Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Lý luận chung về bảo đảm tiền vay bằng tài sản của Ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.42 KB, 23 trang )

Lý luận chung về bảo đảm tiền vay bằng tài sản của Ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1 Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1 Tổng quan về NHTM
1.1.1.1 Khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, ngân hàng thực hiện
các chính sách kinh tế đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính
sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống
tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài
sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Có nhiều cách để định nghĩa ngân hàng thương mại thông qua chức năng, vai trò dịch vụ mà
chúng cung cấp trong nền kinh tế. Thực tế cho thấy không chỉ ngân hàng mà còn có các tổ chức tài
chính gồm công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công
ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Và ngược lại ngân hàng
đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động
sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện
nhiều dịch vụ mới khác. Có thể định nghĩa ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ
mà chúng cung cấp: Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Cũng có thể định nghĩa
ngân hàng thương mại dựa trên các hoạt động chủ yếu, theo luật cúa các tổ chức tín dụng của nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi : Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Ngày
nay hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển, sự phát triển đó có thể thấy trên tất cả các
phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn
ngân hàng có qui mô toàn cầu được tạo ra từ làn sóng sáp nhập, hợp nhất. Để có thể duy trì khả
năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu xã hội nhiều ngân hàng hiện đã thực hiện nhiều vai trò mới
như: Vai trò thanh toán, vai trò người bảo lãnh, vai trò đại lý và vai trò thực hiện chính sách, với


mỗi vai trò đó ngân hàng cung cấp các dich vụ khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của công chúng
và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính
mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
Hoạt động của ngân hàng có thể chia thành ba hoạt động chủ yếu đó là hoạt động nhận tiền
gửi, hoạt động cung cấp tín dụng và hoạt động trung gian thanh toán.
 Hoạt động nhận tiền gửi
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, vì vậy mà các ngân hàng đã tìm cách để huy
động được tiền. Ngân hàng có thể huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
bằng cách nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức
xã hội, tiền gửi thanh toán của cá nhân, doanh nghiệp…phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay các tổ
chức tín dụng khác…Trong đó, hoạt động nhận tiền gửi là quan trọng nhất.
Đó là các khoản tiền gửi của khách hàng, một quỹ sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng
thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao.
Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi
như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho
phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán). Là tiền của doanh
nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Các nhu cầu chi
trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện trong phạm vi số dư cho phép, và
có thể được rút ra lúc nào khi khách hàng cần. Loại tiền gửi này mang lại lợi nhuận cao cho ngân
hàng bởi vì một mặt chúng không phải trả lãi hoặc chỉ phải trả một mức lãi suất thấp và mặt khác
những tài khoản này thường tạo ra khoản thu về phí cho ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng sử
dụng nhiều hình thức biến tướng của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm
cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác.
- Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, của tổ chức xã hội. Loại tiền gửi có kỳ hạn của các
tổ chức xã hội, các doanh nghiệp vào ngân hàng và sẽ được chi trả sau một thời gian xác định.
Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng
đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu người gửi phải đến ngân hàng rút tiền ra, hình thức này

ra đời nhằm tăng thu cho người gửi tiền do tiền gửi thanh toán tuy thuận lợi nhưng lãi suất thấp,
loại tiền gửi này được hưởng lãi suất tuỳ theo độ dài của kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Dân cư gửi tiền vào ngân hàng nhằm thực hiện mục tiêu
bảo đảm an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt nhu cầu bảo toàn. Để thu hút
ngày càng nhiều tiền tiết kiệm các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen
giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới hoạt động đưa ra các hình thức huy
động và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương
mục tiết kiệm cho mỗi kỳ hạn, mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này có thể được thế chấp để
vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác. Là tiền của ngân hàng khác gửi vào ngân hàng nhằm
mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác và ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền
tại ngân hàng khác, tuy nhiên quy mô nguồn này thường không lớn.
 Hoạt động cung cấp tín dụng
Luật các tổ chức tín dụng qui định : Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng
nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động được để cấp tín dụng, trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức
tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại,
phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng được chia thành nhiều tiêu thức khác nhau.
- Theo thời gian : tín dụng ngắn hạn (thời hạn từ 12 tháng trở xuống), trung hạn (trên 1 năm
đến 5 năm), dài hạn (trên 5 năm). Tuy nhiên việc xác định thời hạn trên chỉ mang tính chất tương
đối vì có những khoản vay không xác định trước được thời hạn. Phân chia tín dụng theo tiêu thức
này có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và
sinh lợi của ngân hàng. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các NHTM thường cao hơn tín dụng trung
và dài hạn, các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng.
- Theo hình thức tài trợ tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê, chiết khấu,
bảo lãnh và một số hoạt động khác do NHNN qui định
 Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng sử dụng với cam kết hoàn trả cả gốc và lãi
trong khoảng thời gian xác định. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu : Doanh số cho
vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay

trong kì, dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì. Đối
với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2
đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng, đồng thời hoạt động này mang lại nhiều rủi ro.
 Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận
nhất định. Sau thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng .
 Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình.
Mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu
lợi.
 Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng tiền trước cho khách hàng tương ứng với giá trị
của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn.
- Phân loại theo tài sản bảo đảm có tín dụng có bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
bằng tài sản bên thứ ba, tài sản hình thành từ vốn vay và tín dụng không có bảo đảm. Để bảo đảm
hoạt động ngân hàng an toàn và sinh lợi thì các ngân hàng thường yêu cầu có tài sản bảo đảm cho
khoản vay, tuy nhiên trong một số trường hợp ngân hàng có thể cấp các khoản tín dụng cho các
khách hàng mà không cần tài sản bảo đảm, đó là các khách hàng có uy tín, khách hàng làm ăn
thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa…Các
khoản cho vay theo chỉ thị của chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản bảo đảm, các
khoản cho vay các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn…
- Phân loại theo rủi ro :
 Tín dụng lành mạnh là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
 Tín dụng có vấn đề : Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng
chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài
chính…
 Nợ quá hạn có khả năng thu hồi : Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách
hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản bảo đảm có giá trị lớn…
 Nợ quá hạn khó đòi : Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ
hoặc bị giảm giá.
 Hoạt động trung gian thanh toán
Trung gian thanh toán gồm rất nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng khác nhau, phần lớn là
các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt.

- Dịch vụ chuyển khoản : Tức là chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác trong cùng
một hệ thống ngân hàng, hoặc giữa các hệ thống ngân hàng khác nhau …thông qua các công cụ
như séc, lệnh chi, lệnh thu…
- Dịch vụ thu hộ, chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng trong
các giao dịch mua bán bằng uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, séc, L/C..
- Dịch vụ trả lương qua tài khoản.
- Dịch vụ chuyển tiền theo yêu cầu của khách hàng dưới các hình thức : chuyển tiền nhanh,
chuyển tiền bằng thư, chuyển tiền bằng điện.
- Các dịch vụ bảo quản các giấy tờ có giá như vàng, bạc, đá quý, giấy tờ có giá
- Mua bán chứng khoán hộ khách hàng.
1.1.2 Hoạt động cho vay của NHTM
1.1.2.1 khái niệm hoạt động cho vay của NHTM
Cho vay là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM, là việc ngân hàng đưa tiền cho khách
hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Nhằm bảo đảm tính an toàn và khả năng sinh lợi hoạt động cho vay cũng dựa trên một số
nguyên tắc nhất định :
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời gian xác định, khả năng hoàn trả của
các khoản vay ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng, đây là điều kiện để ngân hàng
tồn tại và phát triển. Vì các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền
gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả gốc và
lãi như đã cam kết, do vậy ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng thực hiện đúng cam kết
này.
- Khách hàng cam kết sử dụng vốn vay theo mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không
trái với qui định của pháp luật và của các ngân hàng cấp trên, việc tài trợ đúng cương lĩnh hoạt
động của ngân hàng.
- Ngân hàng cho vay khi xét thấy phương án, dự án kinh doanh có hiệu quả. Thực hiện
nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu. Phần lớn nguồn thu của ngân hàng có được từ hoạt
động cho vay, tuy nhiên hoạt động này cũng mang lại rủi ro cho ngân hàng. Vì vậy trước khi cho
vay, ngân hàng cần phải kiểm tra, xem xét, đánh giá khách hàng có đủ điều kiện vay vốn không.

Cho vay có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với bản thân ngân hàng, thúc đẩy sự tăng
trưởng của các doanh nghiệp, mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Với ngân
hàng, qua hoạt động cho vay ngân hàng sẽ kiếm được lợi nhuận từ phần chênh lệch giữa lãi suất
cho vay và lãi suất huy động. Đó là cơ sở để ngân hàng tồn tại và phát triển. Với khách hàng vay
vốn giúp cho việc mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh…tạo điều
kiện cho doanh nghiệp phát triển. Sự phát triển của các ngân hàng và doanh nghiệp sẽ thúc đẩy
nền kinh tế phát triển theo.
1.1.2.2 Phân loại cho vay
Có nhiều cách thức phân loại cho vay, tương ứng với mỗi tiêu thức có các hình thức cho
vay khác nhau:
 Theo thời gian :
- Cho vay ngắn hạn : cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
- Cho vay trung hạn : cho vay có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm
- Cho vay dài hạn : cho vay trên 5 năm
 Theo thành phần kinh tế :
- Cho vay thành phần kinh tế quốc doanh
- Cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
- Cho vay cá nhân, hộ gia đình
 Theo đối tượng khách hàng :
- Cho vay đối với các doanh nghiệp lớn
- Cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Cho vay với khách hàng là cá nhân
- Cho vay các tổ chức tín dụng
 Theo mục đích sử dụng vốn :
- Cho vay công nghiệp và thương mại
- Cho vay nông nghiệp
- Cho vay bất động sản
- Cho vay tiêu dùng
 Theo mức độ tín nhiệm với khách hàng :
- Cho vay không bảo đảm

- Cho vay có bảo đảm
1.2. Các hình thức bảo đảm tiền vay
Nghị định 178/1999 NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
xác định : Bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở
kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Vì vậy bảo đảm tiền vay là việc
dùng tài sản hoặc uy tín của khách hàng để bảo đảm cho một khoản vay.
Thông thường có hai biện pháp bảo đảm tiền vay mà ngân hàng áp dụng đối với khách
hàng khi vay vốn ngân hàng là cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay không có bảo đảm
bằng tài sản. Tuỳ từng khách hàng mà ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp nào cho phù hợp bảo đảm
an toàn và sinh lợi cho ngân hàng.
1.2.1 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng
cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có
hoặc không đủ. Do khách hàng luôn phải đối đầu với những rủi ro trong kinh doanh, có thể mất
khả năng trả nợ cho ngân hàng do thu nhập từ hoạt động giảm sút mạnh. Vì vậy trừ những khách
hàng có uy tín cao ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo đảm khi vay vốn
ngân hàng nhằm hạn chế bớt các thiệt hại cho ngân hàng khi khách hàng có khó khăn không trả
được nợ.
Có các hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản :
- Cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay vốn
- Thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay vốn
- Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
- Tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay.
1.2.2 Bảo đảm tiền vay trong trường hợp không có bảo đảm bằng tài sản
Cho vay không có tài sản bảo đảm có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là
khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh ít xảy ra tình trạng nợ nần
dây dưa, hoặc món vay quá nhỏ so với vốn của người vay, các khoản cho vay đối với các tổ chức
tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có
khả năng giám sát việc bán hàng ...Các món cho vay theo chỉ thị của Chính Phủ để thực hiện các
dự án đầu tư thuộc các chương trình kinh tế trọng điểm, đặc biệt của Nhà nước các chương trình

kinh tế - xã hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được hưởng các chính sách tín dụng
ưu đãi về điều kiện vay vốn theo qui định tại các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ hoặc
Thủ tướng Chính phủ, hay cho các cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp
của tổ chức đoàn thể, chính trị.
Cho vay theo hình thức này tiềm ẩn rủi ro khá cao đối với ngân hàng, vì vậy mà ngân hàng
phải rất thận trọng khi cho vay, để bảo đảm an toàn thì khi cho vay ngân hàng nên đưa ra một số
qui định đối với khách hàng vay hoặc bên thứ ba nếu xét thấy khách hàng sử dụng vốn vay không
đúng mục đích, hoặc có dấu hiệu kinh doanh không hiệu quả.
1.2.3 Nguyên tắc bảo đảm tiền vay
Điều 4 số 178/1999 NĐ-CP qui định nguyên tắc bảo đảm tiền vay
- Ngân hàng được quyền lựa chọn khách hàng vay, lựa chọn bên bảo lãnh và lựa chọn tài sản
bảo đảm tiền vay đủ điều kiện theo qui định, các qui định của pháp luật có liên quan và phù hợp
với chính sách tín dụng của ngân hàng theo từng thời kỳ.
- Khách hàng vay đang được cho vay không có tài sản bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá
trình sử dụng vốn vay ngân hàng phát hiện khách hàng vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng,
ngân hàng có quyền yêu cầu khách hàng vay thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản hoặc thu hồi nợ trước hạn.
- Ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay theo qui định trong hợp đồng tín dụng
và qui định của pháp luật có liên quan để thu hồi nợ khi khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
- Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa
thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực
hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
1.2.4 Điều kiện đối với tài sản bảo đảm tiền vay
Tài sản mà khách hàng vay, bên bảo lãnh dùng để cầm cố, thế chấp, bảo lãnh vay vốn tại các
tổ chức tín dụng phải đủ các điều kiện sau :
• Tài sản phải thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng, quản lý của khách hàng vay, bên bảo
lãnh theo các quy định sau đây :
- Đối với giá trị quyền sử dụng đất, phải thuộc quyền sử dụng của khách hàng vay và được
thế chấp, bảo lãnh theo qui định của pháp luật về đất đai.

- Đối với tài sản của doanh nghiệp Nhà nước, tài sản đó phải được Nhà nước giao cho doanh
nghiệp đó quản lý, sử dụng và được dùng để bảo đảm tiền vay theo qui định của pháp luật về
doanh nghiệp Nhà nước.
- Đối với tài sản khác thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay, bên bảo lãnh. Trường hợp tài
sản mà pháp luật qui định phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bảo đảm phải có chứng nhận quyền
sở hữu tài sản.
• Tài sản được phép giao dịch, có tính thanh khoản cao. Đó là những tài sản mà pháp luật cho phép,
không cấm mua bán, tặng, cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp và các giao dịch
khác.
• Tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng, quản lý của bên bảo đảm tại thời
điểm ký kết hợp đồng bảo đảm. Trong hợp đồng bảo đảm, bên bảo đảm phải cam kết với ngân
hàng về việc tài sản cầm cố, thế chấp không có tranh chấp và chịu trách nhiệm về cam kết của
mình.
• Tài sản mà pháp luật qui định phải mua bảo hiểm thì bên bảo đảm phải mua bảo hiểm tài
sản trong thời gian bảo đảm tiền vay.
1.3 Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.3.1 Khái niệm, vai trò của bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là việc cho vay vốn của ngân hàng mà theo đó nghĩa vụ trả
nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình
thành từ vốn vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
Ngân hàng đóng vai trò là chủ nợ được thừa hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài
sản của khách hàng làm căn cứ để thu hồi nợ trong trường hợp khách hàng không trả hoặc không
có khả năng trả nợ. Ngân hàng áp dụng biện pháp này đối với những khoản vay có độ rủi ro cao và
được coi như nguồn trả nợ tiềm năng thứ hai. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản chỉ là biện pháp
phòng ngừa rủi ro, ngân hàng không coi đó là nguồn trả nợ chính của khoản vay. Vì vậy mà ngân

×