Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

(Luận văn thạc sĩ) một số giải pháp góp phần phát huy vai trò bình ổn giá của khu vực kinh tế nhà nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.07 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

NGUYỄN THỊ THU HÀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2004


-1-

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Từ đầu năm 2004 đến nay do nhiều nguyên nhân trong nước như cúm
gia cầm, hạn hán, hay những nguyên nhân ngoài nứơc như đồng đôla Mỹ
giảm giá, Trung Quốc tiêu thụ nhiều năng lượng, sắt thép, dịch vụ vận tại
biển làm cho cung cầu bị mất cân đối… giá cả đang tăng với tốc độ cao, 11
tháng đầu năm đã tăng 8,8% so với tháng 12 năm 2003, vấn đề này đã tác
động nhiều mặt đến hoạt động của nền kinh tế: chi phí sản xuất tăng, năng
lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm và dịch vụ bị giảm sút, nhiều công trình
đầu tư xây dựng cơ bản bị đình hoãn.
Doanh nghiệp nhà nước có thể đóng góp gì để định hương và điều tiết
vó mô, bình ổn giá?
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đáng tin cậy trong và ngoài nước
đề cập đến hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước biểu hiện cụ thể qua hiệu
quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (vì doanh nghiệp nhà nước là
bộ phận chủ yếu trong khu vực kinh tế nhà nước) và kết quả được ghi nhận
đều giống nhau ở chỗ: doanh nghiệp nhà nước được hưởng quá nhiều ưu đãi,
đặc biệt là ưu đãi về vốn so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh


tế khác, nhưng doanh nghiệp nhà nước lại làm ăn một cách kém hiệu quả và
thiếu tính năng động cần thiết khi chuyển sang cơ chế mới. Hai lý do này đã
dẫn đến hậu quả tất yếu là ngân sách nhà nước – do việc dành ưu ái cho khu
vực này – đã trở nên quá tải, với mức thâm hụt lớn, làm ảnh hưởng đến tổng
thể nền kinh tế nói chung.
Quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới đem lại những thời cơ cho
các doanh nghiệp với thị trường tiêu thụ ngày càng mở rộng, nhưng đồng thời


-2-

cũng tạo ra thách thức cho các doanh nghiệp trước sự cạnh tranh gay gắt trên
thị trường.
Trong tình hình này, khu vực kinh tế nhà nước muốn vững mạnh, có
khả năng cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trong nước và các doanh
nghiệp ngoài nước, thực hiện vai trò định hướng và điều tiết vó mô, bình ổn
giá, nhiều phương hướng cần phải được đặt ra, trong đó nâng cao nội lực cho
bản thân khu vực kinh tế nhà nước là một trong những việc cần thiết. Với
năng lực tài chính dồi dào, kinh tế nhà nước mới có khả năng đầu tư, trang bị
máy móc hiện đại góp phần nâng cao năng suất lao động tạo ra sản phẩm tốt,
giá thành hạ để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, đồng thời phát
huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực
kinh tế nhà nước, giữ vững vị trí chủ đạo trong nền kinh tế theo định hướng xã
hội chủ nghóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, em đã chọn đề tài: “Một số
giải pháp góp phần phát huy vai trò bình ổn giá của khu vực kinh tế nhà
nứơc” cho luận văn Thạc só Kinh tế của mình.
Do lượng thời gian cũng như kiến thức còn hạn chế nên khi thực hiện
luận văn này, chắc chắn em không tránh khỏi sai sót. Kính mong quý thầy cô
nhận xét và góp ý để em có thể mở rộng tầm hiểu biết của mình và thực hiện

tốt hơn ở những công trình nghiên cứu sau này.

2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hiệu quả
hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước biểu hiện qua các doanh nghiệp nhà
nước, kết hợp với việc nghiên cứu các lý luận về tài chính của doanh nghieäp


-3-

để tìm ra một số giải pháp phù hợp nhằm phát huy vai trò định hướng và điều
tiết vó mô, bình ổn giá của khu vực kinh tế nhà nước.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có liên quan đến rất nhiều lónh vực khoa học khác nhau như:
kinh tế, tài chính, kế toán, pháp luật và cả những mối quan hệ quốc tế. Tuy
nhiên, luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu tập trung vào phát huy vai
trò định hướng và điều tiết vó mô, bình ổn giá của khu vực kinh tế nhà nước.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghóa duy
vật biện chứng kết hợp với phương pháp lôgich, phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh…

5. Ý nghóa lý luận và thực tiễn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích có hệ thống các vấn đề lý
luận liên quan đến khu vực kinh tế nhà nước và vấn đề tài chính trong doanh
nghiệp, tổng hợp thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, luận
văn sẽ đề xuất những giải pháp nhằm phát huy vai trò bình ổn giá của khu
vực kinh tế nhà nước.

Bên cạnh đó, thông qua việc phân tích và đánh giá thực tiễn hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua, luận văn sẽ
góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện lý luận về vai trò của khu vực kinh tế nhà
nước, làm cho nó ngày càng hoạt động có hiệu quả hơn và giữ vững vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghóa.


-4-

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 69 trang, 04 bảng, 02 biểu,
được chia làm 3 chương:
Chương 1 :

Một số vấn đề lý luận về khu vực kinh tế nhà nước

Chương 2 :

Thực trạng hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước ở
Việt Nam trong thời gian qua

Chương 3 : Một số giải pháp góp phần phát huy vai trò bình ổn giá
của khu vực kinh tế nhà nước.


-5-

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC

1.1.

Sự cần thiết của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghóa

Chủ nghóa Mác cho rằng việc tổ chức sản xuất trên cơ sở chế độ công hữu xã hội
chủ nghóa là sự khác nhau có ý nghóa quyết định giữa chế độ xã hội chủ nghóa và
chế độ tư bản chủ nghóa. Trong tác phẩm “Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848 –
1850”, lần đầu tiên Mác nêu lên một nguyên lý có ý nghóa quan trọng: “đặt
những tư liệu sản xuất đó dưới sự chi phối của giai cấp công nhân”. Đó chính là
chế độ công hữu tư liệu sản xuất. Chỉ có phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế
công hữu, nhà nước mới có thực lực kinh tế hùng hậu để chủ yếu sử dụng biện
pháp kinh tế hướng dẫn các thành phần kinh tế ngoài công hữu hoạt động theo
nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, nhằm phát huy vai trò cần thiết của chúng
trong phát triển kinh tế, bảo đảm nền kinh tế phát triển lành mạnh.
Chế độ công hữu có 2 hình thức cơ bản: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể. Vì
thế, muốn cải cách, có thể phát triển và làm cho kinh tế công hữu lớn mạnh, cần
chú trọng làm tốt toàn bộ kinh tế sở hữu nhà nước. Kinh tế nhà nước có vai trò
chủ đạo theo nghóa là công cụ vật chất của nhà nước để chi phối và điều tiết sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Khẳng định lấy chủ nghóa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghóa, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế Nhà nước


-6-

cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc trong nền kinh

tế quốc dân.
1.2.

Khái niệm về kinh tế nhà nước

Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước và các sở hữu của nhà
nước, như: đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ … và kể cả một phần vốn của nhà
nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Như vậy kinh tế nhà nước có 2 bộ phận: doanh nghiệp nhà nước và bộ phận phi
doanh nghiệp như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ …
Kinh tế nhà nước bao gồm tất cả các lónh vực hoạt động của nhà nước có liên
quan đến quá trình phát triển và tăng trưởng kinh tế. Do vậy, các doanh nghiệp
nhà nước phải được phát triển trong những ngành, những lónh vực trọng yếu.
Doanh nghiệp nhà nước nói chung phải có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiến bộ,
kinh doanh có hiệu quả tạo nguồn thu lớn cho ngân sách. Các doanh nghiệp nhà
nước là chỗ dựa, là đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những
vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng
phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện các chức năng điều tiết
và quản lý vó mô tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Do đó cần đi sâu cải cách
doanh nghiệp nhà nước để làm cho kinh tế nhà nước ngày càng lớn mạnh và
hoàn thiện, bởi vì kinh tế sở hữu nhà nước là trụ cột của kinh tế quốc dân.
1.3.

Vai trò của kinh tế nhà nước

1.3.1. Vai trò kinh tế
a. Thực hiện chiến lược tăng tốc, rút ngắn và tạo dựng cơ sở kinh tế của nhà
nước xã hội chủ nghóa,
Do xuất phát điểm của sự phát triển ở các nước đang phát triển là một trạng
thái chậm phát triển của nền kinh tế biểu hiện ở: mức thu nhập bình quân đầu

người thấp, công thương nghiệp chưa phát triển, nông nghiệp còn chiếm vị trí là


-7-

nền tảng, đại bộ phận dân cư sống trong nông nghiệp, kỹ thuật và công nghiệp
lạc hậu.
Nền kinh tế chậm phát triển cũng có nghóa là mức độ tập trung sản xuất là
rất thấp, hệ thống kinh doanh của nền kinh tế là hệ thống kinh doanh nhỏ, phân
tán, manh mún, ít vốn với kỹ thuật, công nghệ còn lạc hậu.
Trong hệ thống kinh doanh của nền kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vị trí duy
nhất thực hiện sứ mạng lịch sử của việc tạo lập những yếu tố quyết định cho một
chiến lược phát triển rút ngắn, tăng tốc vì:
Thứ nhất: ưu thế về quy mô tập trung sản xuất, do đó, là ưu thế về khả năng
huy động vốn và khả năng tham gia vào thị trường thế giới.
Thứ hai: với sức mạnh dựa vào quy mô tập trung sản xuất kinh doanh, kinh
tế nhà nước có ưu thế trong việc chuyển giao công nghệ hiện đại.
b. Kinh tế nhà nước tham gia giải quyết những vấn đề kinh tế trong nền kinh tế
thị trường.
Khắc phục trạng thái độc quyền tự nhiên, những tác động hướng ngoại phát
sinh trong nền kinh tế thị trường.
Lấp vào những chỗ trống mà khu vực kinh tế tư nhân hoặc không muốn làm,
hoặc không có khả năng làm được, đồng thời không thể dùng những giải pháp vó
mô để giải quyết.
Kinh tế nhà nước trong việc đầu tư vào những ngành quyết định cho sự phát
triển dài hạn và hiệu quả chung của nền kinh tế làm cho nó có một vai trò đặc
biệt, vai trò giá đỡ của nền kinh tế.
1.3.2. Vai trò chính trị
a. Kinh tế nhà nước cung cấp cho nhà nước một cơ sở kinh tế, để nhà nước trở
thành một lực lượng chi phối trực tiếp đối với bộ phận kinh tế tư nhân.



-8-

Đối với một nước quá độ lên chủ nghóa xã hội, nó cung cấp nguồn lực
chính, chủ yếu cho hoạt động nhà nước bên cạnh nguồn thu từ thuế, là công cụ
trực tiếp hữu hiệu để thúc đẩy nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghóa và
thực hiện những mục tiêu kinh tế, xã hội do Đảng cộng sản và Chính phủ đề ra.
b. Là khu vực cung cấp những hàng hóa, dịch vụ cho các hoạt động quốc phòng.
Trong điều kiện một nước chậm phát triển, tư nhân không thể làm được hoặc
không được phép làm, hoặc không muốn làm vì không có lợi nhuận hấp dẫn.
1.3.3. Vai trò xã hội
a. Để điều tiết nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, giúp cho xã hội giữ được
trạng thái ổn định.
Trong nền kinh tế thị trường, dù là kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân
đều chịu sự chi phối của quy luật thị trường, trong đó để tồn tại và phát triển nó
phải tạo ra lợi nhuận. Nhưng hoạt động của kinh tế thị trường có những khuyết
tật gây hiệu ứng xã hội. Đó là: trong giai đoạn khủng hoảng, lợi nhuận giảm
đáng kể, nhiều nhà kinh doanh rút lui khỏi kinh doanh, tạo ra thất nghiệp lớn; để
khắc phục tình trạng này, những chính sách kinh tế vó mô chiếm vị trí quyết định.
Ở đây, kinh tế nhà nước có một vai trò nhất định: nó tạo ra công ăn việc làm,
giúp cho xã hội giữ được trạng thái ổn định.
b. Giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập và
giảm sự bất bình đẳng trong xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi.
Một trong những nguồn gốc của quá trình này là quá trình tập trung hóa, hiện đại
hóa, và kết quả là giải phóng lao động, gây nên nạn thất nghiệp. Nhưng tập trung
hóa, mở rộng quy mô, thúc đẩy công nghệ kỹ thuật là tất yếu của quá trình theo
đuổi lợi nhuận tăng lên, vì thế không thể ngăn ngừa quá trình này được. Để tạo
nhiều việc làm, thì phải tạo ra những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Đây



-9-

là chỗ nhà nước cần can thiệp. Bằng doanh nghiệp nhà nước sử dụng nhiều lao
động, nhà nước có thể giúp giải quyết những vấn đề này: làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp, làm tăng thu nhập và do đó giảm được sự bất bình đẳng.
c. Hình thành sự phát triển cân đối giữa các địa phương.
Trong một quốc gia, có những vùng xa xôi hẻo lánh, trình độ phát triển
thấp, dân cư ở những vùng này phải chịu thiệt thòi vì sự phát triển mất cân đối.
Để cải thiện những vùng này, vấn đề là phải có chính sách đầu tư và những cơ sở
kinh tế được xây dựng để cung cấp những dịch vụ, đồng thời tạo ra công ăn việc
làm ở đây. Cũng lại những doanh nghiệp nhà nước mới có điều kiện để thực hiện
những chương trình dự án cải thiện những vùng kém phát triển của đất nước.
d. Cung cấp các dịch vụ công cho toàn xã hội.
Xã hội phát triển, hàng hóa và dịch vụ công cộng cũng tăng. Những hàng
hóa và dịch vụ công cộng này sẽ tăng phúc lợi lên đáng kể. Ở đây, phúc lợi công
cộng được phân phối đều cho mọi người, vì thế tăng phúc lợi công cộng cũng tức
là tăng mức độ công bằng. Đối với những nước chậm phát triển, doanh nghiệp tư
nhân còn nhỏ, phân tán, thì doanh nghiệp nhà nước có vai trò quyết định đối với
việc sản xuất hàng công cộng.
1.4.

Vị trí chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta
1.4. 1. Sự tồn tại tất yếu nhiều thành phần kinh tế trong giai đoạn quá
độ lên chủ nghóa xã hội

Theo nguyên lý của chủ nghóa Mác – Lênin, dù mỗi nước có đặc điểm khác nhau
nhất định, nhưng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội đều có ba thành

phần kinh tế chủ yếu.
Thành phần kinh tế mang tính chất xã hội chủ nghóa (kinh tế nhà nước,
kinh tế hợp tác).


-10-

Thành phần kinh tế của những người sản xuất hàng hóa nhỏ (tư hữu nhỏ,
cá thể của người lao động).
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
Dựa trên nguyên lý chung đó, trong điều kiện của nước ta, theo Hiến pháp 1992
được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001-QH10 ngày 25 tháng 12 năm
2001, nền kinh tế bao gồm những thành phần kinh tế sau:
Kinh tế nhà nước.
Kinh tế tập thể.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Dựa vào các thành phần kinh tế này, Nhà nước xây dựng các chính sách phù hợp
để phát triển đất nước. Như Điều 16 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghóa
Việt Nam (1992), đã được sửa đổi bổ sung năm 2001, quy định: “Mục đích chính
sách kinh tế của nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng
lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm: kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế
tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc
đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ
thuật và giao lưu với thị trường thế giới”.
1.4. 2. Vị trí chủ đạo của kinh tế nhà nước

Nền kinh tế tồn tại và phát triển với cơ cấu nhiều thành phần (là tất yếu
hợp quy luật và là cần thiết của thực tiễn xây dựng đất nước). Các thành phần
kinh tế này tồn tại và hoạt động không biệt lập mà có quan hệ tác động biện


-11-

chứng, gắn bó hữu cơ với nhau trong cạnh tranh và hợp tác, góp phần thực hiện
và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế hàng hóa lớn ở nước ta, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Chủ đạo không có nghóa là kinh tế nhà nước có mặt ở khắp nơi, sản xuất
kinh doanh đủ mọi mặt hàng, nhiều hơn, lấn át các thành phần phần kinh tế khác.
Như vậy không phải là chủ đạo, và làm như vậy thì không thể thực hiện được vai
trò chủ đạo. Vì nếu cái gì cũng làm, mà năng lực lại có hạn, thì không làm được
cái gì cả, không tạo được sức mạnh. Chủ đạo là kinh tế nhà nước tạo được cho
mình thế và lực để từ đó tác động, giúp đỡ, lôi kéo, chuyển hóa sự hoạt động của
các thành phần kinh tế khác cùng vận động trong quỹ đạo: tuân thủ quy luật và
pháp luật, làm giàu cho mình và cho đất nước, phục vụ phát triển sản xuất và đời
sống theo định hướng xã hội chủ nghóa.
Như vậy để làm được chủ đạo, kinh tế nhà nước phải tập trung nắm giữ,
hoạt động có hiệu quả ở những ngành hàng, những khâu trọng yếu, chiến lược,
then chốt như: các loại sản phẩm có tầm quyết định sự ổn định và phát triển của
nền sản xuất, những mặt hàng quan hệ đến vận mệnh của nền kinh tế và đời
sống xã hội. Đồng thời, kinh tế nhà nước cũng phải đảm nhiệm sản xuất kinh
doanh những mặt hàng mà các thành phần kinh tế khác không được phép sản
xuất kinh doanh (vì an ninh quốc gia), không có khả năng sản xuất kinh doanh,
hoặc không muốn sản xuất kinh doanh, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế –
xã hội. Phần còn lại, ở những ngành hàng thông thường, kinh tế nhà nước không
nhất thiết phải tham gia đầu tư sản xuất kinh doanh, mà thực hiện nguyên tắc: “ai
làm tốt việc gì hãy tạo điều kiện cho họ làm”, Nhà nước quản lý bằng biện pháp

kinh tế – hành chính, để kinh tế nhà nước tập trung sức lực làm tốt vai trò chiến
lược không ai thay thế được của nó.


-12-

Mặt khác, kinh tế nhà nước, dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghóa,
đại diện cho quan hệ sản xuất tiên tiến, phải nêu tấm gương ưu việt về trình độ,
năng lực tổ chức và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh: khoa học, trung thực,
lành mạnh, văn minh và hiệu quả. Muốn vậy, nó phải không ngừng đổi mới,
hoàn thiện cơ chế quản lý và nâng cao khả năng, nghệ thuật kinh doanh, cùng
với cơ cấu tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, nhân viên.
Trong khi thực hiện vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước còn là công cụ điều
tiết vó mô, bằng hoạt động đầu tư kinh doanh của mình góp phần tích cực ổn định
cung – cầu, giá cả thị trường, sẵn sàng dập tắt những đột biến (cơn sốt) giá cả
phát sinh, ổn định sản xuất và đời sống, cũng như góp phần giải quyết các vấn đề
xã hội.
Thực trạng về kinh tế nhà nước của ta hiện nay còn nhiều hạn chế và yếu
kém trên tất cả các mặt: tổ chức quản lý, cạnh tranh thị trường, hiệu quả kinh
doanh…, chưa thực hiện được vai trò chủ đạo, công cụ điều tiết vó mô trong nền
kinh tế nước nhà. Nguyên nhân của nó không chỉ ở bản thân kinh tế nhà nước,
mà còn do hoàn cảnh lịch sử của đất nước, đặc điểm của nền kinh tế và của thời
đại, những khó khăn trong quản lý điều hành vó mô v.v…
Do vậy, để tạo điều kiện cho kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ
đạo cần có hệ thống giải pháp toàn diện và đồng bộ, từ Chính phủ đến ngành và
đến các đơn vị kinh doanh. Trong đó, điều mấu chốt là: không thể để tự nó, “mặc
kệ” mà có được vai trò chủ đạo. Mà xuất phát từ yêu cầu và đặc điểm để kinh tế
nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, nó phải có thế và lực, phải được sự hỗ
trợ, tạo điều kiện giúp đỡ về nhiều mặt như: ưu tiên về tín dụng (vốn xây dựng
cơ bản), vị trí và mặt bằng, về thuế, về xuất nhập khẩu, về đào tạo cán bộ v.v..

Nghóa là các thành phần kinh tế được đối xử bình đẳng về mặt pháp luật chứ
không phải nhất loạt như nhau về mọi phương diện, chế ñoä.


-13-

Bởi vì, tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước thực hiện được vai
trò chủ đạo trong hệ thống cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần là điều kiện đảm
bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghóa, thực
hiện được mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước tiến dần lên chủ nghóa xã
hội.
1.4. 3. Quan điểm của Đảng ta về vị trí của kinh tế nhà nước từ Đại hội
Đảng lần thứ IX
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghóa, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân.
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu
tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh
doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng
vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vó mô nền
kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế
– xã hội và chấp hành pháp luật.
Thực tiễn của hơn 15 năm đổi mới vừa qua cho thấy, chính sách kinh tế
nhiều thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, đưa

đến những thành tựu to lớn có ý nghóa rất quan trọng của đất nước. Trong quá
trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, cần phải có cách nhìn mới


-14-

trong việc xác định vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế, cần phải thoát
khỏi sự trói buộc của tư duy cũ, những nhận thức không đúng đối với các thành
phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân trong quá trình xây dựng chủ nghóa xã hội.
Mặt khác, cần khắc phục những nhận thức không đúng về vai trò của sở hữu Nhà
nước cũng như vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước; vì trong quá trình đổi
mới vừa qua ở nước ta đã xuất hiện quan điểm cho rằng: trong nền kinh tế thị
trường không cần có kinh tế nhà nước và nếu có thì kinh tế Nhà nước cũng không
cần phải giữ vai trò chủ đạo. Nhưng trong thực tế, bất cứ một nền kinh tế hiện
đại nào, khu vực kinh tế Nhà nước cũng tồn tại như một nhu cầu khách quan bảo
đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
Đặc biệt hơn, nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta lại là nền kinh tế
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghóa. Trong việc xây dựng một hình thái
kinh tế xã hội mới ở nước ta, không phải mọi thành phần kinh tế đều có vai trò
ngang nhau, văn kiện Đại hội Đảng đã nhấn mạnh kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghóa ở nước ta có nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà
nước giữ vai trò chủ đạo.
Với ý nghóa đó, thành phần kinh tế Nhà nước là hạt nhân của quan hệ sản
xuất mới, là một lực lượng kinh tế, một công cụ có sức mạnh vật chất để nhà
nước Việt Nam thực hiện vai trò điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế nhiều thành
phần phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghóa. Vì vậy, nếu phủ nhận sự tồn
tại và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước cũng đồng nghóa với phủ
nhận tính định hướng xã hội chủ nghóa của nền kinh tế.
Trong thời gian tới, phải cơ bản hoàn thành việc củng cố, sắp xếp, điều
chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà

nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100%
vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một số ngành, lónh vực then chốt và địa bàn quan


-15-

trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty Nhà
nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chủ trương cổ
phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước
không cần nắm 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê… các doanh nghiệp loại
nhỏ Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập giải thể, cho phá sản những doanh
nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.
Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà
nước, củng cố và hiện đại hóa một bước các tổng công ty Nhà nước.
Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo
động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xóa bao cấp, doanh nghiệp
cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh;
nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ
chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với doanh
nghiệp.
Trong xu thế hội nhập, kinh tế nhà nước phải đi đầu trong quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Để thực hiện chủ trương công nghiệp hóa – hiện đại hóa, nhà nước phải tập trung
huy động vốn, phát triển về quy mô, hiện đại hóa quy trình công nghệ, tăng
cường liên doanh liên kết, thu hút đầu tư vốn nước ngoài, nâng cao chất lượng
sản phẩm. Việc lựa chọn chính sách công nghiệp hóa thích hợp cũng thúc đẩy
kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở
cửa tự do hóa thương mại hiện nay.
1.5.


Vị trí kinh tế nhà nước ở một số nước trong khu vực và trên thế giới

Ở Trung Quốc
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, Trung Quốc đã thực hiện chính
sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Trên thực tế, trải qua quá trình lịch sử


-16-

mấy chục năm, ở Trung Quốc đã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân và tập thể đối
với các tư liệu sản xuất chủ yếu. Trong quá trình đó, đã tiến hành quốc hữu hóa,
xây dựng các xí nghiệp quốc doanh, xây dựng một loạt các công trình thủy lợi,
mở mang nhiều xí nghiệp tập thể, tích lũy được một khối lượng lớn tài sản công
cộng. v.v…Cho nên, kinh tế công đã được xác lập trong cả nước. Trung Quốc chủ
trương kiên trì phát triển chế độ công hữu và cho rằng làm như vậy sẽ có lợi cho
việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và các tư liệu sản xuất chủ yếu, có lợi
cho việc tập trung lực lượng tiến hành xây dựng kinh tế một cách trọng điểm, tạo
cho người lao động có điều kiện lao động bình đẳng, bảo đảm công bằng xã hội
và tiến theo con đường cùng giàu có.
Nhưng do trình độ phát triển sức sản xuất còn thấp, chưa có điều kiện thực hiện
chế độ công hữu phổ biến, vì vậy, để động viên được mọi nhân tố tích cực làm
sống động kinh tế và phát triển sức sản xuất, Trung Quốc chủ trương cho phép và
khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển để bổ sung cho kinh tế công
hữu. Các thành phần kinh tế khác ở Trung Quốc bao gồm: kinh tế cá thể, xí
nghiệp tư doanh, các hình thức chung vốn và cổ phần kinh doanh, xí nghiệp
chung vốn giữa Trung Quốc và nước ngoài, xí nghiệp hợp doanh giữa Trung
Quốc và nước ngoài, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.v.v…
Phát triển nhiều thành phần kinh tế đã có tác dụng tích cực với việc tạo thêm
công ăn việc làm, giải quyết vấn đề lao động dư thừa trong nông nghiệp, tăng
thêm sản phẩm cho xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học của nhân dân,

thúc đẩy kinh tế phát triển.
Qua hơn 18 năm cải cách và mở cửa, thực lực của các doanh nghiệp Trung Quốc
đã được tăng cường, các doanh nghiệp nhà nước này luôn luôn nắm giữ huyết
mạch của nền kinh tế. Sự trưởng thành và lớn mạnh của doanh nghiệp nhà nước
làm thay đổi bộ mặt kinh tế của Trung Quốc, giúp Trung Quốc xây dựng được hệ


-17-

thống công nghiệp độc lập tương đối hoàn chỉnh, thay đổi kết cấu công nghiệp,
làm tăng sức mạnh tổng hợp của đất nước.
Doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc chẳng những có vai trò quan trọng trong
công cuộc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghóa ở Trung Quốc mà còn giữa vai
trò chủ đạo trong tiến trình hiện đại hóa đất nước.
Ở Pháp
Doanh nghiệp nhà nước chiếm trên 30% trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
riêng ngành năng lượng: giá trị sản lượng của các doanh nghiệp nhà nước chiếm
69% tổng giá trị sản lượng của toàn ngành. Ngành giao thông vận tải, các công ty
đường sắt, công ty hàng không: chủ yếu do nhà nước nắm giữ… Trong ngành tài
chính và bảo hiểm, các tổ chức tài chính nhà nước nắm giữ 90% tiền gửi, 84,8%
vốn cho vay, 97,2% nghiệp vụ tài chính, ngân hàng nhà nước và tổ chức bảo
hiểm kiểm soát toàn diện hoạt động của hệ thống tài chính và bảo hiểm.
Ở Thụy Điển, năm 1990 có tới 41% lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh.
Trong khối các nước công nghiệp mới phát triển (NIC).
Các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm đa số trong nền kinh tế và có vai trò
quan trọng khác nhau trong nhiều lónh vực: từ dịch vụ tài chính, sản xuất kinh
doanh nông sản đến lónh vực hàng không… Các doanh nghiệp nhà nước đóng vai
trò chủ đạo trong việc đóng góp vào GDP của mỗi nước.
Tại Indonesia, tuy chỉ có 164 doanh nghiệp nhà nước lại chiếm đến 29% GDP, ở
Thái Lan cũng vậy, chỉ với 67 công ty thuộc chính phủ lại chiếm đến hơn 20%

tổng sản phẩm quốc gia.
Tại Hàn Quốc, Singapo, Nhật Bản, Đài Loan cũng có các doanh nghiệp nhà nước
dưới nhiều hình thức khác nhau. Tại Singapo và Đài Loan, doanh nghiệp nhà
nước được hình thành chủ yếu trên cơ sở tịch thu “chiến lợi phẩm” sau chiến
tranh thế giới thứ 2 (tiếp quản các cơ sở sản xuất của Nhật) sau đó lại đầu tư xây


-18-

dựng thêm một loạt các doanh nghiệp nhà nước nữa. Đầu những năm 50, doanh
nghiệp nhà nước ở Đài Loan chiếm 70% toàn bộ nền kinh tế, đến năm 1991 vẫn
còn chiếm 42%.
Kết luận:
Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nắm giữ
các ngành, các lónh vực kinh tế liên quan đến an ninh quốc phòng, chính sách xã
hội và các ngành mũi nhọn, trọng yếu nhất của nền kinh tế. Sự có mặt của kinh
tế nhà nước trong các ngành, các lónh vực quan trọng có tác dụng điều chỉnh sự
cân bằng của nền kinh tế, duy trì ổn định chính trị – xã hội.
Kinh tế nhà nước phải giữ được vai trò đòn bẩy, giá đỡ trong nền kinh tế
thị trường nhiều thành phần, thể hiện ở ưu thế về huy động vốn, cải tiến công
nghệ, kỹ thuật và sử dụng đội ngũ khoa học kỹ thuật. Kinh tế nhà nước phải
đóng góp thích đáng cho sự phát triển kinh tế bằng kinh doanh có hiệu quả, đi
đầu trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa theo hướng mở cửa, hội nhập
vào nền kinh tế thế giới.
Để thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa này, kinh tế nhà
nước phải tập trung được một lượng vốn lớn, phát triển về quy mô, hiện đại hóa
quy trình công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá thành hạ nhằm có thể
cạnh tranh và tồn tại được trong môi trường kinh doanh mới hiện nay.



-19-

Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA KHU VỰC KINH TẾ
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1.

Những đổi mới của Đảng về chế độ sở hữu và thành phần kinh tế.

2.1.1. Những đổi mới quan điểm, chính sách về chế độ sở hữu và thành phần
kinh tế của Đảng từ Đại hội VI đến nay.
Đại hội VI của Đảng (1986) đã phân định thành phần kinh tế xã hội chủ
nghóa (khu vực quốc doanh, khu vực tập thể và bộ phận kinh tế gia đình gắn liền
với thành phần đó) và các thành phần kinh tế khác (phi xã hội chủ nghóa), xác
định kinh tế xã hội chủ nghóa phải chiếm tỷ trọng lớn trong cả sản xuất và lưu
thông. Nhà nước có chính sách ưu đãi về kinh tế đối với các thành phần kinh tế
xã hội chủ nghóa (về đầu tư, thuế, tín dụng…), cho phép tư sản nhỏ hoạt động
trong một số ngành nghề sản xuất và dịch vụ ở những nơi cần thiết; xóa bỏ
thương nghiệp tư bản tư nhân trong lónh vực lưu thông (trừ một số ngành hàng
tươi sống).
Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (1989) chủ trương phát triển đang xen
nhiều loại hình kinh tế hỗn hợp, đan kết các hình thức sở hữu. Kinh tế quốc
doanh có vai trò chủ đạo, cần có lực lượng đủ sức chi phối thị trường, song không
nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề; những ngành nghề, hoạt
động nào mà kinh tế hợp tác xã, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt,
có lợi cho nền kinh tế thì nên tạo điều kiện cho các loại hình ấy phát triển. Tư
nhân được kinh doanh không hạn chế về quy mô, địa bàn hoạt động trong những
ngành nghề mà luật pháp không cấm.
Đại hội VII của Đảng (1991) thông qua Cương lónh xác định: Kinh tế quốc

doanh có vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng;


-20-

kinh tế cá thể vẫn còn có phạm vi tương đối lớn; tư bản tư nhân được kinh doanh
trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định; phát triển
kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức.
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 xác định:
Kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động
trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm; Nhà nước có thể liên doanh
với tư nhân trong và ngoài nước, hình thành loại doanh nghiệp thuộc thành phần
tư bản nhà nước. Khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh
để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; tập trung lực lượng củng cố và
phát triển những cơ sở trọng điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghóa
lớn đối với nền kinh tế quốc dân; cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể
các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1994) đã
bổ sung, cụ thể hóa thêm chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đối với
khu vực doanh nghiệp nhà nước, yêu cầu phải tiếp tục chấn chỉnh và hoạt động
có hiệu quả, đảm nhiệm được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; tập trung xây
dựng doanh nghiệp nhà nước ở những ngành, lónh vực như: kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, hệ thống tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, một số cơ sở sản xuất và
dịch vụ trọng yếu, bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với hiệu quả cao;
thực hiện hình thức cổ phần hóa có mức độ phù hợp với tính chất và lónh vực sản
xuất, kinh doanh, trong đó sở hữu nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối.
Đại hội VIII của Đảng (1996) đã xác định chủ trương chính sách lớn đối
với các thành phần kinh tế: tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà
nước để làm tốt vai trò chủ đạo; tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà
nước trong những ngành, những lónh vực trọng yếu; triển khai tích cực và vững

chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Phát triển kinh tế hợp tác (mà


-21-

nòng cốt là các hợp tác xã) với nhiều hình thức đa dạng từ thấp tới cao, tuân thủ
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Kinh tế tư bản
nhà nước có vai trò quan trọng, bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa
kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên doanh giữa kinh tế
nhà nước với tư bản nước ngoài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các
khó khăn; hướng dẫn từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc
làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Khuyến khích tư bản
tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài.
Nhận xét:
Từ chỗ trong nhận thức cũng như trong hành động không thực sự thừa nhận
nền kinh tế nhiều thành phần; chia nền kinh tế thành 2 bộ phận: xã hội chủ nghóa
(gồm quốc doanh và tập thể) và phi xã hội chủ nghóa (gồm các thành phần còn
lại), chủ trương sớm xây dựng và phát triển kinh tế xã hội chủ nghóa chiếm tỷ
trọng lớn trong cả sản xuất và lưu thông, chủ trương phải cải tạo và có phần xóa
bỏ, thu hẹp dần bộ phận kinh tế phi xã hội chủ nghóa - đã chuyển sang thực hiện
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; từ các hình thức sở hữu cơ bản (sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân) hình thành nhiều thành phần kinh tế với
những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen hỗn hợp; mỗi thành phần
đều có vị trí quan trọng trong cơ cấu của nền kinh tế, các thành phần kinh tế kinh
doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghóa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh; mỗi doanh nghiệp cũng đan xen nhiều hình thức sở hữu; hệ
thống pháp luật dần chuyển sang quy định chung cho các thành phần kinh tế.



-22-

2.1.2. Những đổi mới quan trọng về kinh tế nhà nước trong các thành phần
kinh tế:
Từ chỗ coi quốc doanh là chủ đạo theo nghóa phải chiếm tỷ trọng lớn trong
mọi ngành nghề, lónh vực, dường như độc quyền, nắm tiền, nắm hàng chi phối thị
trường, là hình mẫu cao nhất của bộ phận kinh tế xã hội chủ nghóa - đã chuyển
sang phân biệt rõ sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, phần sở hữu nhà
nước có thể được sử dụng ở nhiều thành phần kinh tế - kinh tế nhà nước có vai
trò chủ đạo với nội dung là: tập trung vào một số ngành, lónh vực để phát huy vai
trò chủ đạo làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn
đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển;
làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vó
mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới); cơ cấu các nguồn vốn và cơ chế vận
hành của xí nghiệp quốc doanh cũng thay đổi khá căn bản (không chỉ trông vào
vốn Nhà nước cấp mà phải huy động nhiều nguồn vốn khác, thực hiện cổ phần
hóa một bộ phận, hạn chế độc quyền kinh doanh, phải cạnh tranh khá quyết liệt
để tồn tại và phát triển).
Cho đến nay, nền kinh tế nhiều thành phần đã cơ bản hình thành, tạo nên
sự sống động mới trong sản xuất, kinh doanh, tuy còn nhiều vấn đề cần được tiếp
tục tháo gỡ, đổi mới. Doanh nghiệp nhà nước được tổ chức, sắp xếp lại một bước
quan trọng, bước đầu chuyển sang đa sở hữu, giảm nhiều tính bao cấp, tăng
cường đáng kể quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; quản lý nội bộ có những
chuyển biến tích cực, đã khắc phục một phần hiện tượng trì trệ, phát huy được
tác dụng chủ đạo nhất định trong nền kinh tế.
2.2.

Thực trạng hoạt động của kinh tế Nhà nước: biểu hiện cụ thể ở các
doanh nghiệp nhà nước


2.2.1. Kết quả đạt được


-23-

Theo tính toán chưa đầy đủ, tính đến 31/12/2003 ở nước ta có 4.789 doanh nghiệp
nhà nước đang hoạt động. Nếu so với đầu thập niên 90, thì số lượng doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta giảm một nửa, nhưng quy mô vốn và tài sản thì tăng
đáng kể (xem phụ lục 1). Lực lượng doanh nghiệp nhà nước cùng với các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác có mặt hầu như ở tất cả các ngành kinh
tế và lónh vực hoạt động (xem phụ lục 2).
Bảng 2.1: Cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước phân theo ngành kinh tế
Ngành kinh tế

Tỷ trọng (%)

Công nghiệp

29,9

Xây dựng, vận tải, bưu điện

23,5

Thương mại, dịch vụ, khách sạn

23,4

Nông lâm nghiệp


15,2

Các ngành khác

8,0

Cộng

100,0

Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam - Kinh tế 2002-2003 – trang 52
Biểu 2.1: Cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước phân theo ngành kinh tế
Công nghiệp
23.5%

23.4%

15.2%

29.9%
8.0%

Xây dựng, vận tải,
bưu điện
Thương mại, dịch
vụ, khách sạn
Nông lâm nghiệp
Các ngành khác

Nguồn: Bảng 2.1

Lực lượng doanh nghiệp nhà nước hằng năm đóng góp khoảng 40% trong cơ cấu
GDP của nước ta, chiếm giữ khoảng 70% vốn và tài sản cố định của nền kinh teá


-24-

(không tính vốn và tài sản của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài) (xem phụ lục
1). Lực lượng doanh nghiệp nhà nước đang là lực lượng chủ yếu trong sản xuất
công nghiệp; trong các hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu, trong lónh vực tài
chính - ngân hàng - tín dụng. Nhìn chung, lực lượng doanh nghiệp nhà nước đang
là lực lượng then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của đất nước, cá biệt có
một số ngành đang có vị trí độc quyền kinh doanh.
Từ năm 1995 đến 1999, hằng năm doanh nghiệp nhà nước đóng góp từ 26 – 28%
trong tổng thu ngân sách nhà nước, năm 2000: 20,7%; năm 2001: 23,7%; năm
2002: 26,3%, năm 2003: 39%. Doanh nghiệp nhà nước cũng đang sử dụng
khoảng 16% lực lượng lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp (xem phụ
lục 3).
Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp nhà nước luôn cố
gắng đảm trách vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp
nhà nước trong ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải, xây dựng… đã thực
hiện những nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế quốc dân, tạo ra những sản
phẩm có ý nghóa sống còn cho đất nước như: điện, than, xi-măng, sắt thép, các
công trình phúc lợi, cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống… mà các thành phần kinh
tế khác chưa đủ sức làm.
Mức tăng trưởng hằng năm của lực lượng doanh nghiệp nhà nước xấp xỉ mức
tăng trưởng chung của nền kinh tế, cũng xấp xỉ khu vực ngoài quốc doanh trong
nước (xem phụ lục 3).
Đối với vai trò mở đường hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển: thực
tế cho thấy doanh nghiệp nhà nước đã đi trước, thúc đẩy phân bố lại dân cư theo
hướng công nghiệp hoá, hình thành các trung tâm kinh tế văn hoá mới, thúc đẩy

trang bị kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đào tạo


×