Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Ngôn ngữ đánh giá trong sáng tác nam cao trước năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 148 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lâm Kim Ngân

NGƠN NGỮ ĐÁNH GIÁ TRONG
SÁNG TÁC NAM CAO TRƢỚC NĂM 1945

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA NƢỚC NGỒI

Thành phố Hồ Chí Minh – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lâm Kim Ngân

NGƠN NGỮ ĐÁNH GIÁ TRONG
SÁNG TÁC NAM CAO TRƢỚC NĂM 1945

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 02 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA NƢỚC NGỒI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI MẠNH HÙNG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của tơi, có sự hỗ trợ từ
giáo viên hướng dẫn PGS.TS.Bùi Mạnh Hùng. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
trong đề tài Ngôn ngữ đánh giá trong sáng tác Nam Cao trước năm 1945 là trung
thực và chưa từng công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Nếu có phát hiện bất kì sự gian dối nào, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm trước
Hội đồng bảo vệ luận văn Thạc sĩ cũng như kết quả luận văn của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 03 năm 2017
Người cam đoan

Lâm Kim Ngân


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc, chân thành tới PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng,
người đã tận tình hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tơi trong suốt
q trình thực hiện luận văn.
Thay mặt các học viên cao học khóa 25, chuyên ngành Ngôn ngữ học tôi xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến các giảng viên khoa Ngữ Văn và các cán bộ Phòng Sau đại
học đã tạo mọi điều kiện để chúng tôi học tập, nghiên cứu.
Tôi rất biết ơn sự hỗ trợ nhiệt tình của các thủ thư ở thư viện trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh, thư viện trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn
và thư viện Khoa học tổng hợp.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã hết lịng động
viên tơi hồn thành luận văn này.

Tp.Hồ Chí Minh, tháng 03 năm 2017
Học viên


Lâm Kim Ngân


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .....................................................................................10
1.1. Sơ lược về Ngữ pháp chức năng hệ thống – Siêu chức năng liên nhân .............10
1.1.1. Ngữ pháp chức năng hệ thống (Systemic Functional Grammar) ....... 10
1.1.2. Siêu chức năng liên nhân (Interpersonal function) ............................. 12
1.2. Một số quan điểm và nguyên lí cơ bản của Lý thuyết thẩm định ......................16
1.2.1. Một số quan điểm về thẩm định ......................................................... 16
1.2.2. Nguyên lí cơ bản của Lý thuyết thẩm định.........................................17
1.3. Thẩm định và Hệ thống thẩm định .....................................................................21
1.3.1. Thẩm định ........................................................................................... 21
1.3.2. Hệ thống thẩm định ............................................................................24
1.4. Các bình diện cơ bản của Hệ thống thẩm định ...................................................25
1.4.1. Thái độ (Attitude) ...............................................................................25
1.4.2. Ràng buộc (Engagement) ...................................................................33
1.4.3. Thang độ (Graduation) .......................................................................35
1.5. Ngôn ngữ đánh giá trong văn bản tự sự .............................................................40
1.6. Các phương tiện thể hiện ngôn ngữ đánh giá .....................................................41
1.6.1. Phương tiện hiển ngôn ........................................................................41



1.6.2. Phương tiện hàm ngôn ........................................................................42
1.7. Chủ thể (appraiser) và bị thể (appraised) của ngôn ngữ đánh giá ......................44
Tiểu kết chương 1 ......................................................................................................45
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐÁNH GIÁ VỀ CON NGƢỜI
TRONG SÁNG TÁC NAM CAO .............................................................................. 46
2.1. Phạm trù Thái độ (Attitude) trong ngôn ngữ đánh giá về con người ở sáng
tác Nam Cao ..............................................................................................................46
2.1.1. Biến tố Tình cảm (Affect)...................................................................48
2.1.2. Biến tố Phán xét (Judgement) ............................................................. 67
2.2. Phạm trù Thang độ (Graduation) trong ngôn ngữ đánh giá về con người ở
sáng tác Nam Cao ......................................................................................................86
2.2.1. Các phương diện thể hiện Thang độ trong biểu thức ngôn ngữ
đánh giá về con người .................................................................................. 86
2.2.2. Các phương tiện thể hiện giá trị Thang độ trong biểu thức ngôn
ngữ đánh giá về con người ........................................................................... 89
Tiểu kết chương 2 ......................................................................................................97
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ ĐÁNH GIÁ VỀ SỰ VẬT, HIỆN
TƢỢNG TRONG SÁNG TÁC NAM CAO .............................................................. 98
3.1. Phạm trù Thái độ (Attitude) trong ngôn ngữ đánh giá về sự vật, hiện tượng
ở sáng tác Nam Cao ...................................................................................................98
3.1.1. Các tiểu loại Đánh giá trong sáng tác Nam Cao ...............................100
3.1.2. Các biểu thức Đánh giá hàm ngôn ....................................................105
3.2. Phạm trù Thang độ (Graduation) trong ngôn ngữ đánh giá về sự vật, hiện
tượng ở sáng tác Nam Cao ......................................................................................116
3.2.1. Các phương diện thể hiện Thang độ trong biểu thức ngôn ngữ
đánh giá về sự vật, hiện tượng ................................................................... 116


3.2.2. Các phương tiện thể hiện giá trị Thang độ trong biểu thức ngôn

ngữ đánh giá về sự vật, hiện tượng ............................................................ 119
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................129
KẾT LUẬN .................................................................................................................131
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................................................................................134
PHỤ LỤC ....................................................................................................................137


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ những năm 1970 trở lại đây, trong giới ngôn ngữ học xuất hiện nhiều cơng
trình nghiên cứu về bản chất của giao tiếp trong xã hội lồi người và nhấn mạnh khía
cạnh chức năng của ngơn ngữ. Đó là thời kì của sự xuất hiện các khuynh hướng ngữ
pháp chức năng của Dik, Halliday, J. Lyons; ngữ dụng học của Austin, Seark,
Levinson; ngôn ngữ học xã hội của Hymes, Trudgill, Lakoff… Đặc điểm nghiên cứu
ngôn ngữ hiện đại là sự nới rộng về không gian và thời gian cũng như các điều kiện
giao tiếp của một hành vi ngôn ngữ. Do khuynh hướng tự nhiên hoá sự giao tiếp của
con người mà đối tượng ngôn ngữ không dừng lại ở phát ngôn riêng lẻ nữa mà là các
chuẩn phát ngôn khác nhau trong một diễn ngơn nhằm thực hiện các mục đích và ý
định của người nói. Khơng gian để nhúng (embed) các chuỗi phát ngơn này trong hiện
thực khơng cịn là các không gian do nhà ngôn ngữ học giả định nữa (một người nói,
một người nghe, một mã giao tiếp) mà là khơng gian với đầy đủ tính hiện thực của nó,
gọi là chu cảnh giao tiếp xã hội: đặc điểm giới tính, tâm lí, nghề nghiệp, hơn nhân của
người nói; các điều kiện để tiến hành giao tiếp thuận lợi và không thuận lợi; các điều
kiện để giao tiếp bằng lời biến thành các hành động xã hội (social actions) và hành vi
xã hội (social behaviours).
Trong trào lưu Ngữ pháp chức năng có một nhân vật nổi bật là M.A.K. Halliday.
Sở dĩ lý luận ngôn ngữ của Halliday nổi bật là do nhà khoa học này dành nhiều sự
quan tâm cho việc nghiên cứu bình diện xã hội của ngơn ngữ, chứa nhiều tính khả thi

trong việc vận dụng vào phân tích diễn ngơn và hoạt động giáo dục hiện đại. Ngôn
ngữ đánh giá là một thuật ngữ của Ngôn ngữ học Chức năng hệ thống do M.A.K.
Halliday đề xướng. Nó có liên quan đến quan hệ liên nhân trong ngôn ngữ, tức liên
quan đến sự hiện diện của người viết/người nói trong văn bản đối với những điều mà
họ trình bày và những người mà họ giao tiếp. Nó cịn có liên quan đến cách mà người
viết/người nói thể hiện thái độ chấp nhận hay phản đối, yêu thích hay chê ghét, hoan
nghênh hay chỉ trích,… và cách mà họ đặt người đọc/người nghe của họ vào trong một
thái độ tương tự như vậy. Quan trọng hơn, nó liên quan đến việc người viết/người nói


2

xác lập cho mình một bản sắc riêng trong giao tiếp. Trong văn học, ta cịn gọi đó là
phong cách nghệ thuật của nhà văn. Như thế, dù hiển thị rõ ràng hay hàm ẩn thì ngơn
ngữ đánh giá cũng đóng một vai trị đặc biệt trong văn bản nói chung và văn bản nghệ
thuật nói riêng. Vì vậy, việc tìm hiểu ngơn ngữ đánh giá trong tác phẩm văn học là một
hướng đi mới đầy hấp dẫn. Bên cạnh đó, tiếp cận các sáng tác văn học dưới góc độ này
cịn mở ra một cách thức mới có hiệu quả trong việc tổ chức giờ dạy đọc – hiểu văn
bản cho học sinh các cấp.
1.2. Nam Cao (1915 - 1951), tên thật là Trần Hữu Tri, là nhà văn tiêu biểu của
nền văn học hiện đại Việt Nam 1930 – 1945. Ơng là người góp phần đưa trào lưu văn
học hiện thực phê phán Việt Nam đầu thế kỉ XX phát triển đến đỉnh cao với những tác
phẩm xuất sắc. Tuy chỉ có 15 năm cầm bút song nhà văn xuất sắc này đã dành tặng
cho đời một sự nghiệp sáng tác hết sức phong phú mà chủ yếu được gói gọn trong thể
loại truyện ngắn. Bên cạnh truyện ngắn, tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao cũng là
tác phẩm giàu về tư tưởng, xuất sắc về nghệ thuật và luôn nhận được sự quan tâm đặc
biệt của giới nghiên cứu Văn học và Ngôn ngữ. Sáng tác Nam Cao thể hiện một sự
sáng tạo đầy nghệ thuật trong các dạng thức lời văn trần thuật. Nhờ thế, ông đã có
được một phong cách sáng tác rất riêng so với các nhà văn viết theo khuynh hướng
hiện thực cùng thời. Do đó, dù đã được các nhà khoa học nghiên cứu hàng chục năm

nay, các tác phẩm của Nam Cao vẫn là một “quặng mỏ” còn ẩn chứa nhiều điều cần
khai thác và nghiên cứu thấu đáo hơn.
Từ những lí do trên, chúng tơi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Ngôn ngữ
đánh giá trong sáng tác Nam Cao trước năm 1945”. Hi vọng, bằng sự nỗ lực của
người viết với những kết quả tìm hiểu cụ thể, luận văn sẽ ít nhiều đáp ứng được yêu
cầu của việc nghiên cứu và việc dạy – học bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường.

2. Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu ngơn ngữ đánh giá trong sáng tác của nhà văn
Nam Cao. Qua đó, tác giả luận văn muốn làm rõ cách thức thể hiện của loại ngôn ngữ
này cũng như hiệu quả nghệ thuật của nó trong sáng tác văn học.


3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, luận văn sẽ tiến hành khảo sát các bình diện cụ thể của ngôn
ngữ đánh giá trong sáng tác Nam Cao, từ đó phân tích và nhận xét, kết luận về tác
dụng của ngôn ngữ đánh giá đối với văn bản tự sự.

3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ đánh giá
Ngôn ngữ đánh giá (evaluative language) là thuật ngữ được phát triển từ lý thuyết
thẩm định (appraisal theory). Ban đầu, lý thuyết này là lý thuyết thuộc về Tâm lý học
xã hội. Trong nhiều thập kỉ qua, lý thuyết thẩm định đã phát triển và trở thành một lý
thuyết nổi bật trong ngành truyền thông và tâm lý. Trong lịch sử nhân loại, những tư
tưởng cơ bản nhất về lý thuyết này nằm ở các triết gia nổi tiếng như Aristotle, Plato,
các nhà khắc kỷ Spinoza và Hume cùng nhà tâm lý học người Đức Stumph (1992).
Tuy nhiên, trong hơn 50 năm qua, lý thuyết này đã được mở rộng theo cấp số nhân với

sự cống hiến của hai nhà nghiên cứu nổi bật là Magda Arnold và Richard Lazarus
trong số những người đã đóng góp cho lý thuyết thẩm định.
Đến năm 2004, thuật ngữ ngôn ngữ đánh giá với tư cách là thuật ngữ Ngôn ngữ
học lần đầu tiên được M.A.K. Halliday đề cập trong cuốn Halliday’s Introduction
Funtional Grammar [24]. Trong cơng trình này, nhà nghiên cứu đã cho rằng ngơn ngữ
đánh giá chính là một trong những hình thức thể hiện quan hệ liên nhân trong văn bản,
hướng tới phục vụ cho mục đích giao tiếp của văn bản. Năm 2005, J.R. Martin và
P.R.R. White đã cộng tác để cho ra đời cơng trình The language of Evaluation
(Appraisal in English) [23]. Cuốn sách của hai tác giả này đã cung cấp cho người đọc
cái nhìn khá chi tiết, kĩ lưỡng về ngôn ngữ đánh giá qua các dấu hiệu, sự biểu hiện xúc
cảm và phương pháp phân tích văn bản,… Điều hữu ích là cơng trình này đã dẫn
chứng bằng sự phân tích ngơn ngữ đánh giá trong một văn bản tự sự cụ thể “War or
Peace” (Carol Sarler). Gần đây nhất, năm 2011, Susan Hunston với Corpus
Approaches to Evaluation (Praseology and Evaluative Language) đã đưa ra các hướng
tiếp cận chủ yếu đối với ngôn ngữ đánh giá.


4

Tựu trung lại, các cơng trình tiếp cận ngơn ngữ đánh giá ở nước ngồi đa số là
các cơng trình thuộc về Tâm lý học, những cơng trình về Ngơn ngữ học dù không
chiếm số lượng nhiều nhưng đã cho thấy được một cái nhìn tổng quan về ngơn ngữ
đánh giá và giá trị ứng dụng trong giảng dạy ngôn ngữ theo hướng chức năng. Tuy
nhiên, trong khả năng tìm hiểu của mình, chúng tơi thấy rằng việc tìm hiểu, phân tích
ngơn ngữ đánh giá trong văn bản nói chung và văn bản nghệ thuật nói riêng ở Việt
Nam vẫn chưa được chú ý. Đây có lẽ là một sự thiếu hụt cần được bổ khuyết.

3.2. Các nghiên cứu ngôn ngữ về sáng tác Nam Cao
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung, trào lưu văn học hiện thực phê
phán 1930 – 1945 nói riêng, Nam Cao (1917 – 1951) là một trong những gương mặt

xuất sắc nhất. Sự xuất hiện của ông đã mang đến một luồng sinh khí mới cho văn xi
Việt Nam hiện đại. Bằng tài năng và tâm huyết trong lao động sáng tạo, Nam Cao đã
khẳng định được vị trí và phong cách nghệ thuật độc đáo của mình. Trải qua nhiều thế
hệ độc giả, sáng tác của ơng đã có một sức sống bền bỉ với thời gian.
Trước Cách mạng tháng 8 – 1945, việc nghiên cứu sáng tác của Nam Cao vẫn
chưa được chú ý, vì vậy mà chưa có cơng trình nào chính thức nghiên cứu về nhà văn
này. Sau Cách mạng tháng 8 – 1945, các tác phẩm của Nam Cao trở thành “mảnh đất
màu mỡ” để các nhà nghiên cứu khai phá. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu năm
2007, các tài liệu, chuyên luận viết về Nam Cao đã vượt quá con số 200. Trong quá
trình tìm hiểu, chúng tơi nhận thấy rằng ở giai đoạn đầu của tiến trình nghiên cứu các
sáng tác Nam Cao, đa số các nhà nghiên cứu thường tập trung sự chú ý vào đề tài, nội
dung tư tưởng, kiểu nhân vật, tình huống truyện,… Tiêu biểu là các cơng trình của
Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Trần Đình Sử,…
Đặc biệt, từ năm 1987 trở đi, các cơng trình nghiên cứu về Nam Cao nhìn chung
mang quy mô lớn hơn và khai thác ở nhiều nội dung đa dạng hơn. Đáng chú ý là
hướng tìm hiểu nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nam Cao: Năm 1991, Hồng Tiến
góp mặt với bài báo Ngơn ngữ Nam Cao nhận xét về cú pháp văn xuôi của nhà văn
này [17]; cũng trong năm này, trong một bài tham luận có tên Nam Cao và cuộc canh
tân văn học đầu thế kỷ XX tại Hội thảo khoa học về Nam Cao nhân kỷ niệm 40 năm


5

ngày nhà văn hy sinh do Viện Văn học tổ chức, Lại Nguyên Ân đã khẳng định Nam
Cao đã tạo nên một thứ “ngơn ngữ ít nhiều phức điệu” [1]; năm 1992, với bài viết Lối
văn kể chuyện của Nam Cao [13], ngôn ngữ trần thuật trong sáng tác của ông đã bắt
đầu được khai thác trong sự hỗ tương với đề tài, chủ đề. Tác giả Phan Diễm Phương đã
đưa ra nhiều phát hiện mới mẻ về nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao thông qua bài
viết này. Theo đó, tác giả cho rằng Nam Cao có sự chuyển đổi linh hoạt từ ngôn ngữ
người kể chuyện sang ngôn ngữ nhân vật và sự kết hợp đan xen, tinh luyện nhiều

giọng kể trong cùng một đoạn;…
Những năm sau đó, hàng loạt các đề tài nghiên cứu chuyên sâu về một khía cạnh
ngơn ngữ trong sáng tác Nam Cao lần lượt ra đời. Có thể kể đến là các luận án, luận
văn: Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (Các hình thức thoại dẫn) - Mai Thị Hảo
Yến (2001) [21], Cách diễn đạt ý nghĩa tình thái của hành động phát ngôn trong
truyện ngắn Nam Cao - Trần Thị Kim Chi (2003) [4], Các kiểu lơ gích mờ trong tác
phẩm của Nam Cao - Đào Mạnh Toàn (2004) [18], Đặc điểm ngôn ngữ của ngôn ngữ
nhân vật qua tác phẩm Nam Cao - Nguyễn Hoàng Tuấn (2005) [19], Từ láy trong
truyện ngắn Nam Cao - Hồ Thị Ngọc Quyền (2010) [14], Hành động tại lời gián tiếp
của kiểu câu hỏi trong truyện ngắn của Nam Cao - Trần Thị Ái Lê (2012) [11], Câu
dưới bậc trong truyện ngắn Nam Cao - Trần Quốc Hoàn (2014) [9],… cùng các bài
báo khoa học: Đặc điểm nội dung – ngữ nghĩa đoạn văn kết thúc trong truyện ngắn
của Nam Cao - Nguyễn Thị Thu Hằng (2006) [7], Khảo sát câu ngắn trong tác phẩm
của Nam Cao - Nguyễn Thị Hoa (2009) [8], Hành vi ngơn ngữ rào đón thuộc phương
châm về chất trong một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao - Khuất Thị Lan
(2010), Các phát ngôn biểu thị trật tự quan hệ thời gian trong một số truyện ngắn của
Nam Cao - Phạm Thị Hương Giang (2013) [5],…
Gần đây nhất, trong năm 2015 này, đã có một vài bài báo khoa học nghiên cứu
về ngôn ngữ trong sáng tác Nam Cao như: Đặc điểm câu biểu hiện sự tình phát ngôn
trong truyện ngắn Nam Cao - Lê Thị Mỹ Hạnh (2015) [6], Thoại dẫn nửa trực tiếp
trong tác phẩm văn học - Mai Thị Hảo Yến (2015) [22],…
Nhìn chung, những cơng trình chun biệt nghiên cứu về Nam Cao rất phong
phú và đa dạng với hàng trăm tài liệu. Đặc biệt, các bài nghiên cứu đã nhìn nhận về


6

ngôn ngữ trong sáng tác của Nam Cao ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, theo hiểu
biết của chúng tơi, đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa học nào chính
thức đề cập đến vấn đề Ngôn ngữ đánh giá trong truyện ngắn Nam Cao trước năm

1945. Vì vậy, tìm hiểu vấn đề này, chúng tơi mong muốn sẽ tập hợp được một số tư
liệu về ngôn ngữ đánh giá trong truyện ngắn của Nam Cao và bước đầu có những nhận
xét về hiệu quả sử dụng của loại ngôn ngữ này trong nghệ thuật trần thuật. Qua đó, tác
giả luận văn hi vọng sẽ tiếp tục khám phá những khía cạnh cịn chưa được “giải mã”
trong truyện ngắn Nam Cao.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã đề cập ở trên, luận văn xác định đối
tượng nghiên cứu cần hướng đến là tác phẩm của Nam Cao trong giai đoạn trước năm
1945 (bao gồm 40 truyện ngắn và 01 tiểu thuyết) được in trong Nam Cao, do Hà Minh
Đức sưu tầm tuyển chọn và giới thiệu (Quyển 1, 2, NXB Cơng an nhân dân, 2004). Đó
là những tác phẩm đã được khẳng định rõ những đặc trưng văn phong và giá trị thẩm
mỹ của ngòi bút Nam Cao.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu ngôn ngữ đánh giá trong sáng tác Nam Cao dưới các
phương diện:
-

Cách thức thể hiện qua từ ngữ và các biểu thức ngôn ngữ.

-

Vai trò trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật tác phẩm.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp miêu tả
5.1.1. Thủ pháp phân tích ngữ cảnh
Ý nghĩa ngữ cảnh của một đơn vị từ vựng là ý nghĩa nó có trong tình huống nó

được sử dụng. Ý nghĩa này có thể đã được quy ước hóa (được quy định trong các từ
điển phổ thơng nhưng cũng có thể mang tính chất mới mẻ, đặc trưng, chuyên biệt. Từ


7

những năm 1970 Ngôn ngữ học ngày càng quan tâm đến vai trò của ngữ cảnh trong
giải thuyết nghĩa câu.
Trên đại thể, ngữ cảnh có thể được phân chia thành hai loại chính: ngữ cảnh tình
huống (context of situation) và ngữ cảnh văn hóa (context of culture). Theo Halliday,
“ngữ cảnh tình huống là một khái niệm lý thuyết đ ể giải thích cách thức một văn bản
liên hệ đến các quá trình xã hội mà văn bản tồn tại bên trong. Ngữ cảnh tình huống,
tuy nhiên, chỉ là mơi trường tức thời. Tồn tại một bối cảnh rộng lớn hơn ở đó văn bản
cần được giải thuyết: ngữ cảnh văn hóa của nó. Bất ngữ ngữ cảnh tình huống chân
thực nào cũng không phải là một mớ lộn xộn các đặc trưng mà là một thể thống nhất
đặc thù đi với nhau trong một văn hóa” [24, tr.277]. Hai loại ngữ cảnh này đóng vai trị
quan trọng trong xác định và nhận hiểu ý nghĩa chân thực (tức đúng theo chủ định của
người tạo thông điệp) của từ ngữ trong diễn ngơn, bởi ý nghĩa trong ngữ cảnh có thể
hồn tồn xa lạ với ý nghĩa nó vốn có trong từ vựng một ngôn ngữ. Tất cả diễn ngôn
đều bị hạn chế bởi một ngữ cảnh nhất định. Do đó, viện đến thủ pháp phân tích ngữ
cảnh, ta đặt diễn ngơn vào những cách hiểu có liên hệ đến văn hóa, xã hội để phần nào
giúp lí giải ý nghĩa của các biểu thức ngôn ngữ đánh giá.

5.1.2. Thủ pháp phân tích văn cảnh
Văn cảnh là những hình thức ngơn ngữ cùng xuất hiện trên văn bản có đối tượng
ngơn ngữ được khảo sát. Để có thể tìm ra một cách giải thuyết hoàn chỉnh cho bất cứ
một khúc đoạn ngơn ngữ nào trong diễn ngơn thì việc khảo sát các phần văn bản trước
và sau nó là yêu cầu bắt buộc. Việc nhận hiểu một đối tượng như thế khơng chỉ phụ
thuộc vào ngữ cảnh mà cịn chịu sự ràng buộc của văn cảnh quanh nó. Trong luận văn
này đối tượng khảo sát là các biểu thức ngôn ngữ đánh giá nên văn cảnh là những đối

tượng ngôn ngữ bao quanh hay đi kèm theo các biểu thức đó để tạo cho chúng tính xác
định về nghĩa.
Khi khảo sát các biểu thức ngôn ngữ đánh giá trong ngữ liệu, ta có thể thấy
những yếu tố ngữ cảnh đóng vai trị quan trọng trong việc xác định văn cảnh thích hợp
cho việc xác định ý nghĩa của các biểu thức. Việc xác định các biểu thức trong văn
cảnh và ngữ cảnh hồn tồn khắc phục nhược điểm của cơng việc phân tích diễn ngơn


8

thành các đối tượng biệt lập. Ý nghĩa chân thực của các biểu thức ngôn ngữ đánh giá
luôn được truy hồi thơng qua văn cảnh và ngữ cảnh mà nó liên hệ đến.

5.1.3. Thủ pháp phân loại và hệ thống hóa
Sau khi xác định được các biểu thức ngơn ngữ đánh giá và nắm bắt được ý nghĩa
trong ngữ cảnh của chúng, người viết vận dụng thủ pháp phân loại và hệ thống hóa để
sắp xếp các biểu thức ngơn ngữ đánh giá này vào từng nhóm dựa trên cơ sở Lý thuyết
hệ thống thẩm định.

5.2. Phương pháp thống kê toán học
Luận văn vận dụng phương pháp thống kê toán học để lập bảng thống kê số
lượng và tỉ lệ của các biểu thức ngôn ngữ đánh giá theo các phương diện, tiểu loại, từ
đó làm cơ sở để đối chiếu khuynh hướng đánh giá của Nam Cao theo những đối tượng,
thể loại khác nhau.

6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở chắt lọc ý tưởng, đóng góp ở các cơng trình của những người đi trước,
luận văn có một số phát hiện dựa vào sự ứng dụng ngơn ngữ học chức năng hệ thống
của Halliday, góp phần làm sáng tỏ nghệ thuật viết truyện của ông ở một góc độ soi
chiếu khác. Hi vọng luận văn sẽ đem lại những cái nhìn mới về ngơn ngữ trong văn

xuôi tự sự của một tác giả.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm ba
chương:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận
Trong chương này, chúng tôi làm rõ bản chất của ngơn ngữ đánh giá, từ đó tạo cơ
sở lí luận vững chắc để vận dụng vào tìm hiểu ngôn ngữ đánh giá trong sáng tác của
Nam Cao.


9

Chƣơng 2. Đặc điểm ngôn ngữ đánh giá về con người trong sáng tác Nam
Cao
Trong chương này, chúng tôi thống kê, tổng hợp, phân tích và lí giải các phương
tiện biểu thị sự đánh giá về con người trong sáng tác Nam Cao.

Chƣơng 3. Đặc điểm ngôn ngữ đánh giá về sự vật, hiện tượng trong sáng tác
Nam Cao
Trong chương này, chúng tơi thống kê, tổng hợp, phân tích và lí giải các
phương tiện biểu thị sự đánh giá về sự vật, hiện tượng trong sáng tác Nam Cao.


10

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Sơ lƣợc về Ngữ pháp chức năng hệ thống – Siêu chức năng liên nhân
1.1.1. Ngữ pháp chức năng hệ thống (Systemic Functional Grammar)
Mơ hình Lý thuyết thẩm định1 (LTTĐ) (Appraisal Theory) – còn gọi là Lý
thuyết đánh giá – do các nhà ngôn ngữ học người Úc J.R.Martin và P.R.R. White
phát triển gần đây trong khuôn khổ lý thuyết chung của Ngữ pháp chức năng hệ thống
(NPCNHT).
NPCNHT do Halliday đề nghị có thể được xem là cách tiếp cận tín hiệu học hệ
thống về ngơn ngữ. Theo đó, vấn đề then chốt trong quan điểm của Halliday là xem
xét các khía cạnh của ngơn ngữ khơng theo trục ngang của chiều tuyến tính mà theo
trục dọc của những sự lựa chọn. Với cách tiếp cận này, mối quan hệ của những sự lựa
chọn có liên quan đến việc biểu đạt nghĩa, giải quyết thỏa đáng những vỉa tầng sâu bên
trong của nghĩa, mang lại cho người tiếp cận cái nhìn đa chiều kích của cái ta gọi là
ngơn ngữ. Tính đa chiều kích (multidimensional architecture) của cấu trúc ngơn ngữ
chính là sự phản ánh bản chất đa chiều kích của những mối quan hệ liên nhân, tính đa
chiều kích của sự trải nghiệm mà con người có được về thế giới và tính đa chiều kích
trong cách tổ chức thơng điệp.
Nếu Ngữ pháp cấu trúc luận (Structural Grammar) là ngữ pháp ngữ đoạn với khái
niệm trung tâm là khái niệm cấu trúc và mối liên hệ giữa cấu trúc này với cấu trúc kia
thì NPCNHT lại khác hẳn. NPCNHT không phải là ngữ pháp ngữ đoạn mà là ngữ
pháp hệ hình hay hệ đối vị. Khái niệm “hệ thống” (system) về cơ bản chính là được
hiểu theo nghĩa đối vị này. Hệ đối vị chức năng (functional paradigm) của Firth được
Halliday phát triển thành cấu trúc hình thức của một mạng lưới hệ thống (system
network). Luận điểm quan trọng trong lý thuyết này là Ngữ pháp chức năng khảo sát
phạm vi những lựa chọn quan yếu bao gồm các kiểu nghĩa chúng ta muốn diễn đạt và
1

Appraisal: nghĩa là thẩm định hoặc đánh giá. Chúng tôi chọn dịch là “thẩm định” để gọi tên một lý thuyết ngôn
ngữ, phân biệt với từ “đánh giá” được dùng trong giao tiếp hàng ngày và phân biệt với thành tố “đánh giá” trong
hệ thống thẩm định mà chúng tôi sẽ đề cập ở sau.



11

các cách để biểu đạt những kiểu nghĩa này, rồi khớp ghép hai tập hợp lựa chọn này với
nhau. Cũng cần nói thêm rằng thuật ngữ “chức năng” trong lý thuyết của Halliday
đồng nhất với “nghĩa”. Ta thấy rõ điều đó qua lời khẳng định của Thompson – một
mơn đệ của Halliday:
“[…] trong cách tiếp cận chức năng đối với ngữ pháp, về cơ bản chúng ta đồng
nhất nghĩa với chức năng” (“in functional approaches to grammar we essentially equate meaning
with function.” [34, tr.8])

Có thể nói Halliday nhìn các yếu tố ngôn ngữ đặt trong mối tương quan của các
hệ thống. Các hệ thống này đóng vai trị quan trọng trong việc kiến giải các loại nghĩa
khác nhau và ngôn ngữ được tổ chức theo lối siêu chức năng (tức chức năng lớn,
những loại mang tính tổng quát cao của ý nghĩa – Metafunction). Nói cách khác, tất cả
các kiểu nghĩa mà ngơn ngữ thể hiện cần được giải thích thông qua sự tham chiếu với
ngữ cảnh xã hội và mục đích giao tiếp. Theo đó, có ba siêu chức năng của ngôn ngữ
trong tạo lập diễn ngôn (văn bản) là: 1. Siêu chức năng biểu đạt ý niệm, nội dung
(Ideational Metafunction); 2. Siêu chức năng cấu tạo, tổ chức diễn ngôn (Textual
Metafunction); 3. Siêu chức năng liên nhân (Interpersonal Metafunction). Các
siêu chức năng trên được biểu hiện rõ nét trong mơ hình dưới đây:

Hình 1.1. Mơ hình khái qt Ngôn ngữ học chức năng hệ thống


12

Mơ hình trên cho thấy ngơn ngữ là một nguồn tài nguyên bao gồm các nghĩa ý
niệm (ideational meaning), nghĩa liên nhân (interpersonal meaning) và nghĩa văn bản
(textual meaning) được hiện thực hóa đồng thời trong hầu hết các hoạt động giao tiếp.

Trong đó, nguồn lực ý niệm2 (ideational resources) có liên quan với kinh nghiệm sẵn
có về những gì đang xảy ra bao gồm: những người đang làm gì với ai, ở đâu, khi nào,
tại sao và làm thế nào; mối quan hệ logic với một sự việc khác đang diễn ra. Nguồn
lực liên nhân (interpersonal resources) có liên quan với việc dàn xếp các mối quan
hệ xã hội: mọi người đang tương tác như thế nào, bao gồm cả những cảm giác mà họ
cố gắng chia sẻ. Nguồn lực văn bản (textual resources) quan tâm đến dịng chảy
thơng tin: cách thức giúp ý nghĩa ý niệm và ý nghĩa liên nhân được phân bố trên văn
bản hay cho phép các kiểu nghĩa có thể đi với nhau trong một văn bản mạch lạc [31,
tr.7].
Ba siêu chức năng kể trên có thể xem là một trong những nội dung cơ bản nhất
của NPCNHT, cho phép người tìm hiểu có cái nhìn tổng thể về lý thuyết này. Tuy
nhiên, vì đề tài luận văn hướng về ngôn ngữ đánh giá, một nội dung quan yếu trong
siêu chức năng liên nhân, nên chúng tôi sẽ thu hẹp phạm vi quan tâm và chỉ trình bày
về siêu chức năng này ở phần sau.

1.1.2. Siêu chức năng liên nhân (Interpersonal function)
1.1.2.1. Khái niệm “siêu chức năng liên nhân” (Interpersonal function)
Siêu chức năng liên nhân được hiểu là “nguồn lực ngôn ngữ để tạo nên các ý
nghĩa liên nhân (tương tác với người khác, bộc lộ cảm xúc, thể hiện quan điểm, biểu
đạt ý kiến, v.v.)” (“Interpersonal function: Language resources for creating interpersonal
meanings (interacting with others, expressing feelings, taking a stance, making judgment, etc.) [27,

tr.21]). Nội hàm khái niệm cho thấy siêu chức năng này “thể hiện tất cả việc sử dụng
ngôn ngữ để diễn đạt các mối quan hệ xã hội và các quan hệ cá nhân. Điều này bao
gồm những cách khác nhau mà người nói sử dụng trong tình huống nói và thực hiện
hành động nói” [24, tr.18]. Rõ hơn, chúng ta có thể sử dụng ngơn ngữ để tương tác với
người khác bằng cách đặt câu hỏi, đưa ra đề nghị, thể hiện quan điểm hay ra lệnh, biểu
2

Thuật ngữ “ý niệm” chúng tơi dùng ở đây có nội hàm không trùng với khái niệm “ý niệm” trong Ngôn ngữ học

Tri nhận.


13

lộ cảm xúc (ý kiến) tích cực hoặc tiêu cực, v,v. Nói cách khác, siêu chức năng liên
nhân thể hiện mối quan hệ, sự tương tác giữa các bên giao tiếp khi dụng ngơn. Vì vậy,
nó phục vụ đắc lực cho việc thiết lập và duy trì các mối quan hệ xã hội. Halliday cho
biết siêu chức năng này được thực hiện thông qua hệ thống Thức (Mood system) và
hệ thống Tình thái (Modality system). Thức chỉ rõ vai trị mà người nói lựa chọn
trong tình huống nói và vai trò mà anh ta ấn định cho người nghe. Chẳng hạn, nếu
người nói chọn thức cầu khiến thì anh ta cho mình vai trị ra lệnh và sắp đặt người
nghe vào vị trí tn lệnh. Tình thái định rõ người nói thể hiện sự đánh giá hoặc nói ra
dự đốn của mình, như phát ngơn “Ngày mai trời sẽ mưa”.
Nhìn chung, siêu chức năng liên nhân thể hiện ở hệ thống ngơn ngữ với mục
đích hành động trong mối quan hệ qua lại với người khác trong môi trường giao tiếp,
từ đó tạo cơ sở cho tất cả việc sử dụng ngơn ngữ.

1.1.2.2. Tính tương tác – hạt nhân của Siêu chức năng liên nhân
Như đã đề cập ở trên, một trong những mục đích chủ yếu của giao tiếp đó là
tƣơng tác (interact) với người khác nhằm thiết lập và duy trì các mối quan hệ xã hội.
Nếu chúng ta hình dung ngơn ngữ chỉ đơn giản như hệ thống một chiều (one-way) để
nói với người khác về mọi thứ thì chúng ta đã có cái nhìn lệch lạc đối với bản chất
hoạt động của ngôn ngữ. Bởi lẽ trên thực tế chúng ta sử dụng ngôn ngữ không chỉ để
cung cấp mà còn để trao đổi ý nghĩa, vì vậy sự giao tiếp vốn dĩ là hai chiều (twoway). Bằng cách tiếp cận ngôn ngữ theo hướng chức năng, chúng ta giả định ngôn ngữ
là một hệ thống được phát triển nhằm phục vụ các nhu cầu thiết yếu của con người,
trong đó có nhu cầu tương tác với thế giới. Muốn vậy, sự tương tác tự thân nó phải tìm
đến một hình thức tương thích để biểu hiện ra bên ngồi. Hình thức đó chắc chắn phải
thuộc về một khía cạnh của ngữ pháp, được xác định khi chúng ta tương tác thông qua
ngôn ngữ. Trên thực tế, có một số cấu trúc ngữ pháp đặc trưng đảm nhiệm vai trò trao

đổi nghĩa giữa những người tương tác. Để minh họa cho ý này, Thompson [34, tr.45]
đưa ra một ví dụ đơn giản như sau:
Might I ask you if you could recommend a couple of nice books on taboo
language?


14

(Liệu rằng tơi có thể đề nghị bạn giới thiệu cho tôi một vài cuốn sách thú vị về
ngôn ngữ kiêng kị được khơng?)
Nội dung của câu trên là gì? Người nghe có thể dễ dàng xác định ngay người đối
diện đang đề cập đến “những cuốn sách” (“books”) và “lời giới thiệu”
(“recommending”). Chúng ta cũng có thể chấp nhận “bạn” (“you”) là một phần của
nội dung trong mối liên hệ với “giới thiệu” (“recommend”). Chi tiết hơn, cụm từ “về
ngơn ngữ kiêng kị” (“on taboo language”) cịn cung cấp cho ta thơng tin bổ sung về
đặc tính của những cuốn sách và do đó nó cũng thuộc về nội dung. Tuy nhiên, các yếu
tố cịn lại trong ngơn bản lại không thuộc về cùng một ý nghĩa với những yếu tố trên.
Khó lịng nói rằng từ “có thể” (could) và cụm từ “liệu tơi có thể đề nghị bạn” (“might I
ask you”) đề cập đến nghĩa sự việc trong câu, nó chỉ thể hiện thái độ lịch sự trong lời
đề nghị của người nói. Hơn nữa, nếu chúng ta xem xét kĩ hơn sẽ thấy thêm rằng từ
“nice” chứa đựng cảm xúc (feeling) của người nói về những cuốn sách, thể hiện ngay
trong cách anh ta dùng từ. Tóm lại, chúng ta có thể khái quát kết quả phân tích ở trên
qua bảng dưới đây:
NỘI DUNG
(CONTENT)

[I ask you]

you


recommend

books on taboo language

SỰ TƯƠNG TÁC
(INTERACTION)

Might I ask you if

could

nice

?

Qua đó, ta buộc phải thừa nhận sự tương tác là bản chất cốt lõi và là biểu hiện
của ý nghĩa liên nhân.
Nhìn chung, khi tạo lập một diễn ngôn (văn bản), bao giờ con người cũng có mục
đích: để xác lập và duy trì các mối quan hệ xã hội; để tác động đến thái độ và cách ứng
xử của người khác; để thể hiện quan điểm của chúng ta về thế giới; để kêu gọi hay làm
thay đổi quan điểm của người đối thoại; để yêu cầu người đối thoại cung cấp thông tin;
v.v. Và siêu chức năng liên nhân không đảm trách vai trị nào khác ngồi phản ánh vấn
đề trên. Có thể nói, khi tương tác là bản chất của sự dụng ngơn thì chắc chắn ngữ pháp
của ngơn ngữ phải hàm chứa thành tố đảm bảo cho chúng ta có thể sử dụng ngơn ngữ


15

để tương tác. Theo Halliday (1994), siêu chức năng liên nhân liên quan đến quan hệ
liên nhân (tenor) hay tính tƣơng tác (interactivity) của diễn ngơn. Đến lượt mình,

quan hệ liên nhân (tenor) hay tính tương tác (interactivity) lại được diễn giải qua ba
thành tố:
i. Khoảng cách xã hội (social distance): chỉ mức độ gần gũi của các bên giao
tiếp. Chẳng hạn, việc dùng các đại từ nhân xưng “mày”, “tao” hay biệt danh cho thấy
mức độ thân mật giữa các thành viên tham gia đối thoại. Ngược lại, việc dùng các
danh xưng chức vụ như “giáo sư”, “giám đốc”, “thiếu tướng” cho thấy mức độ quan
cách, khách khí.
ii. Vị thế xã hội tương đối (relative social status): cho biết các bên giao tiếp có
ngang hàng với nhau hay khơng, xét về quyền lực hay mức độ hiểu biết về đối tượng,
vấn đề đang được bàn luận. Chẳng hạn, quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới trong cơ
quan được xem là không ngang hàng (cấp dưới phục tùng cấp trên). Hoặc trong các
hành động ngôn từ (speech acts), vị thế xã hội tương đối được biểu thị qua việc ai là
người hỏi, ai là người trả lời, ai là người được chọn chủ đề giao tiếp, điều khiển lượt
lời,…Ví dụ qua câu nói: “Liệu tơi có thể nhờ anh giới thiệu một cuốn sách mới về ngữ
pháp chức năng khơng?”, người tiếp nhận có thể hiểu theo nhiều góc độ nghĩa khác
nhau. Từ góc độ nghĩa ý niệm thì câu này nói về việc giới thiệu một cuốn sách mới về
ngữ pháp chức năng. Từ góc độ nghĩa liên nhân, ngữ đoạn “Liệu tơi có thể nhờ anh”
thể hiện một lời nhờ lịch sự. Như vậy, trong một câu nói như vừa dẫn ở trên, có thể
tách ra hai loại nghĩa: nghĩa ý niệm và nghĩa liên nhân.
iii. Sự thể hiện cá nhân của người nói/ người viết (speaker/writer): được thực
hiện thơng qua cách dùng từ ngữ mang tính đánh giá (thẩm định) là điều chúng tôi
dành sự quan tâm chủ yếu. Các từ ngữ thể hiện sự đánh giá của người nói/người viết
có thể được xem xét dựa trên Bộ khung thẩm định (Appraisal Framework) trong Lý
thuyết thẩm định do J.R. Martin và P.R.R. White (2005) phát triển từ lý thuyết Ngữ
pháp chức năng hệ thống của Halliday. Về phần này chúng tôi sẽ đề cập cụ thể, chi tiết
ở mục sau.


16


Tóm lại, ngơn ngữ khơng đơn thuần chỉ là nội dung phản ánh và tổ chức ý niệm
hiện thực trong trí óc của người sử dụng thơng qua các chủ đề và hệ thống chuyển tác
(transitivity system), mà nó cịn được dùng để mã hóa sự tương tác với các cá nhân
khác. Siêu chức năng liên nhân trong Ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday đã
minh định cho điều đó. Ý nghĩa liên nhân bao gồm việc diễn đạt lại ý kiến và thái độ
của người nói/ người viết. Ngoài ra, trong ngữ nghĩa học, ý nghĩa liên nhân bao gồm
loại hành động ngôn từ được lựa chọn (như nhận định, đề nghị, nghi vấn và cầu
khiến), được hiện thực hóa bằng các tùy chọn về ngữ pháp và được mã hóa bằng các
phương tiện của ba thức về cú pháp (xác định, nghi vấn và mệnh lệnh). Như thế, quan
hệ liên nhân thường được thể hiện qua: vai (người nói và người nghe, người đóng vai
trị chi phối) và mục đích giao tiếp (cung cấp thơng tin, hỏi, yêu cầu, biểu lộ thái độ và
tình cảm, thiết lập và duy trì các quan hệ); thái độ, tình cảm, quan điểm; sự đánh giá
hành vi con người (xét về phương diện xã hội, đạo đức, pháp lí), đặc điểm (chất lượng,
giá trị thẩm mỹ) của sự vật và hiện tượng. Mức độ của thái độ, tình cảm, sự đánh giá
được thể hiện cũng là một phần của quan hệ liên nhân.

1.2. Một số quan điểm và nguyên lí cơ bản của Lý thuyết thẩm định
1.2.1. Một số quan điểm về thẩm định
Đối với thẩm định, trước J.R.Martin và P.R.R. White đã có một số mơ hình ngơn
ngữ đánh giá của các tác giả khác tiếp cận theo nhiều hướng đa dạng. Đơn cử năm
2000, trong cơng trình “Evaluation: an introduction” (“Giới thiệu về Ngôn ngữ đánh
giá”), Hunston và Thompson đã cung cấp một lý thuyết tổng quan phù hợp nhất, đem
đến một sự phân biệt hữu ích giữa ý kiến đánh giá về thực thể và ý kiến đánh giá về
vấn đề. Theo đó, ý kiến đánh giá về thực thể có khả năng biểu thị thái độ và liên quan
đến những cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực. Trái lại, ý kiến đánh giá về vấn đề có khả
năng biểu thị nhận thức và liên quan đến các mức độ chắc chắn. Hunston và
Thompson cũng lưu ý rằng các ý kiến đánh giá trên có thể được giải mã thông qua từ
vựng và ngữ pháp. Các hướng tiếp cận khác có thể tìm thấy ở những cơng trình như:
“Language is a heart” (“Ngôn ngữ là trái tim” – 1989 – Ochs và Schiefflen), “Styles
of stance in English: lexical and grammatical marking of evidentiality and affect”



17

(“Các kiểu quan điểm trong tiếng Anh: bằng chứng dấu ấn trên từ vựng, ngữ pháp và
tác động của nó” – 1989 – Biber và Finegan), “Modality in Grammar and Discourse”
(“Tình thái trong Ngữ pháp và Diễn ngơn” – 1995 – Bybee và Fleischman),… Cũng
như Hunston và Thompson, các nhà nghiên cứu này đưa ra những sự đối lập nhằm
phân biệt giữa “giá trị” (value) với “mức độ tương tác”3 (interactive plane), giữa “giá
trị” (value) với “mức độ độc lập”4 (autonomous plane). Tuy nhiên, sau đó Hunston lại
tiếp tục phát triển thêm một định hướng đánh giá khác phân biệt giữa “giá trị” (value)
và “trạng thái” (status), nhờ đó có thể xác định được ý đồ của người nói. Chẳng hạn,
khi người nói cho rằng một sự việc nào đó là “thực tế”, nếu “thực tế” thuộc về giá trị
(value) thì đó là lời đánh giá, mặt khác nếu “thực tế” thuộc về trạng thái (status) thì đó
lại là một lời giả định hoặc đề nghị,…
Trên cơ sở tiếp thu thành tựu của những cơng trình đi trước, Martin và White đã
bắt đầu phát triển các quan điểm về ngôn ngữ đánh giá trong mối liên hệ với ý nghĩa
liên nhân. Ban đầu, họ quan tâm đến sự ảnh hưởng của ngơn ngữ đánh giá trong
truyện, sau đó chuyển dần sang xem xét đánh giá trong những thể loại khác như phê
bình văn học, báo chí, diễn ngơn chính trị, diễn ngơn lịch sử,... Từ đó các nghiên cứu
đã đi qua nhiều lĩnh vực, khung lý thuyết được hình thành và ổn định phần nào. Vì
vậy, kể từ đây, các lí thuyết luận văn trình bày sẽ chủ yếu dựa trên thành quả nghiên
cứu của Martin và White.

1.2.2. Nguyên lí cơ bản của Lý thuyết thẩm định
LTTĐ hay Lý thuyết ngơn ngữ đánh giá được xây dựng nhằm giải thích một cách
có hệ thống về cách thức mà người sử dụng ngơn ngữ thể hiện những thái độ tích cực
và tiêu cực của mình đối với nội dung, chủ đề đang được đề cập, nhằm làm tăng hay
giảm sức thuyết phục của phát ngôn ở trong diễn ngôn, xác định rõ vị trí và vai trị của
chính người sử dụng ngơn ngữ (người nói/ người viết) đối với những phát ngôn xuất

hiện liền trước hay liền sau nội dung đang được nói tới ở diễn ngơn. Đây là hệ lý
thuyết cung cấp một mơ hình chức năng có ý nghĩa liên nhân ở cấp độ ngữ nghĩa diễn

3

“mức độ tương tác”: đánh giá một vấn đề nào đó dựa trên mối quan hệ với các vấn đề khác trong cùng một văn
bản.
4
“mức độ độc lập”: đánh giá tính chất tự thân của một hiện tượng nào đó, ví dụ như: “tốt”,“xấu”,…


18

ngôn (discourse semantics). “Cấp độ ngữ nghĩa diễn ngôn biểu hiện nghĩa nằm ngoài
mệnh đề (clause) hoặc văn bản (text), có liên quan đến các khía cạnh khác nhau của tổ
chức diễn ngôn, bao gồm các vấn đề: con người, địa điểm và sự việc được giới thiệu
trong văn bản như thế nào; nguyên nhân, thời gian, độ tương phản hay tương đồng của
các sự kiện; sự kết nối các lớp ý niệm (ideation) từ nhỏ đến lớn; phương cách tổ chức
các lớp ý niệm thành một hệ thống thông tin mạch lạc; sự thiết lập đánh giá, v.v.” [31,
tr.9]. Sở dĩ thẩm định được đặt trong ngữ nghĩa của diễn ngơn là vì ba lí do:
Thứ nhất, việc hiện thực hóa một thái độ có xu hướng thể hiện nổi bật qua một
giai đoạn của diễn ngôn, không phân biệt ranh giới ngữ pháp - đặc biệt là nơi cấu trúc
ngữ pháp được mở rộng. Chẳng hạn, ta thấy các lời người hâm mộ Stevie Ray
Vaughan ca ngợi dưới đây (trích từ trang web www.amazon.com) chứa đựng một sự
đánh giá tích cực nhiều hơn cả tổng nghĩa của các câu cộng lại:
Awesome! Awesome! Awesome! Awesome! It’s very worth buying.
Oh did I say that it’s awesome! Thank you. Stevie Ray!
(Tuyệt vời! Tuyệt vời! Tuyệt vời! Tuyệt vời! Thật là đáng giá! Chao ôi quá tuyệt
vời! Cảm ơn bạn. Stevie Ray)
Thứ hai, một thái độ nhất định có thể được thực hiện qua một loạt các phạm trù

ngữ pháp, như trong các ví dụ sau đây:

(1) an interesting contrast in styles

adjective (Epithet – Tính ngữ)

(một sự đối lập phong cách thú vị)
(2) the contrast in styles interested me

verb (Process – Quá trình)

(sự đối lập phong cách làm cho tơi thích thú)
(3) interestingly, there’s a contrast in styles

adverb (Comment Adjunct –

(thật thú vị, có một sự đối lập phong cách)

Trạng ngữ bình luận)

Chúng ta cần thoát ra khỏi từ pháp để khái quát các nghĩa đánh giá chung cho loại
phân bố này.


×