi lý.
Sau khủng hoảng 2008, câu chuyện về việc các tổ chức “Too big to fail” lại đưa ra
một cái nhìn khác về việc quy mơ ảnh hưởng đến rủi ro doanh nghiệp. Cụm từ SIFI
được thay thế và các doanh nghiệp khơng cịn muốn khuyếch đại quy mơ. Các tập
đồn với quy mơ lớn khơng cịn nhận được đặc quyền từ chính phủ, và nếu đã đạt ở
trạng thái “too big” sẽ được chính phủ thêm vào danh sách SIFI, đây là danh sách
các tổ chức tài chính có quy mơ lớn mà chính phủ cần giám sát cứng rắn và chặt chẽ
hơn so với các tổ chức quy mô nhỏ. Với quy mô lớn và sức ảnh hưởng với nền kinh
tế, khi các tổ chức tài chính đạt đến ngưỡng có thể vào SIFI, họ sẽ dừng lại xem
phương án nào sẽ có lợi cho cơng ty.
Tuỳ vào chiến lược công ty, một số sẽ vẫn tiếp tục gia tăng đầu tư khuyếch đại tài
sản và doanh thu để được vào nhóm SIFI để nhận được sự cứu trợ của chính phủ
khi khủng hoảng. New York Community Bancorp là tập đồn tài chính nắm giữ
lượng tiền gửi tiết kiệm lớn thứ 4 tại Mỹ, thực hiện kế hoạch nhằm thu mua cơng ty
tài chính Astoria – cơng ty mẹ của Astoria Bank, nhằm mục đích mở rộng mạng
lưới ngân hàng của hãng. Các cơng ty trong nhóm SIFI dù họ phải chịu nhiều quy
định kiểm soát nghiêm ngặt và yêu cầu minh bạch tài chính của chính phủ hơn các
cơng ty khác, thường xun báo cáo tình hình tài chính và kiểm sốt rủi ro chặt chẽ
nhưng đổi lại họ sẽ đảm bảo nhận được sự ưu ái của chính phủ khi nền kinh tế bị
khủng hoảng
Một số cơng ty khác lại có lối đi riêng tránh gia nhập vào SIFI bằng cách chia tách
các bộ phận hoạt động, thu nhỏ quy mô. Họ cho rằng việc bị chính phủ kiểm sốt sẽ
5
cản trở sự phát triển của công ty. Các dự án với lợi nhuận khổng lồ nhưng đi kèm
rủi ro cao sẽ khó để vượt qua các quy định của chính phủ. First Niagara Bank - với
giá trị tài sản là 39 tỷ USD, nhưng họ không muốn trở thành một SIFI, thay vào đó
họ lại đang đàm phán để tự bán mình cho Ohio Keycorp vì họ cho rằng gia nhập
SIFI sẽ làm cản trở sự phát triển.
Sau khủng hoảng 2009, khơng cịn có thể khẳng định theo “Too big to fail” rằng các
cơng ty càng lớn thì mức độ chấp nhận rủi ro càng cao, mà các công ty này chấp
nhận sự kiểm sốt chặt chẽ của chính phủ. Ngược lại các công ty đang trên đà tăng
trưởng mạnh lại kiểm sốt chặt chẽ quy mơ để khơng gia nhập nhóm SIFI, để có thể
được tự do phát triển, chấp nhận các dự án rủi ro để thu về được lợi nhuận khủng,
câu chuyện về quy mô lớn với mức độ chấp nhận rủi ro cao khơng cịn đúng tại thời
điểm hiện tại.
Tại Việt Nam, những ngân hàng nhỏ lại là những ngân hàng gây ra rủi ro lan truyền
trong nền kinh tế. Nhiều sự kiện từ ba ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà
nước mua giá 0 đồng đã cho thấy khủng hoảng bắt đầu từ những ngân hàng nhỏ lẻ
gồm Ngân hàng Xây dựng (VNCB), Ngân hàng Đại Dương (OceanBank), Ngân
hàng Dầu khí Tồn cầu (GPBank).
Từ thời điểm Ngân hàng xây dựng - VNCB là ngân hàng đầu tiên bị NHNN mua lại
bắt buộc toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng cho đến nay. Những ngân hàng 0 đồng này
sau khi tái cấu trúc vẫn không cho thấy kết quả khả quan. Cuối năm 2017, kiểm
toán nhà nước cho thấy kết quả tái cơ cấu đều khơng mấy khả quan, tài chính của cả
ba ngân hàng vẫn không được cải thiện, hoạt động kinh doanh tiếp tục thua lỗ lớn,
việc âm vốn chủ sở hữu ngày càng tăng.
Từ ngày 15/1/2018, Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi đã chính thức có hiệu lực thi
hành cho phép các ngân hàng yếu kém được phép phá sản. Và bảo hiểm tiền gửi tại
Việt Nam, cả gốc và lãi của một cá nhân tối đa là 75 triệu đồng, tăng từ 25 triệu
đồng lên 75 triệu đồng. Con số 75 triệu này là khá thấp và vơ lý dù số tiền gửi của
người dân có thể trên vài trăm triệu hoặc vài tỷ đồng. Khi ngân hàng thực sự phá
6
sản, người dân sẽ mất lòng tin vào hệ thống ngân hàng, dẫn đến việc rút tiền ào ạt,
mua vàng và ngoại tệ cất vào két sắt, nguồn vốn khan hiếm càng khan hiếm hơn.
Tuy nhiên, các ông lớn ngân hàng và cả các ngân hàng nhỏ vẫn sẽ được ngân hàng
nhà nước và chính phủ hỗ trợ để khơng phá sản. Việc ngân hàng nhà nước cho phép
tổ chức tín dụng phá sản chỉ là biện pháp cuối cùng khi các tổ chức này không thực
hiện được các phương án phục hồi, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, và chuyển giao bắt
buộc.
Bởi tại Việt Nam, tâm lý và trình độ người dân vẫn phụ thuộc vào hiệu ứng bầy
đàn, bất cân xứng thông tin nên việc cho phép một ngân hàng được phép phá sản có
thể đe doạ đổ vỡ dây chuyền, gây mất an toàn hệ thống ngân hàng và kéo theo
những tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Bên cạnh đó, cứu trợ các ngân hàng hoạt
động yếu kém là một tín hiệu của ngân hàng nhà nước cho người dân an tâm gửi
tiền vào hệ thống ngân hàng.
Câu chuyện về khủng hoảng tại Việt Nam lại khác với câu chuyện “Too big to fail”
của Mỹ, những ngân hàng với quy mô nhỏ lại chấp nhận rủi ro nhiều hơn. Và thực
sự rủi ro của các ngân hàng chịu tác động bởi quy mô, khi muốn kiểm sốt rủi ro thì
cần phải thực hiện các chính sách “khống chế” quy mô của ngân hàng ? Lúc này
câu hỏi đặt ra, quy mơ của ngân hàng có tác động như thế nào đến với mức độ chấp
nhận rủi ro của các ngân hàng.
Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng tìm hiểu quy mơ của ngân hàng và tỷ lệ địn bẩy
có liên hệ gì với nhau khơng ?
Các ngân hàng có quy mơ lớn khơng chỉ nhận được đặc quyền của chính phủ mà
cịn nhận được thêm các đặc quyền trong việc huy động vốn.
Ngân hàng quy mơ càng lớn thì càng dễ huy động nguồn vốn từ tiền gửi công chúng
và đi vay từ các tổ chức tài chính khác, bởi quy mơ càng lớn thì càng có mức độ tín
nhiệm, khả năng về tài chính và nguồn lực càng cao. Ngoài ra, việc quản trị rủi ro
của các ngân hàng lớn cũng tốt hơn nên điều này hàm ý rằng địn bẩy tài chính của
các ngân hàng quy mô lớn sẽ lớn hơn các ngân hàng nhỏ.
7
Các ngân hàng nhỏ, quy mơ được tính chủ yếu dựa trên tài sản của cổ đông, rủi ro
của các cổ đông sẽ rất lớn nếu các nhà quản trị chọn tỷ lệ đòn bẩy cao, họ sẽ dùng
quyền lực của mình để đảm bảo duy trì tỷ lệ địn bẩy thấp, mức độ chấp nhận rủi ro
nhỏ hoặc vừa phải.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, các ngân hàng nhỏ - khả năng quản trị rủi ro
yếu hơn nên khơng thể xác định được tỷ lệ địn bẩy thích hợp, dẫn đến tỷ lệ địn bẩy
cao. Các ngân hàng lớn với vốn chủ sở hữu cao, các cổ đông sẽ yêu cầu về việc
quản trị rủi ro chặt chẽ để đảm bảo nguồn vốn của họ, tỷ lệ địn bẩy thấp.
Vì các cổ đơng cũng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro ngân hàng chấp nhận, nên bài
nghiên cứu cũng sẽ đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa mức độ chấp nhận rủi ro của
một ngân hàng và số lượng cổ phần được nắm giữ bởi các giám đốc, hội đồng quản
trị.
Xuất phát từ thực tiễn tại Việt Nam, tác giả quyết định thực hiện đề tài tìm hiểu Mối
quan hệ giữa quy mơ và địn bẩy tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của ngân
hàng thương mại Việt Nam. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu trong khoảng thời
gian 2009-2017 với 23 ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam.
1.2
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu mối quan hệ giữa quy mơ hoạt động và địn
bẩy tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại tại Việt
Nam giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2017.
Bên cạnh đó, bài nghiên cứu cũng tìm hiểu về việc nắm giữ cổ phần của hội đồng
quản trị và giám đốc điều hành ngân hàng, có giúp làm giảm mức độ chấp nhận rủi
ro mà ngân hàng gánh chịu.
Bài nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn một quy mơ thích hợp
để có thể đem lại một kết quả tốt nhất khi thực hiện việc quản trị rủi ro. Thơng qua
đó, các nhà quản lý sẽ nắm bắt được tình hình thực tế ở các ngân hàng thương mại
hiện nay, tiến hành cải tiến và hoàn thiện quá trình quản trị rủi ro.
8
1.3
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài nghiên cứu sẽ làm rõ những câu hỏi sau:
•
Có hay không mối quan hệ giữa quy mô và mức độ chấp nhận rủi ro tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam? Nếu có, mối tương quan giữa quy mơ và
mức độ chấp nhận rủi ro là cùng chiều hay ngược chiều?
•
Có hay khơng mối quan hệ giữa quy mơ ngân hàng và tỷ lệ địn bẩy tài chính
của các ngân hàng thương mại Việt Nam? Nếu có, mối tương quan giữa quy
mơ và tỷ lệ địn bẩy tài chính là cùng chiều hay ngược chiều?
•
Việc các thành viên trong hội đồng quản trị nắm giữ lượng lớn cổ phần của
ngân hàng thì có tác động gì đến mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chấp
nhận hay khơng? Giám đốc điều hành ngân hàng nếu như có nắm giữ cổ
phần thì có bị ảnh hưởng khi ra các quyết định hay không?
1.4
PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tác giả thực hiện bài nghiên cứu với bộ dữ liệu gồm 23 ngân hàng thương mại cổ
phần trong giai đoạn 2009-2017. Bài nghiên cứu sử dụng mơ hình hồi quy hai giai
đoạn 2 SLS với dữ liệu bảng do xuất hiện biến bị nội sinh trong mơ hình.
1.5
KẾT CẤU BÀI NGHIÊN CỨU
Bài nghiên cứu gồm 5 phần và được trình bày theo kết cấu sau:
•
Phần 1 : Giới thiệu : Đầ u tiên tác giả giới thiệu tổ ng quan về đề tài nghiên
cứu, và trình bày lý do cho ̣n đề tài, mu ̣c tiêu bài nghiên cứu, ý nghiã và kế t
cấ u của nghiên cứu.
•
Phần 2 : Tổng quan lý thuyết : Tác giả sẽ trình bày các bài nghiên cứu trước
đây trên thế giới. Từ các bài nghiên cứu trên, tác giả xây dựng các giả thuyế t
cho bài nghiên cứu này.
•
Phần 3 : Phương pháp nghiên cứu : Phầ n này sẽ trình bày lầ n lươ ̣t về mơ hình
nghiên cứu, giải thích các biế n trong bài và cách thu thập dữ liệu nghiên cứu.
9
Ć i cùng là trình bày về phương pháp kiể m đinh
̣ mơ hình, phân tích và trình
bày kế t quả kiể m đinh.
̣
•
Phần 4 : Kết quả nghiên cứu : Phầ n này sẽ trình bày các kế t luận về mố i quan
hệ giữa quy mô doanh nghiệp và chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương
ma ̣i Việt Nam, so sánh kế t quả với các bài nghiên cứu trước đây, và đưa ra
một số kiế n nghi ̣cho ngân hàng. Đồ ng thời đưa ra một sớ đinh
̣ hướng để phát
triể n đề tài.
•
Phần 5 : Kết luận : Phầ n này sẽ tổ ng kế t la ̣i bài nghiên cứu, các kế t quả đa ̣t
đươ ̣c và nêu lên những ha ̣n chế khi thực hiện đề tài này.
10
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
2.1. CÁC BÀI NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Cuộc khủng hoảng tài chính gần đây đã tạo ra sự quan tâm to lớn trong việc nghiên
cứu rủi ro của các tổ chức tài chính.
Saunders, Stock và Travlos (1990) đã nghiên cứu về ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu
đến mức độ chấp nhận rủi ro. Bài nghiên cứu được thực hiện với 38 ngân hàng niêm
yết lớn ở Mỹ từ năm 1978 – 1985. Kết quả cho thấy tương quan dương giữa tổng tài
sản và rủi ro. Rủi ro được đo lường bằng độ lệch chuẩn lợi nhuận hàng ngày của cổ
phiếu. Kết quả còn cho thấy, ban quản trị của ngân hàng thể hiện hành vi chấp nhận
rủi ro cao hơn khi ban quản trị cũng là chủ sở hữu ngân hàng.
Boyd và Runkle (1993) nghiên cứu dựa trên các ngân hàng lớn được niêm yết trên
thị trường chứng khoán ở Mỹ cho thấy rằng tổng tài sản và mức độ chấp nhận rủi ro
có mối quan hệ ngược chiều. Ngồi ra cịn cho thấy độ lệch chuẩn ROA và tỷ lệ vốn
chủ sở hữu tương quan ngược với tổng tài sản.
Demsetz, Saidenberg và Strahan (1997) nghiên cứu dựa trên 134 ngân hàng lớn
niêm yết tại My từ năm 1980 – 1993. Rủi ro của ngân hàng được đại diện là rủi ro
đặc thù. Quy mô được đo lường bằng logarit của tổng tài sản. Kết quả cho thấy có
mối quan hệ ngược chiều giữa quy mô và rủi ro. Quy mô của ngân hàng không ảnh
hưởng đến việc quản trị rủi ro. Cấu trúc sở hữu vốn có tác động đáng kể đến rủi ro ở
các ngân hàng có giá trị nhượng quyền thấp.
Boyd, De Nicolo và Al Jalal (2006) nghiên cứu ở các ngân hàng nhỏ hoạt động ở
khu vực phi nơng thơn tìm thấy mối tương quan ngược chiều giữa tổng tài sản và
rủi ro. Rủi ro được đại diện bởi Z-score và tỷ lệ vốn trên vốn chủ sở hữu.
Houston và cộng sự (2010) nghiên cứu gồm 300 ngân hàng trên thế giới từ 20002007. Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng tài sản có mối quan hệ tương quan cùng
chiều với độ lệch chuẩn lợi nhuận hàng ngày của cổ phiếu, nghĩa là quy mơ có mối
tương quan dương với mức độ chấp nhận rủi ro. Biến đại diện cho mức độ chấp
nhận rủi ro là Z-score, ROA, tỷ lệ an toàn vốn CAR, độ lệch chuẩn của ROA.