Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Thế giới nhân vật trong truyện ngắn lý văn sâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.2 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ti Na

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN LÝ VĂN SÂM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Ti Na

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN LÝ VĂN SÂM

Chuyên ngành
Mã số

: Văn học Việt Nam
: 60 22 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HỒI ANH



Thành phố Hồ Chí Minh - 2013


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc của mình tới thầy giáo hướng dẫn TS. Trần Hồi
Anh, người đã trực tiếp hướng dẫn,tận tình giúp đỡ tơi trong suốt q trình nghiên cứu,
thực hiện và hồn thành luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo Tổ Văn học Việt Nam
cũng như Khoa Ngữ Văn, Thư viện cùng Phòng Sau Đại học và Công nghệ trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đã ln tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi học tập và
nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cám ơn sự động viên giúp đỡ của gia đình, bạn bè
trong suốt thời gian qua.
Tuy đã cố gắng nhưng luận văn không thể tránh khỏi những sai sót, kính mong sự chỉ
dẫn của q thầy cơ, quý đồng nghiệp và bạn bè.
Tp Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 10 năm 2013
Người viết luận văn
Nguyễn Thị Ti Na

1


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 1
MỤC LỤC .................................................................................................................... 2
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài..............................................................................................................4
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................10

4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................11
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................................11
6. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................................12

CHƯƠNG 1: LÝ VĂN SÂM – CUỘC ĐỜI, VĂN NGHIỆP VÀ QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT .......................................................................................................... 13
1.1. Cuộc đời ......................................................................................................................13
1.1.1. Quê hương và thời niên thiếu ............................................................................... 13
1.1.2. Thời kì trưởng thành và tham gia kháng chiến ..................................................... 14
1.1.3. Thời kì đất nước hồ bình, thống nhất và những năm cuối đời ............................ 15
1.2. Văn nghiệp ..................................................................................................................16
1.2.1. Các giai đoạn sáng tác .......................................................................................... 16
1.2.2. Sự nghiệp văn chương phong phú, đa dạng .......................................................... 18
1.2.3. Văn nghiệp Lý Văn Sâm qua sự tiếp nhận của công chúng ................................. 22
1.3. Quan niệm nghệ thuật của Lý Văn Sâm .................................................................23
1.3.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật về con người ............ 23
1.3.2. Quan niệm nghệ thuật của Lý Văn Sâm trong truyện ngắn .................................. 26

CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÝ VĂN
SÂM NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ..................................................... 32
2.1. Khái niệm thế giới nhân vật......................................................................................32
2.1.1. Nhân vật ................................................................................................................ 32
2.1.2. Thế giới nhân vật .................................................................................................. 33
2.2. Đặc điểm thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lý Văn Sâm .................................34
2.2.1. Một thế giới nhân vật phong phú, đa dạng gắn với cuộc sống cách mạng và
kháng chiến ..................................................................................................................... 35
2.2.2. Một thế giới nhân vật gắn với bản sắc văn hoá đất Phương Nam ........................ 56
2.2.3. Một thế giới nhân vật gắn với những ám ảnh về đời sống tâm linh ..................... 63
2



CHƯƠNG 3: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÝ VĂN SÂM
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT.......................................................... 69
3.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và khắc hoạ nội tâm nhân vật ..............................69
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ............................................................... 69
3.1.2. Nghệ thuật khắc hoạ nội tâm nhân vật .................................................................. 71
3.2. Nghệ thuật khắc hoạ tính cách nhân vật .................................................................73
3.2.1. Xây dựng tình huống nhằm bộc lộ tính cách nhân vật ......................................... 74
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật qua biểu tượng hai mặt và các yếu tố kỳ ảo ........ 82
3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong xây dựng nhân vật .......................................85
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật thể hiện đặc trưng phương ngữ Nam Bộ ............................. 85
3.3.2. Ngôn ngữ đời thường phản ánh sự giao lưu văn hoá của một vùng đất mới ....... 87

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 97
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 103

3


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Khi nhắc đến truyện ngắn trong dòng văn học yêu nước miền Nam các giai đoạn
1945 - 1954; 1954 - 1975 không thể không nhắc đến các tác phẩm của Lý Văn Sâm. Là một
nhà văn tiêu biểu của Đồng Nai nói riêng, của Nam bộ nói chung, cùng với Vũ Anh Khanh,
Lý Văn Sâm được đánh giá “là một trong hai cây bút xuất sắc nhất ở miền Nam” [46,
tr.278] ở giai đoạn 1945 - 1954. Hơn nửa cuộc đời dành cho văn chương, Lý Văn Sâm đã để
lại những dấu ấn sâu đậm trên văn đàn Việt Nam. Ngòi bút điêu luyện của ông đã làm say
mê biết bao độc giả đương thời, đánh thức những tình cảm sâu xa nhất trong tâm hồn con
người.

Tính đến nay, ơng là một trong ba nhà văn của Đồng Nai đã được vinh dự nhận giải
thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
1.2. Lý Văn Sâm là một nhà văn đặc biệt. Thành tựu văn chương của ông quả thực
rất đáng ngưỡng mộ. Trong Lý Văn Sâm nhà văn đường rừng, Bùi Quang Huy đã viết
“Trong thế kỷ XX, ở Đồng Nai, sự nghiệp văn chương chưa ai có thể sánh với Lý Văn
Sâm” [46, tr.5]. Thế nhưng, vì nhiều lí do khác nhau, đến nay những khám phá, hiểu biết
của người đời và giới nghiên cứu về văn chương của ơng cịn q ít ỏi. Điều này quả thật
đáng tiếc, Huỳnh Văn Tới trong Lời giới thiệu tập Nàng Tchô Phay của tôi viết “Lý Văn
Sâm là nhà văn lớn ở xứ Biên Hồ – Đồng Nai “nhau rún”. Khơng hiểu vì sao người ta để
Lý Văn Sâm ngoài từ điển văn học.” [46, tr.416]. Trên báo Văn nghệ Đồng Nai, số 16 - 4 1991, nhà văn Hoàng Văn Bổn cũng viết “Đã từng sống và làm việc văn chương ở thủ đơ
Hà Nội gần ba chục năm, kháng chiến có, hồ bình có, tơi nhận thấy phong trào văn nghệ
miền Nam, văn nghệ sĩ miền Nam ít được hiểu cặn kẽ đến nơi đến chốn. Anh Lý Văn Sâm là
một hiện tượng thiệt thòi ấy. Trong Từ điển văn học, người ta đã cố tình quên anh. Trong
sách giáo khoa nhà trường nhiều lần bổ sung, người ta đã cố tình quên anh, và chẳng biết
bao giờ người ta mới chịu sửa chữa.”[46, tr.378 - 379]. Mặc dù các nhà văn học sử đã“vơ
tình qn” nhưng những giá trị tinh thần mà nhà văn Lý Văn Sâm đã tạo nên bằng chính tài
năng của mình khơng vì thế mà mất đi.
1.3. Lý Văn Sâm sáng tác nhiều thể loại với nhiều đề tài khác nhau: cuộc sống chốn
núi rừng, cuộc sống nơi đô thị, những tranh đấu của con người với thiên nhiên, với giặc giã
4


… Tuy cịn đơi chỗ hạn chế do hồn cảnh khách quan hay chủ quan nhưng gần như ở đề tài
nào, ơng cũng có những sáng tạo, những thành cơng riêng, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng
độc giả. Tuy nhiên, truyện ngắn vẫn là phần đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Cùng với một số tác giả miền Nam khác, truyện ngắn Lý Văn Sâm đã góp “cái duyên”
riêng trong việc làm phong phú thêm diện mạo văn học miền Nam nói riêng và văn học Việt
Nam hiện đại nói chung.
Nhân vật là sự kết tinh của các mối quan hệ đời sống được phản ánh trong tác phẩm.
Với vai trò là một phương diện không thể thiếu được trong mỗi sáng tác văn học, nhân vật

còn là nơi tập trung tất cả các tư tưởng nghệ thuật, đồng thời thể hiện đặc điểm cũng như cá
tính sáng tạo của nhà văn. Thơng qua nhân vật, nhà văn vừa miêu tả thế giới một cách hình
tượng vừa thể hiện quan niệm của mình về hiện thực cuộc sống. Văn học phản ánh thế giới
bằng hình tượng. Vì vậy, việc nghiên cứu hệ thống nhân vật trong truyện ngắn của Lý Văn
Sâm là một trong những hướng tiếp cận để tìm hiểu, giải mã thế giới nghệ thuật của nhà
văn. Việc nhà văn tập trung chủ ý vào một số tầng lớp người nhất định trong xã hội và xây
dựng nhân vật theo cách riêng của mình thể hiện rất rõ thế giới quan, giá trị thẩm mỹ và
thông điệp mà ông muốn gửi tới người đọc.
Với những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề Thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Lý Văn Sâm làm đề tài luận văn. Thông qua việc nghiên cứu một cách hệ
thống về nhân vật và cách xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn sẽ giúp chúng
ta thấy được đóng góp của ơng cho dịng văn học u nước miền Nam nói riêng và văn học
Việt Nam hiện đại nói chung. Từ đó khẳng định đóng góp to lớn của ơng trong tiến trình
văn xuôi Việt Nam hiện đại. Đồng thời, luận văn cũng mong muốn góp phần đem lại một
cái nhìn tồn diện hơn về cuộc đời và văn nghiệp Lý Văn Sâm.

2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu, tìm hiểu về nhà văn Lý Văn Sâm, cũng như đề xuất những hướng khám
phá truyện ngắn của ông là một công việc khá lý thú nhưng khơng đơn giản. Chính vì thế,
các bài viết, các cơng trình nghiên cứu về văn chương Lý Văn Sâm đến nay tuy khơng ít
nhưng hầu như chỉ là những bài viết đánh giá chung về cuộc đời, tác phẩm, và phong cách
nghệ thuật của nhà văn. Riêng phần nghiên cứu về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của
Lý Văn Sâm cịn hạn chế và chưa có hệ thống. Vấn đề này dường như chỉ được nhắc đến rải
5


rác trong một số bài viết đăng trên các báo và tạp chí. Mỗi bài viết là một phát hiện khác
nhau về tác phẩm của Lý Văn Sâm nhưng chủ yếu xoay quanh một số lĩnh vực mà chúng tôi
tạm chia thành hai phương diện dưới đây.
2.1. Những nhận định chung về văn nghiệp và giá trị văn chương Lý Văn Sâm

Lý Văn Sâm xuất hiện trên văn đàn Việt Nam từ những năm 40. Khi đó, ơng mới
ngồi tuổi đơi mươi. Q trình sáng tác cũng là q trình ông đến với Cách mạng. Trong
hoàn cảnh “vừa viết vừa lách”, Lý Văn Sâm vẫn viết được những tác phẩm sâu sắc về nội
dung, già dặn về nghệ thuật và có ý nghĩa đấu tranh. Nhận định về đóng góp của Lý Văn
Sâm, trong Bài viết nhân đọc tập Ngàn sau sông Dịch của Lý Văn Sâm, Sơn Nam, một
trong những nhà văn nổi tiếng cùng thời Lý Văn Sâm, khẳng định “Nếu khơng có Lý Văn
Sâm, văn học ta chịu một thiệt thịi lớn, khơng gì bù đắp nổi.” [46, tr.363]
Phải chăng vị trí khơng thể thay thế của Lý Văn Sâm được tạo ra bằng chính tâm
huyết và sự đôn hậu mà ông gửi gắm trong tác phẩm.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Sâm, khi viết bài Lý Văn Sâm và con người cố thoát
khỏi sự vây hãm của thành thị u buồn đã cho rằng “Lý Văn Sâm là một nhà văn đặc biệt.
Ông ở giữa những nhà văn tranh đấu mà không nhập hẳn vào môi trường đó, bối cảnh
truyện của ơng đi về hai hướng nhưng ở đâu cũng vẫn là người mực thước, nhẹ nhàng….”
[46, tr.300]
Năm 1986, Hoàng Phủ Ngọc Tường, với bài Những cuốn sách tôi đã đọc hồi bé đã
kể lại những kỉ niệm với sách của Lý Văn Sâm thuở còn là học sinh. Đồng thời, tác giả đã
nhận xét “Những cuốn sách đó phù hợp với trình độ tiếp thu của tơi, đã nói với tơi một cách
dịu dàng về lịng nhân hậu biết yêu thương con người, tình yêu lẽ phải, dần dần đi đến tình
cảm u q và kính trọng đối với tổ quốc và dân sinh mình” [46, tr.337]. Minh Vũ, trong
Số phận kì lạ của Ngồi mưa lạnh, tác phẩm của nhà văn Lý Văn Sâm ( báo Văn nghệ
Đồng Nai số 67, tháng 3- 1986) cũng khẳng định “Bạn bè chúng tôi ngày ấy ra đi hồ vào
đội ngũ kháng chiến để góp phần hồn thành khát vọng Độc lập, Tự do của dân tộc (…) có
mang theo một phần ước mơ của các nhân vật trong truyện của Lý Văn Sâm”
[46, tr.344 – 345].
Nhân dịp mừng Lý Văn Sâm trịn 70 tuổi, Khơi Vũ, trong bài Nghĩ về một nghệ sĩ trí
thức dân dã đăng trên báo Tuổi trẻ Chủ Nhật, số 5 – 1991, cho rằng “Dấu ấn văn học của
nhà văn Lý Văn Sâm có lẽ được ghi đậm nét nhất vào thời kì trước Cách mạng tháng Tám
6



đến năm 1955”. Theo tác giả, có được dấu ấn ấy, trước hết là “tinh thần tiến bộ, yêu nước,
lòng nhân ái bàng bạc trong đó đã trở thành một loại vũ khí đặc biệt có sức mạnh khiến
địch phải hoảng sợ.” [46, tr.385].
Văn chương Lý Văn Sâm không chỉ hướng người đọc đến lý tưởng sống cao đẹp mà
còn có khả năng khơi dậy những rung cảm sâu xa trong lòng người.
Lê Văn Thảo trong bài Nhớ mãi nhà văn Lý Văn Sâm, chú Hai Lý (Báo Văn nghệ
Tp. Hồ Chí Minh, số 38 ra ngày 28 – 9 – 2000) đã bộc bạch: “Thuở ấy tôi chưa hiểu biết gì
về văn chương, tơi đọc chú với sự cảm thụ hồn tồn cảm tính, sau này lớn lên vào nghề tơi
hiểu ra chính những cảm xúc ấy, cách dẫn chuyện đưa người đọc vào với khơng khí tâm
trạng lâng lâng mơ hồ một chút vui một chút buồn lẫn lộn ấy thật vơ cùng quan trọng nếu
khơng nói là thiết yếu trong việc gợi mở vào với thế giới văn chương.” [46, tr.433 – 434].
Năm 1992, đáp ứng lòng mong đợi từ lâu của độc giả, Nxb, Đồng Nai cho ra đời
Tuyển tập Lý Văn Sâm. Trong lời giới thiệu cho tuyển tập, Bùi Quang Huy, đã có cái nhìn
tồn diện về cuộc đời, con người và “hành trình văn chương” của Lý Văn Sâm. Tác giả cho
rằng “Quá trình sáng tác của Lý Văn Sâm cũng là hành trình của một trí thức tìm đến và
hoạt động Cách mạng.” [46, tr.373]. Nhận định mảng viết về người trí thức, tác giả khẳng
định: “Lý Văn Sâm trở thành một trong những cây bút hiếm hoi khắc hoạ nhiều gương mặt
trí thức một cách chân thực và sinh động” [46, tr.375]. Những nhận định trên đã phần nào
khắng định đóng góp khơng nhỏ của Lý Văn Sâm với nền văn học đương thời.
Có thể nói, những nhận định trên đều đánh giá cao ngòi bút Lý Văn Sâm. Đồng thời,
chúng cũng phần nào xác lập một chỗ đứng riêng của nhà văn trên văn đàn Việt Nam hiện
đại.
Sẽ thật không đầy đủ, nếu chỉ dừng lại ở những nhận định chung về văn chương của
Lý Văn Sâm, vì thế một số bài viết và cơng trình nghiên cứu cịn đi sâu vào một vài khía
cạnh cụ thể trong sáng tác của nhà văn như đề tài, nhân vật, nghệ thuật .v.v. Những bài viết
này được chúng tôi xếp vào phương diện thứ hai.
2.2. Những nhận định về một số phương diện trong truyện ngắn Lý Văn Sâm
Nhà phê bình Thế Phong, trong bài Lý Văn Sâm, một trong những bài phê bình sớm
nhất về tác phẩm Lý Văn Sâm in trên Tạp chí Văn hố Á Châu (Sài Gịn), số 17/7 năm
1959, sau khi tìm hiểu truyện ngắn của Lý Văn Sâm, đã đưa ra kết luận“có lẽ truyện ngắn

mới là sở trường” của ơng. Bên cạnh đó, ơng cũng khẳng định “Lý Văn Sâm là nhà văn của
7


truyện ngắn xã hội và tâm tình vơ vàn đặc sắc. Ơng cịn tiến bộ nhiều trong thể truyện tâm
lý, ơng là nhà văn có tài, phong phú tình cảm và lối văn trau chuốt, phong nhã…” [46,
tr.298]
Đến năm 1989, khi giới thiệu tác phẩm Mười lăm năm hận sử (Nxb. Trẻ), Nguyễn
Văn Y cũng cho rằng “về truyện ngắn, về loại truyện viết cho tuổi trẻ, Lý Văn Sâm quả là
cây bút có giá trị vào bậc nhất lúc bấy giờ” [46, tr.368].
Trên báo Văn nghệ Vũng Tàu – Côn Đảo số ngày 23- 4 – 1991, Xuân Sách viết bài
Nhà văn Lý Văn Sâm. Trong đó, ơng nhận định “Lý Văn Sâm viết những “truyện đường
rừng” gửi gắm những gì anh quan sát và ấp ủ, những nhân vật mang dáng dấp anh hùng
thảo khấu nhưng hành động lại mang tính cách của người Nam bộ trọng nghĩa khí, phảng
phất tính huyền thoại dân dã nhưng cũng đậm nét hiện thực đời sống.” [46, tr.381]
Sau khoảng thời gian ngắn, trên tạp chí Tác phẩm mới (số 3 – 1992), Phạm Hổ có bài
Đơi lời sau khi đọc Tuyển tập Lý Văn Sâm. Trong bài viết, Phạm Hổ đã phát hiện ra những
giá trị riêng trong truyện ngắn Lý Văn Sâm, đặc biệt là việc xây dựng hình tượng con người
trong tác phẩm “Nhưng đáng quý hơn đó là những con người đã sống trong những khu rừng
và thành phố ấy. Các em bé, các cô gái, các bà mẹ, các đồng chí bí thư chi bộ, các anh
chiến sĩ giải phóng, các nhà báo, nhà thơ …Tất cả đã hiện ra xứng đáng là những con
người tiêu biểu cho nhân dân miền Nam rất hiền lành mà cũng hết mực anh hùng, rất giản
dị ,mà cũng vô cùng đẹp đẽ.
Những con người ấy vừa có dáng hình chung của những con người miền Nam, vừa
có những nét khắc hoạ, mang rõ sắc thái tâm hồn Lý Văn Sâm.” [46, tr.394]
Với mục đích giới thiệu những tác phẩm mới tìm thấy của Lý Văn Sâm, năm 1999,
Nxb. Đồng Nai tiếp tục cho ra đời tập truyện Nàng Tchô Phay của tôi. Trong lời giới thiệu,
Huỳnh Văn Tới cho rằng:“tác phẩm và nhân cách văn chương giàu nét riêng của ông đã in
đậm dấu ấn trong lòng bạn đọc và đồng nghiệp. Lối văn mộc mạc, ngắn gọn, bình dị, ẩn
ngơn, đa ý, hóm hỉnh, mang phong cách Nam bộ …” [46, tr.417] của Lý Văn Sâm là một

nét riêng “dễ dàng chinh phục mọi người” [46, tr.417]
Một nhận định đáng chú ý khác là ý kiến đánh giá của Lý Lan khi viết lời giới thiệu
cho tập truyện Sương gió biên thùy (bài đăng trên báo Sài Gịn Giải Phóng thứ Bảy, in lại
trong sách Khi nhà văn khóc, Lý Lan, Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh,1999). Với cách
nhìn hiện đại của một người viết văn trẻ, Lý Lan đã tìm thấy trong tập truyện “đầy rẫy
8


những chi tiết độc đáo thú vị” [46, tr.421], từ đó, tác giả rút ra kết luận “Đối với bạn đọc trẻ
bây giờ, có lẽ những truyện ngắn của nhà văn Lý Văn Sâm vừa cổ điển vừa tân kỳ: Mới vì
những điều lạ lùng, thú vị mà tác giả kể một cách hồn nhiên và cổ vì phảng phất khơng khí
của thời hồng hoang dã sử. Những câu chuyện ấy làm cho người ta quên ngay cụ già 80, mà
chỉ thấy một người thanh niên đầy hào khí Đồng Nai với những trang viết tình rất chân,
thần rất phóng khoáng” [46, tr.422].
Ở một phương diện khác, khi đề cập đến phương thức phản ánh hiện thực, Nguyễn
Đức Thọ, trong Chuyện người thổi sáo ở bến Xuân (đăng trên báo Văn nghệ số 14, bài viết
sau đó được chọn in lại trong cơng trình Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX, phần nói về tác giả
Lý Văn Sâm), khơng chỉ đánh giá về nội dung mà còn chú ý đến nghệ thuật viết truyện của
Lý Văn Sâm: “Hiện thực trong tác phẩm được phản ánh bằng chiều sâu tâm tưởng. Lý
tưởng Cách mạng, lý tưởng đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc được ơng kín đáo trình
bày một cách thi vị để người đọc tự ngẫm, tự giác ngộ và tự nguyện đi theo tiếng gọi của
đại nghĩa dân tộc”; cách đặt vấn đề “khéo léo, kín đáo và ý vị”;“giọng văn với cách biểu
đạt tinh tế bằng thứ ngôn ngữ dân tộc.” [46, tr.546]
Cuối cùng, xin mượn lời nhận định về nhà văn Lý Văn Sâm của nhà nghiên cứu Trần
Hữu Tá trong Từ điển văn học (bộ mới) để thay lời tổng kết các ý kiến đánh giá về sáng tác
của nhà văn đặc biệt là mảng truyện ngắn :“Hiểu biết sâu sắc tâm trạng người trí thức trong
vùng Sài Gịn tạm chiếm, ơng thể hiện một cách sinh động cuộc sống tù túng, bế tắc của
họ.”, “Đề tài hấp dẫn người đọc nhất là các truyện đường rừng.”, “Ơng có giọng kể bình
dị, dun dáng và xúc động. Cốt truyện thường giàu tính xung đột. Ông chú ý lựa chọn
những chi tiết rất đời thường nhưng li kì, lơi cuốn. Nhân vật trong “Kịn Trô”, “Mười lăm

năm hận sử”, “Xác Mu Mi trên Đá núi dá”, “Răng Sa Mát” … có khi mang dáng dấp anh
hùng thảo khấu nhưng hành động lại mang tính cách Hớn Minh, Tử Trực: ngay thẳng,
ngang tàng, trọng nghĩa; có khi đậm chất hoang đường, hư huyễn nhưng vẫn gợi cho người
đọc nghĩ về thực tại.”, “Là một nhà văn miền Nam tiêu biểu của nửa cuối thế kỷ XX, Lý Văn
Sâm đã có đóng góp xứng đáng cho nền văn học dân tộc”
[15, tr.928 – 929].
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu, những bài viết nêu trên, cần phải kể đến một
số bài viết dưới dạng hồi ức hay bài phỏng vấn của các nhà văn đã từng sống và làm việc

9


với Lý Văn Sâm như Hoàng Văn Bổn, Phạm Thùy Nhân, Trương Võ Anh Giang ... Phần
lớn các bài viết này đều kể lại những kỉ niệm sâu đậm giữa tác giả và nhà văn Lý Văn Sâm.
Ngoài ra, chúng tơi cịn kế thừa thành quả của một số luận văn nghiên cứu về truyện
đường rừng của Lý Văn. Trước hết là luận văn thạc sĩ Truyện đường rừng của Lý Văn
Sâm của Nguyễn Thị Huệ ở Đại học Sư phạm TP. HCM, và gần đây là luận văn thạc sĩ Thi
Pháp truyện đường rừng của Lý Văn Sâm của Nguyễn Thị Hồng Vinh, Đại học Vinh.
Như vậy, nhìn chung các bài viết, các cơng trình nghiên cứu, chỉ mới tập trung đi vào
một vài khía cạnh hay dừng lại ở mức độ nhận định khái quát về cuộc đời và văn nghiệp của
Lý Văn Sâm. Vì nhiều lí do, đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên biệt về
truyện ngắn Lý Văn Sâm nói chung và thế giới nhân vật trong truyện ngắn của ơng nói
riêng. Từ thực tế trên, vấn đề luận văn đặt ra và giải quyết – Thế giới nhân vật trong truyện
ngắn Lý Văn Sâm – chính là sự kế thừa và phát triển thành quả nghiên cứu của những
người đi trước, góp phần khẳng định những đóng góp của Lý Văn Sâm trong dòng văn học
yêu nước miền Nam (1945 – 1975) nói riêng và tiến trình văn học dân tộc nói chung.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 . Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu của luận văn là Thế giới nhân vật

trong truyện ngắn Lý Văn Sâm qua những hình tượng nhân vật tiêu biểu và bút pháp thể
hiện của nhà văn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Hướng tới đối tượng đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài là khảo sát 40 truyện ngắn
của Lý Văn Sâm được in trong Lý Văn Sâm toàn tập (gồm 3 tập, dày 1613 trang, tập hợp
toàn bộ những sáng tác của Lý Văn Sâm đã tìm được tính đến thời điểm xuất bản, sách do
Bùi Quang Huy sưu tầm, chú thích và giới thiệu) Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2002.
Ngồi ra để có cái nhìn tồn diện và bao qt về vấn đề nghiên cứu, chúng tơi cịn
tiếp cận thêm một số tác phẩm ở thể loại khác của ông như : tiểu thuyết Cỏ mọn hoa hèn,
truyện vừa Mười lăm năm hận sử, Sau dãy Trường Sơn, Nga và Thuần,.v.v. (Bùi Quang
Huy sưu tầm, chú thích và giới thiệu) Nxb. Tổng hợp Đồng Nai, 2002.

10


4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu, trong đề tài này, chúng tôi sử dụng
các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp hệ thống
Khảo sát, phân loại và xác định thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lý Văn Sâm trên
tinh thần kết hợp các yếu tố tương đồng về nội dung và hình thức để rút ra những nhận định,
đánh giá chính xác về hệ thống nhân vật trong tác phẩm.
4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu giữa thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Lý Văn Sâm với thế giới nhân vật của một số tác giả khác để từ đó thấy được
sự vận động, phát triển có tính kế thừa, ổn định trong phong cách Lý Văn Sâm và cá tính
sáng tạo của nhà văn.
4.3. Phương pháp lịch sử
Sử dụng phương pháp này, người viết có dụng ý tìm hiểu những dấu ấn thời đại lịch
sử lưu lại trong tác phẩm, những yếu tố tạo nên nguồn cảm hứng sáng tác của nhà văn để

làm căn cứ xác định vị trí của nhà văn trong dòng văn học yêu nước miền Nam giai đoạn
1945 - 1975.
4.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học:
Vận dụng phương pháp này, người viết có thể tìm hiểu, phân tích những đặc điểm
nổi bật của hệ thống nhân vật trong các truyện ngắn Lý Văn Sâm ở một số phương diện như
quan niệm nghệ thuật về con người, nhân vật và các phương thức thể hiện nhân vật…
Ngoài ra trong q trình nghiên cứu, chúng tơi cịn sử dụng một số thao tác và
phương pháp bổ trợ như: Phương pháp loại hình, thao tác phân tích – tổng hợp, phương
pháp liên ngành giữa văn học và văn hóa để làm sáng tỏ vấn đề thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Lý Văn Sâm.

5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn tập trung tìm hiểu những nét chủ yếu về thế giới nhân vật trong truyện
ngắn của Lý Văn Sâm một cách tương đối hệ thống và toàn diện.
- Khẳng định cái nhìn mới mẻ về con người thơng qua cách xây dựng thế giới nhân
vật một cách đa dạng và độc đáo của nhà văn.
11


- Thông qua những thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu của Lý Văn Sâm nhằm góp thêm
tiếng nói khẳng định giá trị ngịi bút Lý Văn Sâm, sự đóng góp của ơng đối với dịng văn
học u nước đơ thị miền Nam trong giai đoạn 1945 - 1975, đặc biệt đối với văn hóa, văn
nghệ vùng đất Đồng Nai.
- Góp phần làm phong phú thêm tư liệu nghiên cứu về văn nghiệp Lý Văn Sâm nói
riêng và văn học yêu nước miền Nam nói chung, từ đó góp một cái nhìn tồn cảnh về nền
văn học Việt Nam hiện đại.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, cấu trúc luận văn gồm ba
chương

Chương 1: Lý Văn Sâm - cuộc đời, văn nghiệp và quan niệm nghệ thuật
Ở chương này, luận văn trình bày những nét khái quát về cuộc đời, văn nghiệp và
quan niệm nghệ thuật của nhà văn trong bối cảnh tranh đấu của vùng đất miền Nam nói
chung và Đồng Nai nói riêng. Từ đó, nêu bật quan niệm nghệ thuật về con người, yếu tố góp
phần làm nên giá trị truyện ngắn Lý Văn Sâm.
Chương 2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lý Văn Sâm
nhìn từ phương diện nội dung
Đây là một trong hai chương trọng tâm của luận văn, qua việc khảo sát những tác
phẩm tiêu biểu, luận văn đi sâu phân tích, so sánh để làm sáng tỏ đặc điểm của thế giới nhân
vật trong truyện ngắn Lý Văn Sâm. Đó là một thế giới nhân vật đa dạng, phong phú gắn với
vùng văn hóa của đất phương Nam hào phóng, đầy khát vọng tự do và những ám ảnh tâm
linh.
Chương 3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lý Văn Sâm
nhìn từ phương diện nghệ thuật
Ở chương này, chúng tôi tập trung làm rõ những đặc sắc của truyện ngắn Lý Văn
Sâm qua nghệ thuật xây dựng nhân vật, xây dựng kết cấu và sử dụng ngơn ngữ. Đồng thời
khẳng định những đóng góp của nhà văn về mặt nghệ thuật đối với văn học Nam bộ nói
riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

12


CHƯƠNG 1: LÝ VĂN SÂM – CUỘC ĐỜI, VĂN NGHIỆP VÀ QUAN
NIỆM NGHỆ THUẬT
1.1. Cuộc đời
1.1.1. Quê hương và thời niên thiếu
Nhà văn Lý Văn Sâm sinh ngày 17 tháng 2 năm 1921 tại một làng nhỏ ở quê ngoại
thuộc vùng Tân Thuận, quận Tân Uyên, tỉnh Biên Hoà (cũ), nay là huyện Tân Un thuộc
tỉnh Bình Dương. Đây chính là “quê hương rừng thẳm sông dài” theo cách gọi của nhà thơ
Huỳnh Văn Nghệ. Vùng này là miệt rừng núi, hồi ấy hãy cịn hoang vu. Vì thế, khơng ít lần,

Lý Văn Sâm nói “tơi sinh ở trong rừng” [46, tr.490].
Q nội của ơng, làng Bình Long, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc tỉnh
Đồng Nai) cũng là một làng nằm giữa vùng rừng núi. Sau này, khi cuộc kháng chiến chống
Pháp bùng nổ, miền này trở thành một phần của chiến khu Đ oai hùng. Theo Hoàng Văn
Bổn – nhà văn đồng hương của Lý Văn Sâm – thì “Bình Long là một cái làng nghèo, quê
mùa, nằm dọc theo sơng Đồng Nai. Từ trên cao nhìn xuống, làng Bình Long chúng tơi như
một cái bàu nhỏ lọt thỏm giữa rừng đại ngàn miền Đông Nam bộ, có con sơng Đồng Nai
như sợi chỉ nhỏ vắt qua, bò, trườn từ Đồng Nai thượng, Lang Biang qua Cát Tiên, thác Trị
An, ngã ba Sông Bé, xuống ngã ba Bình Ninh – cù lao Mỹ Quới, xuống cù lao Thạnh Hội,
Bửu Long, cù lao Phố và tuột ra biển cả” [10, tr.59 - 60]
Bình Long cũng như cả vùng Tân Uyên trước năm 1945 rất nghèo, thế nhưng chính
vùng đất nghèo khổ ấy lại là nơi sinh ra những con người tài hoa trong một thời kỳ sôi động
của đất nước như Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm, Bình Nguyên Lộc, Vũ Anh Khanh,
Hoàng Văn Bổn, …
Lý Văn Sâm là con đầu của ông bà Lý Văn Huề nên được gọi là cậu Hai (theo cách
xưng hô của người miền Nam). Cha của ông làm nghề kiểm lâm nên cả quãng đời thơ ấu
của Lý Văn Sâm trải qua hầu hết ở vùng rừng rậm. Những cảnh thiên nhiên của quê hương
như thế đã in đậm dấu ấn trong tâm hồn ông từ thời thơ bé. Trong các hồi ức Thâm u và cao
cả, Mã Đà sơn cước, Lý Văn Sâm đã nhiều lần nhắc đến những kỷ niệm xúc động về q
hương thuở ấu thơ của mình “Tơi lớn lên ở trong rừng và mãi tới năm bảy tuổi mới được ra
học ở trường tỉnh. Trọn bảy năm, tâm hồn thơ dại của tơi đã thấm sâu bóng núi, hình cây,
tiếng chim, lời suối.” [43, tr.206 – 207]
13


Năm bảy tuổi, ông được cha đưa xuống thị trấn Tân Uyên để học sơ học. Khung cảnh
thơ mộng với những cánh cò trắng và thiên nhiên tươi đẹp, hoang dã nơi đây đã thấm đẫm
tâm hồn lãng mạn của cậu học trị nhỏ “Hàng ngày tơi vẫn thường ra đi một lượt với lũ cị.
Tơi cắp những cặp sách mỏng kèm theo một mo cơm nhão và đếm từng bước nhỏ trên con
đường trải đá son, theo vòng bán nguyệt của giòng nước lụt, giống như một nét viết chì đỏ

và một nét viết chì xanh vẽ song song trên những trang giấy trắng thành hình một cái móng
đóng trên trời … Trưa tôi ở lại và ăn cơm dưới gốc nhãn trong sân trường. Chiều, tôi về
một lượt với đàn cị. Khơng biết buổi sáng cị bay đi đâu mà chiều cò lại về đúng giờ đúng
khắc quá”. [43, tr.408]
Tốt nghiệp tiểu học ở quê, Lý Văn Sâm lần lượt học qua các trường Trung học Pétrus
Ký ở Sài Gòn, Hồ Đắc Hàm, Phú Xuân ở Huế. Cũng tại Huế, ông đã được gặp nhà cách
mạng Phan Bội Châu, và được học với những người thầy nổi tiếng như Hồi Thanh, Thanh
Tịnh.
1.1.2. Thời kì trưởng thành và tham gia kháng chiến
Nhiều năm trong tuổi thanh niên, Lý Văn Sâm đã sống gắn bó với quê hương rừng
núi nhất là khi ơng thay cha làm chủ lị than giữa vùng rừng Mã Đà – Trị An – Đồng Nai
nơi mà trong tạp văn Mã Đà sơn cước, Lý Văn Sâm từng viết “Mã Đà vốn là quê hương
lâu đời của những lồi cây cổ thụ có tên và khơng tên, của những vạt rừng già mênh mông
không vết chân người …” [46, tr.391]. Tình yêu đối với quê hương và sự gắn bó với rừng
núi đã giúp Lý Văn Sâm viết nên những trang văn đặc sắc về cảnh núi non hoang sơ, kỳ vĩ
và cuộc sống của con người mộc mạc, chất phác.
Khoảng năm 1940, ông xây dựng gia đình cùng Tchơ Phay, con gái một vị hương cả
người dân tộc Châu Ro ở huyện Định Quán – Đồng Nai nhưng do hồn cảnh chiến tranh,
ơng và Tchơ Phay thất lạc tin nhau. Mối tình này có ảnh hưởng rất lớn đến sáng tác của Lý
Văn Sâm nhất là những trang viết về người dân tộc thiểu số.
Khát vọng tự do, công bằng trong một xã hội nô lệ đã đưa Lý Văn Sâm đến với Cách
mạng một cách tự nhiên. Trong những ngày tháng Tám sục sôi năm 1945, nhà văn cùng
nhân dân vùng lên cướp chính quyền rồi trở thành cán bộ tuyên truyền của tỉnh Biên Hoà.
Năm 1946, khi Pháp trở lại xâm lược Nam Bộ, Lý Văn Sâm bị bắt, quản thúc tại xã Bình
Trước (nay là thành phố Biên Hồ). Sau khi ra tù, bị mất liên lạc với tổ chức, ông lên Sài
14


Gòn làm báo, viết văn và tham gia các hoạt động điệp báo trong lòng địch. Đây cũng là thời
gian (giai đoạn 1947 – 1950) sáng tác sung sức nhất của Lý Văn Sâm. Vì những tác phẩm

mang yếu tố chống chế độ, ơng lại bị chính quyền thực dân bắt, giam tại khám lớn Sài Gòn
một thời gian ngắn. Năm 1950, trước nguy cơ bị lộ, ông được rút về chiến khu. Năm 1954,
sau hiệp định Giơnevơ, Lý Văn Sâm ở lại hoạt động báo chí và văn nghệ cơng khai tại Sài
Gịn.
Tháng 11 năm 1955, Lý Văn Sâm viết một truyện ngắn có tên là Chng rung trên
tháp đổ đăng trên tập san Xuân dân tộc với bút danh Bách Thảo Sương. Tác phẩm đả kích
trực tiếp chính quyền Ngơ Đình Diệm. Vì thế, ơng bị mật vụ chính quyền Sài Gịn bắt giam
tại bốt Catinat và Trung tâm huấn chính Biên Hồ, tức nhà lao Tân Hiệp. Tháng 12 Năm
1956, ơng tham gia lãnh đạo tù chính trị nổi dậy phá ngục Tân Hiệp, trở về với kháng chiến.
Ơng trở thành Chánh văn phịng Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang tỉnh Thủ Dầu Một (1956
– 1958). Những năm 1959 đến 1961, ông công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền
Nam, với các chức danh: chính trị viên đồn Văn cơng Giải phóng, thư ký tồ soạn báo Văn
nghệ Giải phóng, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật (Bộ Văn hố Chính phủ cách mạng lâm thời
miền Nam Việt Nam). Năm 1962, Hội Văn nghệ giải phóng được thành lập, Lý Văn Sâm là
tổng thư ký đầu tiên của Hội .
1.1.3. Thời kì đất nước hồ bình, thống nhất và những năm cuối đời
Sau 1975, Lý Văn Sâm là Uỷ viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam, Phó tổng thư ký Hội
liên hiệp Văn học – Nghệ thuật Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khoá VI và rất nhiều năm là
Chủ tịch Hội Văn nghệ Đồng Nai. Tuy bận rộn với công việc của những người “tiếp quản”
nhưng có dịp là Lý Văn Sâm lại tìm về những chốn xưa, thăm bạn bè, đồng đội cũ. Những
chuyến “trở về” ấy thôi thúc Lý Văn Sâm đi đến một suy nghĩ “Tất cả những gì ta có được
hôm nay đều phải trả bằng giá hàng vạn đau thương mất mát. Hãy trang trọng viết bằng
chữ hoa đẹp nhất lên trang đầu quyển sách đời ta hai tiếng: BIẾT ƠN” [43, tr.667]. Những
năm cuối đời, ông dự định về quê, cất một căn nhà nhỏ, ở với bà con làng xóm. Đáng tiếc
dự định chưa thành, ơng đã đi ra “ngoài cõi sống”. Lý Văn Sâm mất năm 2000 tại thành phố
Biên Hoà.
Cuộc đời và văn chương Lý Văn Sâm nằm gọn trên những nẻo đường kháng chiến
của dân tộc. Ơng gắn bó với nhân dân và thiết tha với quê hương, nơi ông thường gọi bằng
15



cái tên dân dã “quê nhau rún”. Với thiên chức người cầm bút, “Lý Văn Sâm đã khắc ghi
chân thực bộ mặt của quê hương mình, … ca khúc khải hoàn cho những chiến thắng và hát
bài tang lễ trước nỗi đau thương, mất mát của nhân dân” [47, tr.298]
Ông là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một nhà hoạt động văn hố sơi nổi, nhà
văn giữ nhiều trọng trách văn nghệ trong nhiều giai đoạn cách mạng ở miền Nam. Chính vì
những đóng góp ấy, giới phê bình văn học đô thị miền Nam đã đánh giá Lý Văn Sâm là một
trong những nhà văn xuất sắc nhất của dòng văn chương tranh đấu ở miền Nam thời kỳ
1945 – 1954.

1.2. Văn nghiệp
Lý Văn Sâm là nhà văn khá quen thuộc không chỉ đối với bạn đọc Đồng Nai, q
hương ơng mà cịn đối với bạn đọc cả nước (nhất là giai đoạn 1945 – 1954). Ngoài tên thật
Lý Văn Sâm, nhà văn còn sử dụng nhiều bút danh khác như: Văn Sâm, Huyền Sâm, Mộc
Tử Lang, Ánh Minh, Bách Thảo Sương, Đào Lê Nhân…Năm 1942, Lý Văn Sâm lần đầu
xuất hiện trên văn đàn với nhiều truyện đường rừng tiêu biểu đăng trên tờ Tiểu thuyết thứ
Bảy (93, Hàng Da, Hà Nội). Là một nhà văn trẻ, tài năng, ngay từ khi mới xuất hiện, Lý
Văn Sâm đã viết khá nhiều và nhanh ở đủ mọi thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, kịch, tiểu
thuyết… Thể tài sáng tác của ông cũng khá phong phú, từ thể tài đường rừng, phiêu lưu, dã
sử, tâm lý xã hội, cho đến cả những sách trẻ, sách tuổi xanh … và trải qua nhiều thời kỳ
sáng tác:
1.2.1. Các giai đoạn sáng tác
Có thể nói, văn nghiệp của Lý Văn Sâm bắt đầu từ năm 1941, với truyện ngắn đầu
tay Cây nhị sông Phố đăng trên tờ Tiểu thuyết thứ Bảy, một tờ báo khá danh giá trong đời
sống văn học lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ. Đây cũng là dấu ấn trong sự nghiệp sáng tác của ông
trước Cách mạng tháng Tám.
Những năm kháng chiến chống Pháp, là những năm sáng tác sôi nổi và sung sức nhất
của Lý Văn Sâm, nhất là giai đoạn nhà văn hoạt động ở Sài Gòn (1947 – 1950). Trong
khoảng thời gian này, khá nhiều tác phẩm thuộc loại truyện ngắn và truyện vừa của nhà văn
đã được xuất bản như: Thù nhà nợ nước (1947), Mười lăm năm hận sử (1947), Chiếc

vòng ngọc thạch (1948), Sương gió biên thuỳ (1949), Ngồi mưa lạnh (1949), Sau dãy
Trường Sơn (1949), Nắng bên kia làng (1949), Cỏ mọn hoa hèn (1949), Sóng vỗ bờ xa
16


(1949), Trong cơn loạn ly (1949) v.v… Trong đó, nhiều tác phẩm trước khi in thành sách
đã được in trên các báo Việt bút, Tiếng chuông, Lẽ sống … Hầu hết các sáng tác của Lý Văn
Sâm thời kì này đều đươc in ấn tại Sài Gịn, vì thế, nhà văn đã cố tình che giấu tình yêu quê
hương, đất nước hay thái độ phê phán chế độ thực dân, tay sai dưới vỏ bọc chuyện xưa tích
cũ, chuyện vợ con, gia đình hay trong lớp vỏ truyện đường rừng … Nhưng người đọc vẫn
dễ dàng nhận ra những chủ đề tư tưởng ấy trong sáng tác của ông. Nguyễn Văn Sâm vì thế
đã xem những tác phẩm của Lý Văn Sâm giai đoạn này là “những dòng đầu tiên của văn
nghệ tranh đấu” [46, tr.308]
Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và sau khi nước nhà thống nhất, do phải đảm
nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau để phục vụ Cách mạng, Lý Văn Sâm viết ít hơn nhưng
thơng qua những tác phẩm mang tính chất hồi ức như: Cà Ngá, Người thổi sáo ở bến Xuân,
Chuyện ấy đã qua rồi nhà văn cũng đã khắc hoạ rõ nét những con người kháng chiến miền
Nam đầy khí tiết. Hình ảnh cuộc kháng chiến và sức mạnh quật khởi của dân tộc được Lý
Văn Sâm khéo léo lồng trong câu chuyện mang dáng dấp đường rừng, hay chuyện tình cảm
riêng tư. Các sáng tác trong giai đoạn này có số phận khá kỳ lạ. Sau một chặng đường dài,
mãi đến năm 1988 mới trở về với tác giả. Sau đó được tuyển chọn và in trong tuyển tập Bến
xuân (1982), Ngàn sau sông Dịch (1988).
Bên cạnh những truyện ngắn dưới dạng hồi ức hay tự truyện, sau năm 1975 Lý Văn
Sâm cịn viết khá nhiều bài kí như: Nguyễn Phương Danh – một nghệ sĩ đặc biệt (1976),
Huỳnh Văn Nghệ, chiến sĩ – thi sĩ (1978), Chân dung một nhà thơ đã khuất (1980), Sự
tích đội văn cơng “bỏ túi” (1981), Người chết trẻ mãi (1982)…
Như vậy nhìn chung, quá trình sáng tác của Lý Văn Sâm khá phong phú và trải dài
qua các thời kỳ lịch sử: thời kỳ thuộc Pháp, thời kỳ kháng chiến và thời kỳ sau giải phóng
1975. Tuy nhiên thời gian nhà văn viết khoẻ nhất là vào những năm đầu thập niên 40 đến
cuối thập niên 50. Hầu hết các tác phẩm làm nên tên tuổi ông trên văn đàn cũng là những tác

phẩm ra đời trong giai đoạn này. Dù được viết trước hoặc sau chiến tranh, tác phẩm của Lý
Văn Sâm vẫn là những câu chuyện cảm động về con người và cuộc sống ở ngay chính q
hương ơng.

17


1.2.2. Sự nghiệp văn chương phong phú, đa dạng
Sống, hoạt động và sáng tác ở giữa lịng đơ thị, tuy phải chịu sự kiềm toả của chế độ
thực dân – tay sai, Lý Văn Sâm vẫn biến ngòi bút của mình thành vũ khí chống giặc và ni
dưỡng được tình yêu quê hương nồng nàn, sâu nặng qua từng trang viết.
Lý Văn Sâm viết nhiều thể loại truyện ngắn, bút ký, tiểu thuyết, làm thơ, soạn cải
lương, … nhưng thể loại làm nên tên tuổi của ông là văn xuôi mà trong đó, thành cơng hơn
cả là truyện ngắn. Ngồi đề tài đường rừng như một điểm nhấn trong văn xi của ơng thì ở
đề tài viết về những con người lao động nghèo khổ và người trí thức ở vùng tạm chiến cũng
như đề tài viết về cuộc kháng chiến của dân tộc, ông đều đạt được nhiều thành tựu đáng ghi
nhận . Có thể nói, ở đề tài nào ơng cũng có những khám phá, sáng tạo, và vì vậy dấu ấn của
ơng trong những trang viết này là những giá trị không thể phủ nhận.
Lý Văn Sâm có hơn mười năm nở rộ tài năng, từ năm 1941 khi truyện ngắn đầu tay
Cây nhị Sông Phố được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy đến năm 1956 với truyện ngắn
Chuông rung trên tháp đổ đăng trên báo Xuân dân tộc. Đó là giai đoạn ơng đạt nhiều thành
tựu nhất trong quá trình sáng tác của mình. Các sáng tác của Lý Văn Sâm trong giai đoạn
này đã làm hiện lên hình sơng, dáng núi, cảnh rừng và nhất là hình ảnh con người miền
Đơng Nam bộ (đặc biệt là cảnh và người ở hai vùng đất Sài Gòn và Đồng Nai).
Ẩn đằng sau lớp vỏ chữ nghĩa là trái tim của một nhà văn luôn thổn thức với số phận
của quê hương, đất nước đang bị giày xéo dưới gót giày xâm lược, hay lo lắng cho số phận
những con người đau khổ lầm than, bị chà đạp. Cao hơn hết là khát vọng giành được cuộc
sống Độc lập, Tự do, và một xã hội công bằng.
Ở mảng sáng tác đầu tiên - truyện đường rừng – Lý Văn Sâm đã để lại nhiều tác
phẩm tiêu biểu như truyện ngắn Kịn Trơ, Rồng bay trên núi Gia Nhang, Mũi tổ, Xác Mu

mi trên núi đá, Răng Sa Mát, Thần Ngư Động, truyện vừa Sau dãy Trường Sơn, Sương
gió biên thuỳ, Chiếc vòng ngọc thạch, Một chuyện oan cừu … Trong cuộc đời cầm bút,
Lý văn Sâm có khoảng hơn 12 năm viết truyện đường rừng. Ông viết thể tài này ở giai đoạn
cuối, khi mà gần như chẳng còn ai viết truyện đường rừng nữa. Tuy nhiên, tác phẩm của
ơng vẫn được độc giả nhiệt tình đón nhận bởi những câu chuyện ấy được đặt trong bối cảnh
mới của đất nước. Ông viết loại truyện này từ những ám ảnh của bối cảnh rừng núi nơi chôn
nhau cắt rốn của mình cũng như từ sự gợi ý của nhà văn Vũ Bằng. Nội dung truyện đường
rừng của Lý Văn Sâm không đơn thuần đem đến cho người đọc những hương vị của cảnh
18


rừng núi hay những phong tục lạ, những chuyện lạ của miền ngược như các tác giả Lan
Khai, Thế Lữ hay Tchya đã làm mà truyện của ông thấm đẫm hơi thở của thời cuộc, của
những chí hướng đấu tranh. Cũng vì thế, Lý Văn Sâm đã xác lập cho mình một chỗ đứng
riêng trên văn đàn và trong lịng độc giả.
Thật vậy, ngoài những truyện đường rừng như Răng Sa Mát, Ngăn rạch bắt sấu,
Voi đội đèn … tác giả kể về thiên nhiên và thế giới tâm hồn con người miền núi thì những
truyện cịn lại như Kịn Trô, Rồng bay trên núi Gia nhang, Mũi tổ, Tiếng rên trong rừng
lạnh, Ngày ra đi … đều bộc lộ rõ lí tưởng đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. Nói như
nhà nghiên cứu Bùi Quang Huy “truyện đường rừng của Lý Văn Sâm là sự bắc cầu từ tinh
thần lãng mạn đầy ý nghĩa nhân sinh đến lý tưởng đấu tranh vì độc lập, tự do, dân tộc theo
ánh sáng Cách mạng của nhà văn sau này”[46, tr.373]. Rõ ràng, mảng truyện đường rừng
đã góp phần tạo nên nhà văn tranh đấu Lý Văn Sâm.
Ở mảng truyện thứ hai viết về cuộc sống ở vùng bị tạm chiến, Lý Văn Sâm một mặt
phản ánh hiện thực cuộc sống xã hội, mặt khác lại thể hiện những ước mơ đậm chất lãng
mạn của bản thân. Có lẽ, tâm hồn đa cảm đã giúp nhà văn diễn tả sự chật chội, tù hãm và bi
thương của cuộc sống con người một cách chân thực và xúc động. Ông nói “Đây là mơi
trường quen thuộc gồm gia đình, bạn bè và bà con các khu lao động nơi tôi thường đi lại
hoặc ở trọ lâu ngày. Và cả chính tôi nữa! Kinh nghiệm rút ra của tôi là viết về mơi trường
và những người mình thân thuộc là dễ hay, dễ thành công hơn cả” [46, tr.490].

Trong những truyện ngắn như Lạc lồi, Mưa Sài Gịn, Rửa hờn, Ngồi mưa lạnh,
Thèm một ngọn đèn, Ngàn sau sông Dịch … Ngoài việc khắc hoạ cảnh sống bế tắc, quẩn
quanh của những con người phải sống trong hoàn cảnh xã hội chật hẹp, tù túng, Lý Văn
Sâm còn đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người, bởi ngay trong hiện thực cuộc sống
tủi nhục, đau đớn ấy, con người vẫn khơng ngi khát khao, hồi vọng những điều tốt đẹp.
Bên cạnh những trang viết cảm động về cuộc sống thực của giới văn nghệ sĩ, Lý Văn
Sâm còn rất nhiều những trang viết miêu tả chân thực cuộc sống đen tối của lớp dân nghèo
thành thị đói cơm, rách áo. Nhân vật của ơng khơng chỉ khổ vì kiếm sống vất vả, mà cịn
khổ vì những cuộc bắt bớ, bố ráp giam cầm xảy ra liên miên. Tuy vậy, họ vẫn cố gắng để
giữ lại những phẩm chất tốt đẹp của con người, đó là sự thuỷ chung, tình nghĩa, gắn bó với
mảnh đất quê hương.

19


Có thể thấy, với tư cách là người trong cuộc nếm trải hoặc chứng kiến những gì nhân
vật đã trải qua, nhà văn có lợi thế rất lớn trong việc đi sâu miêu tả và phân tích bi kịch của
những nhân vật tiểu tư sản trí thức và đời sống khốn đốn của người dân trong vùng bị tạm
chiến. Đáng chú ý ở mảng viết này là một số truyện ngắn như Nắng bên kia làng, Tàn một
đời thơ. Ngoài việc diễn tả chân thực tâm trạng băn khoăn day dứt của những con người
phải sống trong cảnh cá chậu chim lồng, những truyện ngắn này còn mang âm hưởng tố cáo
hiện thực xã hội đương thời và vạch trần những khổ đau của cuộc chiến xâm lược gây ra
cho con người.
Ngồi ra, Lý Văn Sâm cịn rất khéo léo khi xây dựng những truyện ngắn mang biểu
tượng hai mặt nhằm phê phán sâu cay tính chất bù nhìn của chế độ chính trị bấy giờ. Truyện
ngắn Chng rung trên tháp đổ là tác phẩm chứa nhiều ẩn ý. Bình Nguyên Lộc một nhà
văn cùng quê với Lý Văn Sâm khi đọc truyện đã nhận xét “Bài rất hay, ai cũng khen ai
cũng mỉm cười, tiên đoán chắc thế nào địch cũng bắt giam Lý Văn Sâm” [46, tr.30]. Và quả
thật khơng lâu sau đó, Lý Văn Sâm đã bị bắt và giam ở Trung tâm Huấn chính Biên Hồ.
Một mảng truyện khác cũng đem lại cho Lý Văn Sâm khơng ít những thành cơng đó

là mảng truyện viết về cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc. Có thể kể đến hàng loạt
truyện ngắn, truyện vừa tiêu biểu như: Đường vào đất Thục, Hồn Do Thái, Ngày ra đi,
Qua bến lạnh, Sa mù, Lau lách đìu hiu, Chng rung trên tháp đổ, Khi rừng thay lá …
Sự xuất hiện hàng loạt truyện ngắn mang hơi hướm tranh đấu của Lý Văn Sâm giữa lịng đơ
thị lúc bấy giờ đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần yêu nước của nhân dân miền Nam. Bùi
Quang Huy khi viết lời giới thiệu tập truyện Gió bãi trăng ngàn đã khẳng định “Bởi vậy,
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều độc giả, nhất là thanh thiếu niên,
sau khi đọc tác phẩm của Lý Văn Sâm, đã xếp bút nghiên, dấn thân trên những nẻo đường
kháng chiến của dân tộc.”[42, tr.20]
Hầu như các tác phẩm ở đề tài này được viết trong khung cảnh cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai. Những sáng tác ấy ít nhiều nói về cuộc đấu tranh
giành độc lập của dân tộc ta thời bấy giờ Nhưng vì tác phẩm được xuất bản cơng khai giữa
Sài Gịn nên nội dung u nước, tinh thần đấu tranh ấy được khúc xạ nhiều lần. Trong điều
kiện “vừa viết lại vừa lách”, Lý Văn Sâm vẫn khéo léo biểu dương tính chất chính nghĩa
của cuộc kháng chiến dân tộc, vạch trần tội ác và sự phi nghĩa của kẻ địch bằng cách lôi cái
xấu xa bỉ ổi của mặt trái đô thị và gián tiếp đề cao giải phóng qn. Khơng có điều kiện để
20


nói rõ về cuộc kháng chiến đang diễn ra, Lý Văn Sâm dồn tâm huyết của mình vào hình ảnh
quê hương, đất nước, một hình ảnh trở đi trở lại trong rất nhiều sáng tác của ông.
Dù viết ở đề tài quốc sử hay mang hơi hướm đường rừng, tác phẩm của Lý Văn Sâm
đều mang dấu ấn của cuộc sống và con người đương thời. Tuy phải dùng cách viết biểu
tượng, Lý Văn Sâm đã phần nào dựng lại hình ảnh quê hương và con người trong kháng
chiến kiên trung, dũng cảm, tận tuỵ … Nhân vật trong truyện ngắn ở mảng đề tài này của Lý
Văn Sâm đều là những con người hào hoa, lãng mạn, trẻ trung và nhất là sục sơi lý tưởng
cao cả “vì nghĩa lớn”. Tuy nhiên, tất cả họ không chỉ đơn thuần minh hoạ cho tư tưởng
chính trị của nhà văn. Trái lại, nhân vật của Lý Văn Sâm ln có sự giằng xé giữa trách
nhiệm và hạnh phúc cá nhân, giữa gia đình và xã hội.
Đặc biệt hiện lên trong một số truyện ngắn là hình ảnh người cán bộ kháng chiến yêu

nước thương dân phải giã từ quê hương lên đường chiến đấu. Họ trải qua một thời gian dài
xa cách người thân. Rồi hồ bình lập lại, những tưởng cuộc trùng phùng khơng gì ngăn cách
được. Thế nhưng, trước âm mưu chia cắt đất nước, họ phải gạt tình riêng, bước tiếp trên con
đường tranh đấu chung của dân tộc. Mười năm thương nhớ (Ban mai, Sài Gòn, 1955) của
ông là một câu chuyện chất chứa nhiều cảm xúc của người viết, gây xúc động cho người
đọc.
Qua mảng truyện này, Lý Văn Sâm đã giúp người đọc ít nhiều cảm nhận được tính
chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đồng thời yêu mến cảm phục những con người
kháng chiến. Đó quả là một đóng góp khơng nhỏ của nhà văn.
Có thể nói, sự nghiệp sáng tác của Lý Văn Sâm là vô cùng phong phú và đa dạng, dù
viết ở đề tài nào, ơng cũng kín đáo bộc lộ tư tưởng đấu tranh Cách mạng và tinh thần yêu
nước của mình. Bởi Lý Văn Sâm trước hết là nhà văn cách mạng. Ông đặt nhiệm vụ cách
mạng lên trên hết. Tuy nhiên, ông cũng không quên dụng công để tạo nên giá trị nghệ thuật
cho những trang viết của mình. Vì vậy, những tác phẩm làm nên tên tuổi của ơng vẫn cịn
sống mãi trong tâm thức người đọc và là một trong những giá trị không thể phủ nhận của
văn học Việt Nam hiện đại.

21


1.2.3. Văn nghiệp Lý Văn Sâm qua sự tiếp nhận của công chúng
Văn chương với chức năng cao cả của mình có thể tạo nên những điều kỳ diệu cho
cuộc sống. Thế nhưng, tác dụng của nó cịn tuỳ thuộc vào tầm đón nhận của người đọc. Đây
là một chuẩn giá trị trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học.
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh các giá
trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ cảm thụ văn bản ngơn từ, hình
tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật… cho đến sản phẩm sau khi
đọc” [29. Tr.325]. Tiếp nhận văn học là một hoạt động sáng tạo, nó làm cho tác phẩm
khơng khép lại mà luôn phát triển theo hướng mở do sự tiếp nhận của người đọc nói như
Đặng Tiến “Yêu một tác phẩm nghệ thuật, giống như yêu một người đàn bà ở điểm là mỗi

lần yêu chúng ta khám phá ở người tình một trinh tiết mới. Yêu một tác phẩm là sáng tạo
một trinh tiết mới cho tác phẩm” [4, tr. 52].
Từ những vấn đề mang tính chất lý luận trên, ta thấy người đọc có vai trị chủ động,
sáng tạo trong việc chiếm lĩnh giá trị tác phẩm văn học. Với vai trò chủ thể tiếp nhận, khi
tiếp cận tác phẩm của Lý Văn Sâm, bạn đọc đương thời có nhiều cách cảm nhận khác nhau.
Tuy nhiên nhìn chung, độc giả đều phát hiện, khám phá những giá trị riêng trong sáng tác
Lý Văn Sâm.
Bùi Quang Tú Trong bài viết Có ba con người trong Lý Văn Sâm đăng trên tạp chí
Văn nghệ số 4126, 01/2013 đã nhận định nét duyên của nhà văn như sau “Nếu ví von một
cách khập khiễng rằng văn học Việt Nam từ những năm 1930 của thế kỉ truớc là một dàn
nhạc giao hưởng, trong đó mỗi nhạc cơng chơi một loại nhạc cụ khác nhau, thì Lý Văn Sâm
chính là người thổi sáo trong dàn nhạc ấy.” [100]
Đứng trên bình diện nghệ thuật, Nguyễn Văn Y trong bài viết Nhà văn từng một
thời được tuổi trẻ hết sức ngưỡng mộ cho rằng “Ngịi bút điêu luyện của ơng đã ít nhiều
khơi dậy trong lịng người tình u q hương đất nước” [46, tr.368]. Tương tự, tác giả Bùi
Quang Huy cũng đưa ra nhận định rất xác đáng khi cho rằng tác phẩm của Lý Văn Sâm là
“những trang văn hay và đẹp có sức lay động những gì sâu xa nhất trong lịng người” [46,
tr.371]
Đánh giá về bình diện nội dung, Khôi Vũ trong bài viết Nghĩ về một nghệ sĩ trí thức
dân dã cũng cho rằng “tinh thần tiến bộ, u nước, lịng nhân ái bàng bạc trong đó đã trở
thành một loại vũ khí đặc biệt có sức mạnh khiến địch phải hoảng sợ” [35,385]. Hay Phạm
22


Hổ trong Đôi lời sau khi đọc Tuyển tập Lý Văn Sâm thổ lộ “Ngay đến giờ phút này, tuy đã
nhiều tuổi, đọc anh, tơi vẫn thấy tốt ra từ những dòng văn anh viết một hơi thở, một chất
men say, của lý tưởng sống và hành động cho Tổ quốc, cho cách mạng …” [46, tr.394]
Nhưng có lẽ tâm đắc nhất với sáng tác của Lý Văn Sâm phải kể đến Hoàng Văn Bổn,
Nhà văn xứ Biên Hoà – Đồng Nai, khi nhận định rằng sáng tác của Lý Văn Sâm “đậm đà
tình quê hương”. Điều này là sự lí giải hợp lí nhất cho nhận định của ơng về Lý Văn Sâm

“từng làm mưa làm gió trên văn đàn miền Nam” [46, tr.377]. Thật chính xác khi cố nhà văn
Sơn Nam, người bạn văn đương thời của Lý Văn Sâm nhận xét “Nếu khơng có Lý Văn Sâm,
văn học ta chịu một thiệt thịi lớn, khơng gì bù đắp nổi” [46, tr.287].
Như vậy, có thể thấy, dù độc giả của nhiều thế hệ khác nhau nhưng đều có những
nhận định thống nhất nhìn nhận những đóng góp riêng về giá trị nội dung và nghệ thuật
trong sáng tác của Lý Văn Sâm. Chính những giá trị đã được thẩm định qua màng lọc thời
gian ấy đã tạo ra một chỗ đứng riêng cho nhà văn trên văn đàn.
Tuy nhiên, khi chúng tôi tiến hành một cuộc khảo sát nhỏ (trong phạm vi nhà trường
- nơi tôi làm việc- và một số trường quanh khu vực) với hai đối tượng Giáo Viên và học
sinh (xem phụ lục), chúng tôi nhận thấy: việc đọc và tiếp nhận tác phẩm của Lý Văn Sâm ở
bạn đọc thế hệ ngày nay (ngay bạn đọc tại Biên Hòa, Đồng Nai, quê hương của nhà văn) là
cả một khoảng trống đáng lưu ý. Bởi đa số đối tượng mà chúng tôi khảo sát (68%) (kể cả
giáo viên dạy văn) không biết hoặc biết rất ít về những giá trị văn chương của nhà văn. Để
giải đáp được câu hỏi “Vì sao một tác giả được đánh giá cao trong dòng văn chương tranh
đấu như Lý Văn Sâm lại phải chịu sự thờ ơ của bạn đọc ngay trên chính q hương mình?”,
trách nhiệm có lẽ thuộc những người phụ trách công tác Văn học nghệ thuật ở Đồng Nai.
Song với tư cách là một người nghiên cứu, một người thuộc lớp bạn đọc trẻ đương thời, tơi
mong rằng những người có trách nhiệm sẽ xem xét và tìm cách để đưa những tác phẩm có
giá trị của Lý Văn Sâm đến gần với bạn đọc.

1.3. Quan niệm nghệ thuật của Lý Văn Sâm
1.3.1. Khái niệm quan niệm nghệ thuật và quan niệm nghệ thuật về con người
Như chúng ta đã biết, tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ.
Mỗi nhà văn, khi sáng tạo tác phẩm đều xuất phát từ những trăn trở suy tư, dằn vặt trước
cuộc sống. Chính những nhân tố ấy tạo thành quan niệm nghệ thuật của nhà văn. Đúng như
23


×