Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.06 KB, 26 trang )

I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
1. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Những hoạt động chính của các ngân hàng thương mại
1.1.1. khái niệm về NHTM
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường tài chính và các trung gian tài chính thực
hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những người để giành là
những người nhiều vốn tới những người chi tiêu là những người thiếu vốn.
Trên các thị trường tài chính những người đi vay, vay vốn trực tiếp từ người cho
vay bằng cách bán cho họ những chứng khoán, những chứng khoán này là những
trái quyền (quyền được hưởng) đối với thu nhập hoặc tài sản tương lai của người
vay.
Còn những trung gian tài chính là những là những tổ chức tài chính đứng giữa
người cho vay (người tiết kiệm) và người đi vay( người chi tiêu) và giúp chuyển
vốn từ người này sang người sang người kia. Một trung gian tài chính thực hiện
điều này bằng cách vay vốn của người tiết kiệm và sau đó, ngược lại, cho người đi
vay (người chi tiêu) vay vốn. Nhờ có quy mô hoạt động lớn nên các trung gian tài
chính có thể phân tán được rủi ro, giảm chúng tới mức tối thiểu để thu được lợi
nhuận cho mình và đảm bảo thuận lợi đối với khách hàng. Trong thực tế, các trung
gian tài chính được hình thành ở rất nhiều dạng, nhưng nội dung và hoạt động của
chúng lại đan xen lẫn nhau, rất khó phân biệt rõ ràng.
Trong số các trung gian tài chính thì hệ thống các NHTM chiếm vị trí quan trọng
nhất cả về quy mô tài sản lẫn thành phần các nghiệp vụ. Vậy chúng ta nên hiểu thế
nào về NHTM, theo Frederic S.Mishkin( tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính)
thì: " NHTM là một trung gian tài chính, các trung gian tài chính này thu hút vốn
bằng cách phát hành: Tiền gưởi có thể phát sec (tiền gưởi không kỳ hạn),các tiền
gưởi tiết kiệm (là các món tiền gưởi có kì hạn thanh toán định trước). sau đó họ
dùng các vốn này để thực hiện cho vay: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, cho
vay thế chấp và để mua các chứng khoán của chính phủ,các chứng khoán của chính
quyền địa phương''.
Tại Việt Nam NHTM được hiểu như là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt: "


là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền
gưởi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay
thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán'' ( ĐiềuI khoản1,pháp
lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính). Theo luật các TCTD thì:
“NHTM là một loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
những hoạt động khác có liên quan như nhận tiền gưởi, cấp tín dụng và cung ứng
các dịch vụ thanh toán”.
Như vậy điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ chức tài chính khác là NHTM
được thực hiện mọi hoạt động ngân hàng, các trung gian tài chính khác chẳng hạn
như các công ty bảo hiểm, công ty tài chính không được nhận tiền gưởi không kỳ
hạn, không được cung ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của một NHTM
Các NHTM hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, nghĩa là thực hiện 3
nghiệp vụ cơ bản:
Nghiệp vụ quản lý tài sản nợ:
nghiệp vụ này bao gồm việc huy động các nguồn vốn: Huy động tiết kiệm có
thời hạn và không thời hạn, phát hành trái phiếu và thương phiếu, vay các tổ chức
tín dụng(TCTD), các NHTM khác, vốn tiếp nhận tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn
uỷ thác đầu tư... quản lý vốn khả dụng, quản lý sự khớp đúng giữa tài sản nợ và tài
sản có.
Các nghiệp vụ tài trợ cho nền kinh tế :
Đây là những nghiệp vụ chủ yếu của NHTM, nó vừa giúp các NHTM mở rộng
hoạt động kinh doanh tín dụng, tăng thêm lợi nhuân, vừa giúp cho các đơn vị vay
có đủ vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm việc cho vay để
thu lãi suất và đầu tư mua các loại chứng khoán trái khoán chủ yếu là trái phiếu
chính phủ, bán lại chứng khoán nhằm thu chênh lệch giá chứng khoán.
các hoạt động ngoại bảng:
Dịch vụ thanh toán: Dịch vụ thanh toán là đặc thù của các NHTM, tính hiệu quả
của những dịch vụ này đã đem lại lợi ích trực tiếp cho nền kinh tế . Chúng ta thấy
rằng, bất kỳ một trục trặc nào trong hệ thống thanh toán của NHTM cũng đủ để

gây sự bế tắc và thiệt hại cho nền kinh tế.
Nghiệp vụ tài trợ hoạt động ngoại thương: nghiệp vụ này bao gồm việc cho vay
tín dụng bằng ngoại tệ cho khách hàng hoạt động xuất nhập khẩu, mở L/C ngoại tệ
cho khách hàng, làm dịch vụ chuyển tiền ngoại tệ cho khách hàng.
Dịch vụ tư vấn: bao gồm tư vấn về tài chính của công ty, quản lý tiền mặt cho
khách hàng, chủ yếu là cho các công ty, tư vấn môi giới chứng khoán cho khách
hàng, dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, kể cả các dịch vụ pháp lý để công
ty có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Nó còn bao gồm việc thiết kế cho các
khoản vay hợp vốn cho khách hàng đầu tư vào các dự án lớn, mua lại các công ty
khác.
Nghiệp vụ bảo lãnh: bao gồm bảo lãnh các khoản vay trong nước và bảo lãnh
các khoản vay ngoại tệ, phát hành hối phiếu cho khách hàng trong hoạt động
thương mại.
Ngoài ra còn phải kể đến một số các hoạt động khác như: Dịch vụ phát hành
chứng khoán, hoạt động kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh vàng bạc đá quý, dịch vụ
thuê mua (cho thuê văn phòng, máy móc thiết bị) ,dịch vụ chuyển tiền...
Trong các hoạt động của NHTM thì nghiệp vụ tín dụng được xem là hoạt động
quan trọng nhất của các NHTM, bởi nghiệp vụ này tài trợ nguồn vốn cho nền kinh
tế, và đây là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các NHTM.
1.2. Tín dụng và vai trò của tín dụng ngân hàng
Khái niệm về hoạt động tín dụng
Theo điều 2.8 luật các TCTD thì:" hoạt động tín dụng là việc TCTD sử dụng
nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng ". Trong đó "cấp tín dụng là
việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc hoàn
trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng
và các nghiệp vụ khác". Như vậy đối với các NHTM hoạt động tín dụng bao gồm 2
nghiêp vụ cơ bản đó là huy động các nguồn vốn trong dân chúng và dùng nguồn
vốn đó để tài trợ cho nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành
viên của nền kinh tế.
Vai trò của tín dụng ngân hàng

Hoạt động tín dụng của các NHTM là 1 hoạt động quan trọng trong nền kinh tế
của chúng ta vì rằng:
Thứ nhất, Tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng, nó khơi
nguồn vốn từ những người có thể vì lí do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi
sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi. Tức là dẫn vốn từ những người
để giành là những có người dư vốn tới những người chi tiêu là những người có cơ
hội đầu tư để sinh lợi nhưng thiếu vốn.
Thông qua hoạt động tín dụng của các NHTM, các doanh nghiệp nhận khối
lượng vốn bổ sung rất lớn, từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động,
đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất, tín dụng
ngân hàng tập trung những khoản tín dụng nhỏ lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo
khả năng đầu tư vào các công trình lớn, hiệu quả cao. Thông qua quá trình tích tụ
và tập trung, vốn tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Sau
nữa tín dụng là công cụ bình quân bình quân hoá tỷ xuất lợi nhuận. Tín dụng giúp
cho các nhà doanh nghiệp đầu tư vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, kích
thích khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Tín dụng trở thành công cụ làm cho
nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động hơn, mềm
dẻo hơn, linh hoạt hơn và đạt được hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó tín dụng làm
tăng vòng quay của vốn và tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông.
Trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động với
nguồn vốn chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay ngân hàng, theo báo cáo của NHNN
Việt Nam, có đến 80%-90% vốn kinh doanh của các doanh nghiệp được hình thành
từ vốn vay ngân hàng và các TCTD (Trương Quốc Thụ, tạp chí ngân hàng số
7/1998). Nhờ nguồn vốn tín dụng của các NHTM, các doanh nghiệp không những
đảm bảo được quá trình sản xuất bình thường mà còn mở rộng được sản xuất, cải
tiến kĩ thuật, áp dụng kĩ thuật mới, hoạt động tín dụng đã làm cho lưu thông hàng
hoá được phát triển ở trong nước lẫn ngoài nước. Tín dụng có vai trò quan trọng,
nó là đòn bẩy kinh tế trong hệ thống các đòn bẩy kinh tế được sử dụng thường
xuyên và linh hoạt nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Hiệu quả kinh doanh tín

dụng của các NHTM trực tiếp tạo ra một phần giá trị mới, giá trị thặng dư, làm
tăng giá trị tổng sản phẩm quốc nội và tăng nguồn thu ngân sách quốc gia. Hiệu
quả kinh doanh tín dụng góp phần quan trọng thúc đẩy điều kiện kinh tế xã hội tiến
bộ, tăng công ăn việc làm, tăng thu nhập của người lao động, góp phần xoá đói
giảm nghèo, thúc đẩy dân giàu nước mạnh.
Hai là, Thông qua hoạt động tín dụng của mình NHTM có thể tăng cường giám
sát và kiểm tra hoạt động của các công ty. Một khi kỳ hạn tín dụng ngắn, thì thông
qua việc lặp đi lặp lại xét duyệt tín dụng trong một năm, NHTM đã trở thành người
nắm bắt được thông tin tề tình hình tài chính của cũng như điều kiện kinh doanh
của công ty. Thông qua quan hệ với NHTM mà các thông tin trung thực về tình
hình tài chính của các công ty được công khai. Trong trường hợp thông tin tốt thì
công ty có thể phát hành được chứng khoán ra công chúng với chi phí thấp hơn.
Hơn nữa thông qua quan hệ tín dụng với NHTM mà các thông tin về công ty được
công khai hoá, do đó những thông tin sai lệch về công ty sẽ được các nhà đầu tư
điều chỉnh. Điều này khuyến khích được các luồng vốn luôn chuyển đúng địa chỉ,
làm tăng hiệu quả đối với nền kinh tế.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho các
NHTM, theo số liệu điều tra từ một số ngân hàng nước ta cho thấy nguồn thu lợi
nhuận của NHTM có đến 80% trở lên có nơi tới 90% là thu lợi nhuận từ kinh
doanh tín dụng (Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số7/1999). Hơn nữa thông qua
hoạt động tín dụng các NHTM có được thông tin tài chính của các doanh nghiệp, là
cơ sở để làm tốt dịch vụ tư vấn và một số nghiệp vụ khác.
2. RỦI RO TÍN DỤNG
2.1 Định nghĩa về rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi
cấp tín dụng cho một khách hàng. Có nghĩa là khả năng không trả được nợ theo
hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc nói một
cách cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của các
ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn.
Các ngân hàng sẽ không bị đe doạ bởi rủi ro tín dụng nếu luôn luôn nhận được cả

gốc và lãi của các khoản vay đúng thời hạn, ngược lại nếu người vay gặp khó khăn
tài chính, thì cả gốc và lãi khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro không thu hồi
được. Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài sản tài chính do các doanh
nghiệp phát hành và được đầu tư bởi các khoản cho vay của ngân hàng đều được
đảm bảo với mức xác suất cao, lãi thu được thường dưới dạng lãi suất cố định.
Nhưng khi có rủi ro, mặc dù xảy ra với mức xác suất thấp, mức vốn có thể mất lại
không giới hạn. Có thể lấy các trái phiếu có phiếu lĩnh lãi cố định do các doanh
nghiệp phát hành và các khoản cho vay của ngân hàng để chứng minh cho mâu
thuẫn dữa thu nhập và rủi ro tín dụng. Trong cả hai trường hợp nếu không có rủi ro,
nguồn thu nhập của các ngân hàng là có giới hạn dưới dạng lãi suất các khoản cho
vay hoặc lãi suất trái phiếu, ngược lại ngân hàng thường mất toàn bộ phần lãi suất
có thể và có thể một phần hay toàn bộ vốn gốc, điều này còn phụ thuộc vào khả
năng bồi hoàn của tài sản thế chấp và kết quả của việc thanh lý tài sản trong trường
hợp người đi vay phá sản.
2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
2.3. Đo lường rủi ro tín dụng
Để đánh giá mức rủi ro tín dụng trong các quyết định cho vay và đầu tư, các
ngân hàng cần có các phương pháp nhằm xác định khả năng trả nợ của khách hàng.
Điều này phụ thuộc vào khối lượng thông tin về khách hàng mà các ngân hàng có
thể thu thập được. Phần lớn nguồn thông tin thu thập được là do điều tra của ngân
hàng, mua của các tổ chức phân loại và đánh giá tín dụng bên ngoài, thông qua các
báo cáo kế toán tài chính, giá cổ phiếu và trái phiếu hoặc qua báo cáo tổng hợp của
các nhà phân tích, trong đó thì báo cáo kế toán tài chính do khách hàng cung cấp là
quan trọng nhất. Lợi thế của công nghệ thông tin đang làm cho sự đánh giá rủi ro
tín dụng về mặt lượng thậm chí của một khách hàng nhỏ cũng trở nên có tính khả
thi và chi phí thấp.
Các nhà kinh tế, các ngân hàng và các nhà phân tích đã sử dụng nhiều mô hình
khác nhau để phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng cho các khoản tín dụng. Các mô
hình đánh giá này rất đa dạng, bao gồm các mô hình phản ánh về mặt số lượng và
cả những mô hình phản ánh về mặt chất lượng của rủi ro tín dụng. Hơn nữa các mô

hình này không loại trừ lẫn nhau, nên một NHTM có thể sử dụng nhiều mô hình
khác nhau để phản ánh rủi ro tín dụng từ nhiều góc độ khác nhau. Chúng ta sẽ bắt
đầu từ mô hình đơn giản nhất.
2.3.1. Mô hình chất lượng
Trong trường hợp các thông tin có liên quan đến chất lượng của khách hàng
không được công bố rộng rãi, các TCTD phải thu thập thông tin từ các nguồn đơn
lẻ như các hồ sơ về tín dụng và tiền gưởi, hoặc mua thông tin từ bên ngoài như các
tổ chức phân loại và đánh giá khách hàng. Những thông tin này giúp các TCTD
đánh giá xác suất rủi ro của người vay và trên cơ sở đó định giá các khoản vay
hoặc các khoản nợ một cách chính xác.
Nói chung số lượng thông tin cần thu thập cho mỗi khoản tín dụng phụ thuộc
vào quy mô của khoản đầu tư đó và chi phí thu thập thông tin. Tuy nhiên, các yếu
tố chủ yếu liên quan đến quyết định đầu tư được chia thành 2 nhóm: nhóm yếu tố
liên quan đến người cá nhân người vay vốn, và nhóm yếu tố liên quan đến thị
trường ảnh hưởng đến tất cả những người vay vốn vào thời điểm quyết định cho
vay (Anthony Saunders và Helen lange Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân
hàng-NXB thống kê Hà Nội-1999)
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN DẾN NGƯỜI VAY VỐN
Danh tiếng: Danh tiếng của người vay vốn được thể hiện thông qua lịch sử đi
vay và trả nợ của họ. Nếu trong suốt thời gian quan hệ với các NHTM, khách hàng
thường xuyên trả nợ đầy đủ và đúng hạn, họ sẽ có sức hấp dẫn lớn đối với các tổ
chức này. Mối quan hệ lâu dài và tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay có
thể tạo nên các hợp đồng ngầm về vay vốn và trả nợ mà các điều khoản của nó có
thể vượt ra khỏi các hợp đồng chuẩn. Tuy nhiên, mức độ quan trọng của yếu tố
danh tiếng lại gây nên bất lợi cho các khách hàng nhỏ và mối quan hệ của nó với
các NHTM .
Cơ cấu vốn: Cơ cấu vốn thể hiện thông qua tỷ lệ giữa vốn nợ và vốn tự có của
các tổ chức vay vốn. Tỷ lệ này phản ánh xác suất của rủi ro không thu được nợ bởi
lẽ tỷ trọng vốn huy động - thể hiện dưới hình thức trái phiếu hay các khoản tín
dụng - càng cao, mức lãi suất các tổ chức đi vay phải trả càng lớn, khả năng đáp

ứng các nghĩa vụ nợ từ các luồng thu ngân càng giảm. Một tỷ lệ thấp giữa vốn huy
động và vốn tự có sẽ không gây ảnh hưởng đáng kể nào đến xác suất của việc trả
nợ. Nhưng khi tỷ lệ này vượt quá một mức nhất định nào đó, thì xác suất phá sản
tăng lên kéo theo xác suất của rủi ro không thu được nợ tăng lên. Vì thế công ty có
tỷ trọng vốn nợ lớn thường được yêu cầu trả mức phần thưởng rủi ro cao hơn cho
các khoản vay của nó nhằm bù đắp rủi ro tiềm năng mang lại từ cơ cấu vốn .
Chỉ số về khả năng thanh toán :
Khả năng thanh toán chung = Tổng tài sản lưu / động tổng nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này là thước đo khả năng có thể trả nợ của doanh nghiệp, nó chỉ ra quy
mô phạm vi của tài sản lưu động có thể chuyển đổi thành tiền để trang trải nợ trong
kỳ phù hợp với kỳ hạn nợ: Nếu tỉ số này

1 chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn; tình hình tài chính của doanh nghiệp là binh
thường. Nếu tỉ số này<1 có nghĩa là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán
công nợ trong điều kiện bình thường.
Khả năng thanh toán nhanh: Chỉ tiêu này chỉ có ở những doanh nghiệp có
nguồn tài chính dồi dào, doanh nghiệp có thể chủ động thanh toán được bất cứ
khoản nợ nào khi đến hạn thanh toán.
Khả năng thanh toán nhanh = Vốn bằng tiền / Các khoản nợ đến hạn
Nếu tỉ số này

1, doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh. Đối với loại
doanh nghiệp này ngân hàng cho vay sẽ có sự đảm bảo chắc chắn về khả năng trả
nợ. Qua thực tế cho thấy các doanh nghiệp có tỉ số này lớn hơn 0,5 đều có khả
năng thanh toán nhanh.
Khả năng thanh toán cuối cùng: Khả năng thanh toán nhanh chưa đủ tiêu
chuẩn để xét cho vay.
Tài sản có lưu động - tài sản thiếu chờ xử lý -
Khả năng -chênh lệch tỷ giá và chỉ số giá chưa xử lý

Thanh toán = 
cuối cùng Nợ ngắn hạn ngân hàng và các TCTD khác +
các khoản phải trả
Nếu tỉ số này <1 , tình hình tài chính của doanh nghiệp rất xấu, trường hợp này
không nên cấp tín dụng .
Mức độ biến động của thu nhập: Với bất kỳ cơ cấu vốn nào, sự biến động của
thu nhập cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của của người đi vay bao gồm
gốc và các khoản lãi cố định. Chính vì thế đối với các tổ chức cho vay, các khách
hàng là các công ty mới được tổ chức lại hoặc các công ty kinh doanh trong các
lĩnh vưc công nghệ hiện đại sẽ ít hấp dẫn hơn các công ty có lịch sử thu nhập ổn
định thường xuyên và lâu dài.
Các tỉ số về doanh lợi: Trước khi quyết định cho vay vốn đối với doanh nghiệp
cần phải nắm được các chỉ tiêu doanh lợi của doanh nghiệp:
-Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Lợi nhuân ròng Doanh thu tiêu thụ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của một đồng vốn được đầu tư, nghĩa là
một đồng vốn đầu tư sẽ sinh ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
-Doanh lợi vốn tự có = Lợi nhuân ròng Vốn tự có
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của một đồng vốn chủ sở hữu hay nói
cách khác một đồng vốn tự có sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Khả năng sinh lời kinh tế : khả năng sinh lời kinh tế phản ánh hiệu quả sử dụng
tài sản có của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này có thể tính riêng hoặc tính chung cho
từng loại tài sản có.
Khả năng sinh lời kinh tế = Kết quả thu nhập Tổng tài sản có
Trường hợp không lấy được kết qủa thu nhập, ta có thể tính khả năng sinh lời
kinh tế theo công thức sau:
Khả năng sinh lời kinh tế = Lợi nhuận của doanh nghiệp Tổng tài sản có
Điểm hoà vốn: Đối với khoản vay trung và dài hạn, ngân hàng phải tiến hành
phân tích điểm hoà vốn. Điểm hoà vốn là căn cứ quan trọng trong quá trình lựa
chọn quyết định các phương án đầu tư, trang bị thêm. Cũng như đối với doanh
nghiệp xây dựng mới, trước khi đưa ra quyết định cấp tín dụng:

Điểm hoà vốn càng thấp, sự hoàn trả vốn càng nhanh, điều này thể hiện sự linh
hoạt nhạy bén với thị trường, Do đó đối với các doanh nghiệp này ngân hàng có
thể xem xét và cấp tín dụng. Ngược lại đối với những doanh nghiệp có điểm hoà
vốn cao, thời gian thu hồi chậm chứng tỏ khả năng nhạy bén kém, nên khó có thể
thích ứng trong các điều kiện kinh tế thị trường, vì vậy các ngân hàng nên thận
trọng khi cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp này.
Tài sản thế chấp : Một điều kiện chủ yếu trong bất kỳ một quyết định cho vay
nào là mức độ của tài sản thế chấp hoặc tài sản làm đảm bảo cho các khoản vay. Có
những khoản vay (hoặc trái phiếu) có đảm bảo bằng tài sản cụ thể như nhà xưởng,
thiết bị nhưng cũng có những khoản vay (hoặc trái phiếu) không có đảm bảo. Hiển
nhiên khả năng thu hồi nợ của các khoản vay có đảm bảo chắc chắn hơn các khoản
vay không có đảm bảo. Điều đó không có nghĩa là các khoản vay có thế chấp
không chứa đựng rủi ro tín dụng tiềm năng, trừ khi giá trị thị trường của tài sản thế
chấp luôn vượt một cách đáng kể gía trị khoản vay. Ngay cả trong trường hợp này
thì việc siết nợ các tài sản thế chấp cũng mất nhiều thời gian, tốn kém và đôi khi
gặp những điều phiền toái không lường trước được. Vì thế trong mọi trường hợp
tài sản thế chấp chỉ được coi là nguồn trả nợ dự phòng.
CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THỊ TRƯỜNG
Về chu kì kinh tế : Vị trí của nền kinh tế trong chu kì kinh tế có ảnh hưởng rất
quan trọng đến sự đánh giá của NHTM về xác suất rủi ro tín dụng. Chẳng hạn,
trong thời kì suy thoái kinh tế, các doanh nghiệp trong sản xuất hàng hoá tiêu dùng

×