MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN QUY MÔ
NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TRONG DÂN CƯ CỦA SGDI NHĐT PTVN.
Ngày nay, khi nền kinh tế phát triển đời sống của người dân ngày càng được
cải thiện và nâng cao. Ngoài các khoản chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày họ còn có
tiền để tiết kiệm và tích luỹ. Tuy nhiên số tiền này vẫn chưa được sử dụng một
cách có hiệu quả do họ còn ngần ngại khi đầu tư, gửi vào Ngân hàng hay các tổ
chức tín dụng khác. Trong thời điểm hiện nay, có nhiều Ngân hàng hoạt động trên
thị trường với mục đích kinh doanh kiếm lời, vì vậy tính cạnh tranh rất cao đặc biệt
là sự ra đời của các Ngân hàng cổ phần làm cho sự cạnh tranh ngày càng trở nên
gay gắt. Vì vậy việc xây dựng chiến lược nhằm thu hút khách hàng đến với Ngân
hàng của mình là hết sức quan trọng, phải tìm hiểu nhu cầu, tâm lý của người dân
và phải đáp ứng tốt nhất các nhu cầu đó. Qua thời gian thực tập và nghiên cứu thực
tế tại SGDI NHĐT&PTVN em xin đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng và phát
triển quy mô nguồn vốn huy động trong dân cư của Sở.
1. Mở rộng mạng lưới huy động:
Hiện nay, các quỹ tiết kiệm của SGDI chủ yếu nằm ở quận Hoàng Kiếm,
Đống Đa và Hai Bà Trưng, vì thế việc mở thêm các quỹ tiết kiệm phân bố đều ở
các quận khác như Ba Đình, Cầu Giấy, Thanh Xuân... trên địa bàn Hà Nội là rất
cần thiết, đặc biệt là các khu đông dân cư, trung tâm kinh tế của quận.
Bên cạnh đó, việc mở các quỹ tiết kiệm ở ngay các trường Đại học phục vụ
việc rút tiền và nhận tiền của sinh viên cũng góp phần nâng cao việc thu hút nguồn
vốn trong dân cư từ các địa phương khác trong cả nước.
Ngoài ra, nên kéo dài thời gian phục vụ trong ngày của các quỹ tiết kiệm,
phòng giao dịch để có thể đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Nhân viên có
thể thay nhau làm theo 3 ca mỗi ngày: từ 6 giờ đến 11 giờ; từ 11 giờ đến 16 giờ; từ
16 giờ đến 21 giờ. Tuy nhiên trong thời gian đầu chưa có đủ điều kiện về chi phí
cũng như nguồn nhân lực thì có thể áp dụng một vài nơi trọng điểm.
2. Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt hợp lý.
Để thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, giữa các Ngân hàng luôn
có sự cạnh tranh về lãi suất.
Bảng 8: Lãi suất huy động dân cư một số Ngân hàng trên địa bàn HN
(áp dụng từ ngày 17/12/2003)
NGÂN HÀNG
Tiết kiệm VNĐ (% tháng)
KKH 3T 6T 9T 12T
SGDI-NHĐT&PTVN 0.20 0,50 0,52 0,55 0,58
SGD-NH Công Thương 0,20 0,47 0,52 0,55 0,58
SGD-NH Ngoại Thương 0,20 0,53 0,56 0,58 0,60
SGD-NH Nông Nghiệp 0,20 0,47 0,52 0,57 0,58
NH CP Quân Đội 0,20 0,62 0,66 0,66 0,69
Habubank 0,20 0,62 0,66 - 0,68
Qua bảng số liệu trên ta thấy lãi suất của các Ngân hàng Cổ phần thường cao
hơn lãi suất của các Ngân hàng quốc doanh. Như vậy việc SGDI điều chỉnh lãi suất
hợp lý là hết quan trọng, làm thế nào để lãi suất vừa đủ hấp dẫn để thu hút tiền gửi
của dân cư vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không bị lỗ. Em xin
đề xuất giải pháp trong vẫn đề này như sau:
Để kích thích người dân gửi tiền dài hạn, SGDI cần tạo một khoảng cách rõ
rệt giữa lãi suất huy động dài hạn và ngắn hạn, đủ để bù đắp sự mất giá của khoản
tiền gửi và lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên cần phải nghiên cứu để đảm bảo cân
đối và hợp lý giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi. Hiện nay lãi suất của các
Ngân hàng Cổ phần thường cao hơn, nhưng với lãi suất hợp lý, hình ảnh và uy tín
của NHĐT&PTVN, SGDI cũng có thể lôi kéo khách hàng về phía mình.
Có chính sách lãi suất ưu đãi đối với đồng nội tệ so với ngoại tệ để thu hút
được nhiều vốn nội tệ, tạo cho cơ cấu giữa hai loại tiền này ngày càng phù hợp
hơn. Bên cạnh đó, có thể áp dụng các hình thức tặng quà trong dịp lễ tết nhằm
tăng cường mối quan hệ với khách hàng.
3. Đa dạng hoá hình thức huy động.
- Ngoài việc mở rộng các loại tiền gửi mang tính truyền thống thì SGDI
cũng cần nghiên cứu và áp dụng phổ biến các hình thức huy động tiết kiệm có mục
đích:
+ Tiết kiệm xây dựng nhà ở: hình thức này tạo cho Ngân hàng nguồn vốn trung
và dài hạn, đồng thời người gửi cũng được hưởng những lợi ích nhất định. Hiện
nay nhu cầu chi tiêu cho nhà ở là khá lớn, do đó SGDI cần áp dụng một cách rộng
rãi hơn loại hình tiết kiệm này.
+ Tiết kiệm học đường: Hình thức này dành cho các gia đình trẻ, họ có con hoặc
chưa có con nhưng muốn tiết kiệm để sau này có một khoản tiền chi trả cho con
học hành, hình thức này cũng đang được Công ty Bảo hiểm nhân thọ PRUENTIAL
thực hiện. Có thể thấy đây là hình thức mới và phù hợp với mong muốn và tâm lý
của người Việt Nam.
+ Tiền gửi tiết kiệm tích luỹ: Hàng tháng hoặc hàng quý gửi một số tiền nhất
định vào Ngân hàng, thời hạn gửi có thể là 5 năm, 10 năm và lâu hơn. Hình thức
này đã được SGDI áp dụng và có hiệu quả, vì vậy cần được quan tâm và mở rộng.
Ngoài ra SGDI cần có sự cải tiến về mẫu sổ tiết kiệm sao cho phù hợp với
các loại hình tiết kiệm mới để dễ kiểm tra, đối chiếu, tránh những phiền hà không
cần thiết cho khách hàng.
- Đối với kỳ phiếu: Để tạo tính lỏng cho công cụ này thì SGDI cần cho phép
các chi nhánh thực hiện nghiệp vụ chiết khấu kỳ phiếu, mua một nơi có thể chiết
khấu nhiều nơi. Được vậy người mua kỳ phiếu chắc chắn sẽ hài lòng vì vừa được
lãi suất cao và có thể có tiền ngay khi cần thiết.
- Trái phiếu là công cụ huy động vốn dài hạn khá hiệu quả của SGDI nhằm
tài trợ cho các dự án, công trình trọng điểm của Đảng và Nhà nước. Trong thời
gian qua thông qua nghiệp vụ này, SGDI đã góp phần không nhỏ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, để trái phiếu của SGDI đến với
mọi đối tượng khách hàng thì việc đa dạng hoá mệnh giá và kỳ hạn là rất cần thiết.
Với tiền VND có thể đưa thêm vào các mệnh giá như: 1 triệu, 2 triệu...20 triệu
hoặc giá trị cao hơn; với USD thêm các loại mệnh giá: 100 USD, 200 USD... đến
1000 USD hoặc giá trị cao hơn nữa. Kỳ hạn có thể kéo dài hơn như 6 năm, 7 năm...
song phải đảm bảo Ngân hàng kinh doanh có lãi. Vừa hợp với túi tiền vừa được
hưởng lãi mà an toàn hơn các hình thức đầu tư khác, chắc chắn sẽ được mọi tầng
lớp nhân dân hưởng ứng.
- Phát triển tài khoản cá nhân góp phần thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư bởi vì số tiền huy động được có thể thường xuyên biến động nhưng tính trên
toàn bộ tài khoản tiền gửi thanh toán luôn tồn tại một số dư nhất định mà Ngân
hàng có thể sử dụng để cho vay. Hơn nữa chỉ phải chi trả lãi suất thấp hoặc thậm
chí không trả lãi cho các tài khoản thanh toán nên Ngân hàng có điều kiện để hạ lãi
suất huy động bình quân từ đó hạ lãi suất cho vay, nâng cao hiệu qủa kinh tế cho
xã hội.
- Một hình thức huy động vốn cần triển khai trong môi trường cạnh tranh
như hiện nay là đến từng phường, từng khu phố thậm chí là từng gia đình để huy
động người dân gửi tiền, sử dụng các dịch vụ, đặc biệt là các khách hàng lớn của
SGDI.
4. Đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng:
Các loại dịch vụ SGDI áp dụng như: rút tiền tự động, thanh toán và chuyển
tiền trên phạm vi toàn quốc, trả lương hộ cho cán bộ nhân viên, home-banking,
dịch vụ bảo hiểm (phối hợp cùng công ty liên doanh Bảo hiểm Việt - Úc), dịch vụ
chứng khoán (phối hợp cùng công ty chứng khoán NHĐT&PTVN - BSC)...hoạt
động rất hiệu quả trong thời gian qua. Tuy nhiên, để đáp ứng các nhu cầu ngày
càng phong phú và đa dạng của khách hàng, SGDI cần tiếp tục theo đuổi chiến
lược phát triển đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ. Cụ thể:
- Tạo điều kiện cho khách hàng có thể rút tiền tự động ở nhiều địa điểm khác
nhau. Gửi tiền một nơi nhưng có thể rút tiền ở nhiều nơi trong cùng hệ thống,
thanh toán điện tử liên Ngân hàng.
- Mở rộng hoạt động tư vấn cho khách hàng giúp khách hàng có thêm thông tin
về thị trường trong và ngoài nước (có thể tư vấn qua điện thoại).
- Đẩy mạnh hoạt động thanh toán thẻ tín dụng, séc du lịch. Thực hiện các dịch
vụ chiết khấu, cho phép chuyển nhượng các giấy tờ có giá…
- Mở rộng hệ thống Home-banking, bên cạnh các hình thức truyền thống tiếp
tục nghiên cứu và đưa vào sử dụng các sản phẩm mới như Internetbanking, đặc
biệt là Mobilephonebanking cho phép truy cập các thông tin Ngân hàng qua điện
thoại di động.
5. Nâng cao chất lượng phục vụ và đảm bảo các tiện ích cho khách hàng.
Để mở rộng huy động vốn, ngoài việc tìm kiếm khách hàng mới thì SGDI
còn phải duy trì được những khách hàng truyền thống. Muốn vậy cần nâng cao
chất lượng phục vụ và đảm bảo tiện ích cho khách hàng thông qua các nội dung
sau:
Nâng cao chất lượng phục vụ của cán bộ huy động vốn, đảm bảo mỗi cán bộ
ngoài việc thực hiện tốt các nghiệp vụ chuyên môn cần phải có khả năng thực hiện