Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Xưng hô trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.89 MB, 4 trang )

CHÀO XUÂN

XƯNG HÔ TRONG GIAO TIẾP

CỦA NGƯỜI NGHỆ TĨNH

(Trên tư liệu thơ ca dân gian xứ Nghệ)
n TS. Nguyễn Hoài Nguyên
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam

1. Đặt vấn đề
Kho tàng thơ ca dân gian xứ Nghệ là một gia tài
đồ sộ lưu giữ các giá trị văn hóa, tinh thần, ngôn ngữ,
văn chương… vô giá của nhiều thế hệ người Việt
định cư trên mảnh đất núi Hồng, sông Lam. Thơ ca
dân gian xứ Nghệ phong phú, đa dạng, gồm nhiều
thể loại như ca dao, hát ví, hát giặm, vè. Cho đến nay,
nhiều cơng trình nghiên cứu đã khảo sát thơ ca dân
gian Nghệ Tĩnh trên các bình diện nội dung và hình
thức từ nhiều góc độ khác nhau. Từ góc nhìn ngơn
ngữ học, một số cơng trình đã khảo sát đặc trưng
hình thức của các thể thơ dân gian Nghệ Tĩnh, tìm
hiểu một số đặc điểm ngơn ngữ của ca dao, của ví
giặm Nghệ Tĩnh...
Ngơn từ trong thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh hết sức
đa dạng, có nhiều nét độc đáo, có tính đặc hữu địa
SỐ 1/2019

phương. Với tư cách chất liệu nghệ thuật,
các thành tố cấu thành phương ngữ Nghệ
Tĩnh đáp ứng đầy đủ nhu cầu giao tiếp


phản ánh một khuynh hướng thẩm mỹ thể
hiện dấu ấn văn hóa một vùng đất từ khe
Nước Lạnh đến Đèo Ngang; đó là sự ưa
chuộng cách nói thẳng thắn, bộc trực, tự
nhiên. Trong thơ ca dân gian Nghệ Tĩnh,
cách dùng từ, cách cấu tạo từ theo hướng
mỹ cảm ngôn ngữ đã thể hiện cách nhìn
hiện thực ít nhiều mang đậm sắc thái văn
hóa địa phương.
Bài viết này, coi phương ngữ như là
điều kiện sống cịn của thơ ca dân gian,
chúng tơi nêu lên một số biểu hiện ứng xử
trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh qua
Tạp chí

KH-CN Nghệ An

[7]


CHÀO XUÂN
cách dùng từ xưng hô, cách cấu tạo từ
xưng hô trong thơ ca dân gian xứ Nghệ.
2. Cách xưng hô trong giao tiếp của
người Nghệ Tĩnh
Ngôn ngữ với chức năng quan trọng
nhất là làm công cụ diễn đạt và qua ngôn
ngữ đã phản ánh cách ứng xử của từng
cộng đồng người khác nhau. Khơng chỉ
có thế, bức tranh văn hóa ngay trong

cùng cộng đồng lại diễn ra khá đa dạng,
qua từng khu vực, vùng miền. Cố nhiên,
sự phân cắt giữa các vùng văn hóa và các
phương ngữ khơng hồn tồn trùng khớp
với nhau, nhưng có thể qua cái lợi khí
đắc lực này, ngơn ngữ đã phản ánh rõ
nét nhất, đậm đà nhất bản sắc văn hóa
khu vực, từng vùng địa lý, dân cư.
Nghệ Tĩnh là một vùng văn hóa mà
dân gian gọi là xứ Nghệ. Một trong
những tinh hoa văn hóa xứ Nghệ là
tiếng Nghệ (cịn gọi là phương ngữ
Nghệ Tĩnh). Cái thứ tiếng, người các
vùng khác cho là trọ trẹ, trầm nặng đã
làm nên hồn vía Nghệ, một thương hiệu
Nghệ. Trong giao tiếp hàng ngày cũng
như trong giao tiếp nghệ thuật, với cái
chất Nghệ, người dân vùng này đã
khoác một vỏ ngữ âm kèm theo giá trị
ngữ nghĩa cho các đơn vị từ ngữ, tạo sự
khác biệt và khơng thể trộn lẫn với vùng
khác. Trước hết, thật khó có nơi nào có
hệ thống từ xưng hơ phong phú như
Nghệ Tĩnh. Người Nghệ, trong xưng gọi
thường dùng các từ như: anh cháu, anh
chắt, anh cu, anh đị, anh hoét, anh
ngoéc, anh mới, anh xạ, anh nhiêu, anh
học, anh nho, ông chắt, ông cu, ông
hoe... Mỗi từ ngữ xưng gọi như thế đều
có nét nghĩa phân biệt. Chẳng hạn: anh

cháu là chỉ người đàn ơng đã có cháu
gái đầu lịng; anh nho chỉ người có học
vấn trong làng; anh xạ (xã) chỉ người
đàn ông đã/đang làm việc làng xã. Khi
xưng gọi, các từ này còn kết hợp với tên
riêng, theo đó, các vai giao tiếp hết sức
cụ thể, thân mật: Bứt cỏ bỏ phân/ Anh
SỐ 1/2019

cu Thân xóm Trại/ Ơng hoe Ngại xóm Trong/ Ơng
chắt Sung xóm Nam/ O Cam xóm Bắc/ Trấy (trái) gấc
bà Thừa/ Cái bừa ơng cu Thiêm (Hát giặm). Hay:
Trèo truông cho đổ mồ hôi/ Mượn khăn điều anh xạ
lau đôi má hồng (Ca dao). Dĩ nhiên, đã có anh cháu,
anh chắt, anh cu, anh đị… thì cũng có ả cháu, bà
cháu, ả chắt, ả cu, ả đị… làm thành từng cặp xưng
hô cân xứng. Chẳng hạn: Không ai khốn nạn/ Bằng
ả cu Kiều (Hát giặm).
Thú vị hơn cả là cách người Nghệ Tĩnh dùng các
danh từ mệ, mự, mụ để xưng hô trong giao tiếp hàng
ngày ở phạm vi gia đình, làng xóm. Từ mệ đối ứng
ngữ âm với từ mẹ, nhưng lại có thêm nét nghĩa vợ. Do
vậy, giao tiếp gia đình, người chồng Nghệ có thể gọi
vợ là mệ; cịn những người khác có thể gọi mệ cháu,
mệ chắt, mệ đị, mệ cu, mệ hoe... Chẳng hạn: Mệ mi
(mày) mô (đâu) ngồi lại/ Tau đi tỉnh mới về/ Chộ
(thấy) những cái thật ghê/ Ngồi đây tau nói chuyện
(Hát giặm). Từ mự Nghệ Tĩnh tương ứng với hai từ
trong tiếng Việt là thím và mợ. Các cặp đơi xưng hơ
chú - thím, cậu - mợ trong tiếng Việt, người Nghệ thay

bằng chú - mự, cụ - mự. Chẳng hạn: Cháu về, anh em
dức lác (chê trách)/ Chú thì nói hầu ri (như thế này)/
Nói thiệt với mự mi (mày)/ Tính mần răng (làm sao)
khỏi khổ (Vè). Hay: Em về thưa với thầy mẹ/ Thưa cụ
mự cơ dì/ Dù gả bán em đi/ Em sua (xua) tay không
lấy/ Em lắc đầu không lấy (Hát giặm). Ngoài tư cách
là một danh từ thân tộc, từ mự Nghệ Tĩnh cịn dùng
để xưng hơ cho nhiều vai giao tiếp khác nhau. Trước
hết, từ mự chỉ những người phụ nữ có tuổi từ 40 trở
lên: Trốc cúi (đầu gối) bằng ống giang/ Lạ lùng chi
hỡi mự (Hát giặm) là lời nhận xét hàm ý chê bai người
phụ nữ có tuổi nhưng dáng vẻ gầy nhom. Nhưng ở tình
huống giao tiếp: Cho dù cho vẹn chữ tịng/ Ai ni con
cho mự lấy chồng mự ơi (Ca dao) thì mự ở đây chỉ quả
phụ (gái góa) cịn trẻ đang ở vào tình thế lựa chọn ni
con hay tái giá. Cịn nữa, trong giao tiếp của người
Nghệ Tĩnh, nhiều trường hợp, từ mự lại có nghĩa chiếu
vật là các cơ gái xn thì: Cơn (cây) da (đa) mà đợi
bến đị/ Bến đị mà đợi cơn da/ Mự xẩn xẩn xa xa/ Tui
(tôi) xẩn xẩn xa xa/ Muốn sum họp một nhà/ Để thành
đôi như đụa (Vè). Hay: Thầy cũng nhủ (bảo) lấy vợ
đi/ Mẹ cũng nhủ lấy vợ đi/ Tui (tôi) chưa muốn chưa
ỳ/ Nhất tâm lịng tơi đợi mự (Ca dao); Trăng lên có
chiếu sao trời/ Hỏi thăm mự xạ (xã) đã ăn trầu ai chưa
(Ca dao).
Tạp chí

KH-CN Nghệ An

[8]



CHÀO XUÂN
Cũng như mệ, mự, từ mụ Nghệ Tĩnh cũng được
dùng cho nhiều vai giao tiếp. Trên khu vực địa
phương, người Nghệ khơng nói vợ chồng mà thay
bằng ơng mụ, hoặc gấy nhông: Thuận ông thuận mụ/
Tát cạn bể Đông/ Thuận buồm xi gió (Hát giặm);
Nước đục thì đã có phèn/ Chanh chua có muối gấy
hèn có nhơng (Ca dao). Cũng trong giao tiếp hàng
ngày, người Nghệ gọi bà già bằng mụ, cũng là từ các
bà già tự xưng. Đây là lời bà lão 70 tuổi trong một bài
vè: Mụ đây cũng nỏ (khơng) lạ/ Tiếng ơng nói láp
(đùa) đã lâu/ Nói củ khoai vạc mọc ra ao/ Nói con rắn
lót ổ bờ rào/ Nỏ (khơng ) được câu mơ (nào) nhằm
(đúng) cả. Từ mụ còn được dùng để gọi các địa chủ
bà đối xử với người ở dối trá, bủn xỉn, keo bẩn, tham
lam, độc ác: Cái mồm mụ nhiếc/ Đứt rọt (ruột) đứt da/
Cái mồm mụ la/ Vơ làng vơ xóm (Vè). Lại có các tổ
hợp mà mụ là yếu tố để tạo nên loạt từ xưng hô dùng
trong phạm vi giao tiếp gia đình, làng xóm rất tự
nhiên, gần gũi: mụ tra (bà già), mụ gia (mẹ chồng),
mụ o (bà cô), mụ nậy (vợ cả), mụ mọn (vợ hai). Chẳng
hạn: Đứa nào bạc ác/ Bàn cho rẽ cửa rẽ nhà/ Tại thơ
trẻ hay ông tra (ông già)/ Tại mụ tra hay con nít (Vè);
Ham chi (gì) bó ló (lúa) quan tiền/ Mụ gia dễ ở chồng
hiền là hơn (Ca dao); Một trăm ơng chú khơng lo/ Lo
vì một chút mụ o nhọn mồm (Ca dao); Người ta mụ
mọn làm tơi/ Cịn tơi mụ nậy số hơi ra gì (Vè).
Các danh từ thân tộc dùng phổ biến để xưng hơ

trong tiếng Nghệ cịn có ả, o, bà o. Ả tương ứng với
chị, o tương ứng với cô, bà o tương ứng với bà cơ
trong tiếng Việt tồn dân: Thung huyên anh ngoại sáu

Xưng hô trong giao tiếp của người Nghệ Tĩnh đa dạng, độc đáo
có tính đặc hữu địa phương

SỐ 1/2019

mươi/ Cảm ơn ả đã có lời hỏi thăm (Hát
phường vải); Nào tình chum với nác
(nước)/ Nào tình giếng với mo/ Nào tình
tui với o/ Như vải mắc trên go/ Cứ
nhung nhăng rứa mãi/ Cứ nhùng nhằng
rứa mãi (Hát giặm); Yêu nhau đem
quách nhau đi/ Bà o trơ mấn (váy) bà dì
hỏng ăn (Ca dao).
Giao tiếp hàng ngày, người Nghệ
dùng phổ biến các đại từ nhân xưng ngôi
thứ nhất, thứ hai, cả số ít, số nhiều như:
tui, tau, mi, hấn, choa, nậu, bay, bọn
choa, nhà choa, bọn bay, tụi bay..., trong
đó, các cặp xưng hơ tau - mi, choa (bọn
choa) - bay (bọn bay) có tần số cao nhất.
Chẳng hạn: Tình ơi có biết chăng tình/
Mi tham tiền bạc mi khinh tau nghèo/
Tau than tau thở đã nhiều/ Mi cứ lắc
trốc (đầu) mi theo thằng giàu (Ca dao)
là lời chê trách thẳng thắn, bộc trực của
chàng trai đối với cơ gái phụ tình vì ham

giàu. Hay: Mấy đứa độc ác/ Trời nổi
phong ba/ Đất nổi can qua/ Cho bay
thất thế bay ra ở chùa/ Còn như choa
bây giừ (giờ)/ Đang là cái thằng sống
tủi (Hát giặm) là lời cảnh báo những kẻ
bất nhân rồi sẽ có kết cục khơng tốt đẹp.
Ngồi Bắc có từ nạ dịng (nạ có
nguồn gốc từ *ná, nghĩa là mẹ) thì Nghệ
Tĩnh có từ mẹ dịng và cũng có từ cha
dịng mà ở ngồi Bắc khơng có: Mẹ
dịng ở vậy ni con/ Khăng khăng chực
tiết, dạ cịn đăm chiêu (Vè); Cha dịng
một áo thì hơn/ Trai tân chín kép mười
đơn chẳng màng (Ca dao).
Ở nhiều vùng nơng thơn Nghệ Tĩnh,
trâu bị chăn thả chung thành bầy và
giao cho một người đàn ông phụ trách,
do đó có từ ghép ơng bầy. Từ ơng bầy
cũng dùng để xưng hô hết sức quen
thuộc: Khắp thôn trong xã ngồi/ Ai
cũng kêu (gọi) bằng ơng bầy cả thảy/ Ai
cũng gọi ơng bầy cả thảy (Hát giặm).
Ngồi cách dùng từ xưng hơ, cách
cấu tạo từ xưng hơ có tính đặc hữu địa
phương, cách ứng xử trong giao tiếp của
Tạp chí

KH-CN Nghệ An

[9]



CHÀO XN
người Nghệ Tĩnh cịn có nét khác biệt, đó là dùng
nhiều cách xưng gọi khác nhau cho cùng một đối
tượng. Chẳng hạn, xưng hơ với bà địa chủ, ngồi
từ bà thơng dụng cịn có các từ chúa bà, ả, vú, mụ.
Chẳng hạn: Bầy tui (chúng tôi) cức cái phận/ Bầy
tui giận cái duyên/ Mắm bà thì mắm đen/ Ba mươi
tầng cộc (gộc) chuối (Vè); Chúa bà ăn rồi lại nằm/
Bắt tui (tơi) xay ló (lúa) tối tăm trong nhà (Ca dao);
Đến ở với ả ốm đau đời đời/ Cơm thì ả bới vơi vơi/
Lườn hai mạnh đọi trời ơi là trời (Vè); Bựa (bữa)
đầu vú nói thương yêu/ Bựa sau vú nói những điều
tốn cơm/ Bựa đầu vú để tơi đơm/ Bựa sau vú nói
tau đơm cho mày (Ca dao); Con mụ mụ ấp mụ yêu/
Con choa mụ bỏ vào niêu nấu xào (Ca dao).
Xưng hô với người vợ đầu (vợ cả), Người Nghệ
dùng các từ mụ nậy, mụ, chị cả, chị, vú. Đó là các
trường hợp: Ba quân thiên hạ/ Người làm mọn đã
thường/ Khi mụ nậy ghen tuông/ Ta kiếm điều ngọt
nhạt (Vè); Sáng mai mụ nhiếc nhối/ Mụ đá thúng
đụng nia/ Mụ nói nọ nói kia/ Những hoa tàn nhị
tàn/ Những hoa tàn nhị rữa (Hát giặm); Thương
anh răng nỏ muốn thương/ Sợ rằng chị cả đón
đường đập em (Ca dao); Thầy sai múc nước/ Chị
dục lấy tăm (Hát giặm); Về đến đầu cựa ngọ (của
ngõ)/ Vú mách vội với thầy/ Coi dì hai hắn đây/ Có
triêng chi (gì) đổ hết/ Có gánh gì đổ hết (Hát giặm).
Chức năng chủ yếu của xưng hô là thiết lập quan

hệ tiếp xúc giữa những người đối thoại và duy trì
cuộc đối thoại giữa các bên tham gia. Do đó, người
Nghệ khơng dùng rặt những từ xưng hơ địa phương
mà tùy từng đối tượng và phạm vi giao tiếp có cách

lựa chọn phù hợp. Có những trường hợp,
người Nghệ dùng từ xưng hô như quân tử,
thuyền quyên, chàng, thiếp, nường, nàng…
mang màu sắc thi ca: Xin mời quân tử vào
chơi/ Thuyền quyên muốn tỏ đôi lời cho
minh (Ca dao); Hay: Xin mời quân tử vào
trong/ Để cho thiếp tỏ chữ tùng một hai (Ca
dao)... Tuy nhiên, giao tiếp trong khu vực
địa phương, nhìn chung, người Nghệ quen
dùng các từ xưng hơ có trong tiếng Nghệ,
chủ động cấu tạo các từ xưng hơ kiểu Nghệ.
Mỗi từ như thế có đặc trưng ngữ nghĩa
riêng, có sắc thái địa phương rõ nét, phản
ánh các tình huống giao tiếp khác nhau, các
cách ứng xử khác nhau trong giao tiếp của
người Nghệ Tĩnh.
3. Kết luận
Trở lên, chúng tôi đã phác thảo vài nét
sơ bộ về cách ứng xử trong giao tiếp của
người Nghệ Tĩnh trên dẫn liệu thơ ca dân
gian địa phương. Còn nhiều khía cạnh khác
chưa được đề cập đến, nhưng rõ ràng đây là
cách xem xét đặc trưng phương ngữ Nghệ
Tĩnh trong tương quan với thơ ca dân gian
xứ Nghệ. Cách tiếp cận này, chẳng những

giúp chúng ta nhận biết chính xác tính chất
đa dạng, sinh động trong giao tiếp của người
Nghệ Tĩnh, thấy được những nét đặc hữu
địa phương của tiếng Nghệ mà cịn có thể
nhận biết khá rõ nét dấu ấn văn hóa riêng
biệt của vùng đất non xanh nước biếc./.

Tài liệu tham khảo

1. Ninh Viết Giao (2004), Về văn học dân gian xứ Nghệ, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
2. Nguyễn Hồi Ngun (2013), Vẻ đẹp của ví giặm Nghệ Tĩnh từ góc nhìn ngơn ngữ, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Nghiên cứu, đào tạo Việt Nam học và tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
3. Trịnh Sâm (2011), Phương ngữ và ca dao dân ca địa phương, trong cuốn Đi tìm bản sắc tiếng Việt, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.

Tài liệu trích dẫn

1. Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao (1963), Hát giặm Nghệ Tĩnh, 2 tập, Nxb Khoa học xã hội, H.
2. Ninh Viết Giao (chủ biên), (1996), Kho tàng ca dao xứ Nghệ, tập 1, Nxb Nghệ An.
3. Ninh Viết Giao (2002), Hát phường vải, Nxb Văn hóa thơng tin, H.
4. Ninh Viết Giao (chủ biên), (2002), Kho tàng vè xứ Nghệ, 9 tập, Nxb Nghệ An.

SỐ 1/2019

Tạp chí

KH-CN Nghệ An

[10]




×