Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.8 KB, 8 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sơng Đà</b>
I. Mở bài
- “Người lái đị sơng Đà” là một tùy bút rất đặc sắc của Nguyễn Tn rút từ tập Sơng
Đà.
- Hình ảnh con sơng Đà với hai đặc tính nổi bật là hung bạo và trữ tình được tác giả
khắc họa đậm nét trong tùy bút. Nổi bật lên là vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sơng
Đà.
II. Thân bài
* Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sơng Đà
- Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” - câu
văn mở đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ
nhắc lại trùng điệp tạo chất thơ.
- Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra
những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương.
- So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa
mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dịng sơng.
- Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng cịi, con hươu ngộ ngẩng
đầu nhìn và hỏi ơng khách sơng Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sơng Đà xúc
động trong thực và mơ.
* Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình
ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:
- Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
- Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trơi, con hươu thơ
ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh và vật
đều ở trạng thái động, khơng chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc
sống nhiều chiều
* Nhà văn đã trải lịng mình với dịng sơng, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống
cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dịng sơng, cho q hương đất nước:
- Thưởng ngoạn vẻ đẹp sơng Đà,lịng ơng dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về
tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.
III. Kết bài
Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những
đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài
năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh
thần của tất cả độc giả chúng ta.
<b>2. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sơng Đà - mẫu 1</b>
Nguyễn Tuân là một con người hết mực tài hoa, uyên bác. Dù chỉ viết văn nhưng ơng
lại có sự am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện
ảnh…Biết vận dụng con mắt nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác để tăng cường khả
năng quan sát, biểu hiện thế giới của nghệ thuật ngôn từ. Và “Người lái đị Sơng Đà”
là một tác phẩm đỉnh cao, thể hiện sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ, cũng như
những quan sát tinh tế của Nguyễn Tuân.
Hình ảnh con sơng Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sỹ với nhiều vẻ đẹp
Dịng sơng Đà khơng chỉ có những “dịng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên
sơng đá” mà nó cịn là bức tranh thủy mặc vương vấn lịng người. Con Sơng Đà hùng
vĩ dài trên năm trăm cây số ,ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và
thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dịng sơng hồn tồn mang bộ mặt
khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, n ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp
trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” để trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình- một nét
tính khác của Sơng Đà đươc Nguyễn Tuân dùng ngòi bút tài hoa để miêu tả mang
đậm chất chữ tình
Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sơng Đà tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc,
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”. Phép so sánh
sông Đà như một áng tóc trữ tình như nhấn mạnh hình dáng dịng sơng mềm mại,
mượt mà, lại dun dáng uyển chuyển, yêu kiều như áng tóc của người con gái. Cùng
vớ hình ảnh ẩn hiện mây trời Tây Bắc và phép so sánh mây trời ấy cuồn cuộn như mù
khói núi mèo đốt nương xn, chính điều này làm tăng thêm vẻ hư ảo kín đáo e ấp
tình tứ của dịng sơng.
sánh thật độc đáo, tinh tế nhưng không kém phần gần gũi. Giúp người đọc dễ dàng
tưởng tượng ra vẻ đẹp thơ mộng chân thực của dịng sơng.
Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Tác giả ví sơng Đà như
một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Mượn một câu thơ trong
bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” –
“Yêu hoa tam nguyệt há Dương Châu “của Lý Bạch,Nguyễn Tuân dường như đã
Ngịi bút và ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tràn đầy âu yếm và nâng niu. Mỗi câu chữ
đều quyện chặt tình yêu với con sông thể hiện sinh động qua biện pháp nhân hóa.
Màu sắc và hình ảnh hiện lên đẹp như một bức tranh. Qua đơi mắt người lái đị, hay là
đôi mắt của tác giả sông Đà tạo nên những dịng cảm xúc thật lạ kì, thần tiên và mộng
mơ quá đỗi. Có lẽ khi yêu mảnh đất này, cảm nhận nó ở mọi khía cạnh đều tốt lên vẻ
đẹp khơng phải nơi nào cũng có được. Và sơng Đà cũng vậy, một vẻ đẹp khiến người
đọc phải ngỡ ngàng.
<b>3. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sơng Đà - mẫu 2</b>
Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ – “suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp” (Gs.
Nguyễn Đăng Mạnh). Tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người
và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đị sơng Đà” là tác phẩm tiêu biểu
cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngịi bút của ơng, sơng Đà hiện lên
hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất dịu dàng và
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hung vĩ, hiểm nguy của
một dịng sơng lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sơng, cảnh
ghềnh Hát Lóong “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió”, cảnh những hút nước rùng
rợn; cảnh thác đá gào thét; dịng sơng với biết bao cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích
tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dịng sơng.
Nguyễn Tn quan sát sơng Đà ở nhiều góc độ. Góc độ thứ nhất là từ trên cao nhìn
xuống. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sơng Đà giống như một người đàn bà
kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “con sơng Đà tn dài tn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân.” Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn
dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dịng sơng; mái tóc của Đà
giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng.
Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ
đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng”
thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc
trữ tình”. Ngun cả cụm từ ấy đã nói lên hết cái chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ,
thơ mộng của dịng sơng. Cảnh vì thế mà vừa thực lại vừa mộng. Hai chữ “ẩn hiện”
càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dịng sơng. Sắc đẹp diễm tuyệt của sơng Đà –
của người đàn bà kiều diễm còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ
láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm
người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban
hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân. Sự nhân cách hóa đó làm sơng
Đà gợi cảm biết bao!
Vẻ đẹp trữ tình của sơng Đà cịn được Nguyễn Tn thể hiện qua việc miêu tả sắc
nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc
của dịng sơng Tây Bắc. Dịng sơng ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả
được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.
Trong cảm nhận của Nguyễn Tn, gặp lại sơng Đà nhận ra con “sơng vui như thấy
nắng giịn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt qng”. Cách so sánh
độc đáo, nhân cách hố, sơng Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến,
phảng phất hơi ấm tình người của dịng sơng. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ,
điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về.
Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ
tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tơi trơi trên sơng Đà” tồn vần bằng tạo
cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng đến lịch sử của những buổi
đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng sông này
Bờ sơng ở đây cịn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh lặng
như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một
vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngơ non đầu mùa mà tịnh khơng
một bóng người, cỏ giành đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó cịn ấn
tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật
đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều
ấy khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hơm
chèo thuyền ngược dịng sơng rồi lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đào nguyên.
Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tn có lẽ cũng tốt lên từ điển
tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dịng sơng Tây Bắc – nơi
khởi nguồn cho tình u đất nước.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con
sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh…bao nhiêu cảnh
bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dịng
sơng trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên
tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến
thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống
mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.
<b>4. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của con sơng Đà - mẫu 3</b>
Nguyễn Tn là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Những tác phẩm của ông là những trang
viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đị sơng
Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngịi bút
của ơng, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “lồi thủy qi nham hiểm và
độc dữ” mà cịn dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.
“Người lái đị sơng Đà” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà văn lên vùng
núi Tây Bắc. Tác phẩm được sáng tác trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc. Đặc biệt là trong chuyến đi vào năm 1958, Nguyễn Tn được sống hịa mình
với thiên nhiên và con người Tây Bắc. Điều này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn để
ông sáng tác.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của
một dịng sơng lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sơng, cảnh
ghềnh Hát Lng “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió”, cảnh những hút nước rùng
rợn; cảnh thác đá gào thét; dịng sơng với biết bao cửa tử cửa sinh… Đến cuối đoạn
trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều điểm nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống
- với điểm nhìn bao quát. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sơng Đà giống như
một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con sơng Đà tn dài
tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xn”.
Hình ảnh so sánh “sơng Đà như một áng tóc” kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài, tuôn
dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dịng sơng; mái tóc của Đà
giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng.
Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ
đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng”
thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc
trữ tình”. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dịng sơng. Sắc đẹp
thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì
rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà.
Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ
mộng của dịng nước cịn có cái dữ dội ngàn đời của con sơng Tây Bắc.
Tác giả đã quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân
đã để cho ngịi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sơng Đà như một cố
nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khơn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào
mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn
trong ánh sáng “lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há
Dương Châu”. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc
tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” - Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng
định vẻ đẹp cổ thi của dịng sơng Tây Bắc. Dịng sơng ấy trong sự liên tưởng đến thơ
Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.
Trong cảm nhận của Nguyễn Tn, gặp lại sơng Đà nhận ra con “sơng vui như thấy
nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt qng”. Cách so sánh
độc đáo, nhân cách hố, sơng Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến,
phảng phất hơi ấm tình người của dịng sơng. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ,
điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng.
Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tơi trơi
trên sơng Đà” tồn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Sự hướng
nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng
như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng khơng gian để gợi mở
thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của
Cảnh vật hai bên bờ sông được Nguyễn Tuân miêu tả chi tiết. Trong cảnh lặng như tờ
của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp
đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh khơng một
bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó cịn ấn tượng
bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật đầy
chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy
khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hơm chèo
thuyền ngược dịng sơng rồi lạc vào một chốn thần tiên. Chất thơ trong đoạn văn viết
về sông Đà của Nguyễn Tn có lẽ cũng tốt lên từ điển tích ấy gợi lên trong tâm trí
của người đọc về vẻ đẹp của dịng sơng Tây Bắc - nơi khởi nguồn cho tình u đất
nước.
Đoạn trích được khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và
con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh… bao nhiêu
cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh
dịng sơng trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
<b>5. Cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sơng Đà ngắn gọn</b>
Sơng Đà đâu chỉ hung bạo, mà cịn là một dịng sơng tuyệt vời thơ mộng. Đặc biệt, từ
mạn Thác Bờ về xuôi, Sơng Đà chỉ cịn vẻ dịu dàng như bất kì một dịng sơng nào ở
vùng đồng bằng. Bởi vậy, bên cạnh tính hung bạo, Nguyễn Tuân rất chú trọng khắc
họa tính trữ tình của dịng sơng này. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng
tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà
như những dịng thơ.
Để khắc họa tính trữ tình, dịu dàng của dịng sơng, trước hết Nguyễn Tn miêu tả
sông Đà một cách bao quát bằng một câu văn đầy hình ảnh và nhịp điệu: “Con Sơng
Tác giả ngắm nhìn sơng Đà ở nhiều thời gian, nhiều không gian khác nhau. Với tình
cảm trìu mến thiết tha, nhà văn đã phát hiện được một cách tinh tế màu sắc của dịng
sơng biến đổi theo từng mùa. Xuân về, Đà giang xanh ngọc bích, tức là màu xanh rất
đẹp, vừa trong xanh lại vừa óng ánh, chứ khơng xanh như màu xanh canh hến. Khi
thu sang, nước Sông Đà một vẻ đẹp riêng.
Tác giả đã dành những đoạn văn hay nhất tả cảnh vật ven sơng Đà để tơn thêm tính
trữ tình của dịng sơng, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy
chất thơ. Nhịp điệu câu văn lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối
điệp: “Bờ Đông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà” để diễn tả niềm sung
sướng đang trào dâng trong lịng tác giả, lúc thì chậm rãi, như dãi ra để diễn tả cái
vắng lặng rất nên thơ của con sông này: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên
mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh khơng một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Hình ảnh một bà tiên sứ, một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa có sức khơi gợi sâu xa, khắc
họa được vẻ đẹp hoang sơ, tồn tại như vĩnh hằng của thiên nhiên. Với cách liên tưởng
và ví von ấy, dường như Sơng Đà cịn có vẻ đẹp của một con sơng bền bỉ chạy qua
bao tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc.