Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tải Phân tích vẻ đẹp của hình tượng "li khách" trong bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm - Dàn ý + bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.65 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của hình tượng "li khách" trong bài thơ Tống</b>
<b>biệt hành của Thâm Tâm Ngữ văn 11</b>


<b>Dàn ý chi tiết</b>
<b>1. Mở bài</b>


- Sơ lược về Thâm Tâm và phong cách sáng tác.


- Giới thiệu tác phẩm với hình tượng li khách.


<b>2. Thân bài</b>


a. Hình tượng li khách với vẻ đẹp hào hùng, khí thế, mạnh mẽ:


- Buổi tiễn đưa khơng ở bến sơng, hay ga tàu làm tăng khí thế của người đi.
- "Chí lớn chưa về bàn tay khơng/Thì khơng bao giờ nói trở lại/Ba năm mẹ già
cũng đừng mong": Người bước ra từ con đường nhỏ của quê hương, mang một
lịng quyết tâm, một chí khí hùng dũng, hăng hái tột bậc của thời trai trẻ, nhất
định phải làm nên công danh. giọng điệu cương quyết mạnh mẽ như thấy hình
tượng của một tráng sĩ, một đấng nam nhi thời cổ đại lên đường lập công danh.


- Anh muốn lãng quên tất cả, để cho khỏi nặng lòng chinh nhân, "Mẹ thà coi
như chiếc lá bay/Chị thà coi như là hạt bụi/Em thà coi như hơi rượu say".
Quyết tâm dứt áo ra đi một cách mạnh mẽ, hào hùng, li khách dằn lòng để quên
đi những người đang mong ngóng.


b. Hình tượng li khách với nỗi buồn biệt li:


- "Sao có tiếng sóng ở trong lịng?", thể hiện một nỗi buồn mênh mang, ngây
ngất trong lòng li khách khi gặp cảnh biệt ly.



- Bóng chiều sa dẫu có khơng gợi buồn lãng mạn bằng những nét thắm, nét
vàng vọt thì nó vẫn để lại trong tấm lịng người thanh niên trẻ một cái gì đó rất
man mác, gợi buồn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Nỗi buồn mênh mang kéo dài trong lịng li khách, buồn từ "chiều hơm trước",
rồi "buồn sáng hôm nay" đã được cái vẻ cứng rắn, mạnh mẽ cùng cái khí thế
hùng tráng, trầm hùng bao bọc nên cái nỗi buồn của người đi nó cũng vơi đi
nhiều, nhưng chẳng thể nào che giấu hết.


- "Ly khách ven trời nghe muốn khóc/Tiếng đời xơ động, tiếng hờn căm":
Bóng hồng hơn đã xa, q hương gia đình cũng đã xa, chỉ cịn lại mình li
khách với cái bóng lặng lẽ âm thầm hứng từng cơn gió lạnh, nhuệ khí, lời thề
ghê gớm, kiên quyết mấy cũng chẳng thể chống nổi cái buồn thương lúc này.
Li khách chỉ muốn khóc lên giữa sự trống trải cơ đơn và cái đích xa vời.


<b>3. Kết bài</b>
- Nêu cảm nhận
<b>Bài làm</b>


Biệt li là đề tài xuất hiện khá nhiều trong thơ ca nói chung và trong thơ Thâm
Tâm nói riêng. Đọc thơ ơng ta thường gặp những từ như "lưu biệt", "chia li", "li
ca"... Trong cảnh biệt li, thường có người ra đi và người đưa tiễn. Bài Tống biệt
hành của Thâm Tâm khơng phải là một ngoại lệ. Có điều, từ đầu chí cuối bài
thơ, nhân vật "li khách" - người ra đi khơng trực tiếp xuất hiện, khơng bộc lộ
điều gì; tác giả dùng phép "Tả chủ hình khách", dường như ông chỉ thể hiện
những cảm xúc và suy nghĩ của người đưa tiễn. Nhưng qua đó, ta thấy hiện lên
rất rõ hình ảnh cao cả của "li khách với vẻ đẹp đầy nhân tình, đầy tinh thần
nhân bản, trong cuộc chia li bi phẫn.”


<i>Bóng chiều khơng thắm, khơng vàng vọt</i>



Bốn câu mở đầu, Thâm Tâm đặc tả nỗi lòng xao xuyến, tái tê cùa người đưa
tiễn (ta) bằng những hình ảnh đầy gợi cảm, với một nhịp điệu chậm rãi và trĩu
nặng suy tư:


<i>Đưa người ta không đưa qua sông,</i>


<i>Sao có tiếng sóng ở trong lịng?</i>


<i>Bóng chiều khơng thắm, khơng vàng vọt,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Không gian và thời gian của cuộc tiễn đưa này thực ra rất mơ hồ: chẳng có
dịng sơng, mà cũng chẳng có bóng chiều tươi thắm, hay vội vàng. Nhà thơ nói
đến những cái khơng có. Nhưng, sơng nước, con đị, tiếng sóng, bóng chiều...
là những hình ảnh đã xuất hiện khơng ít trong thơ Phương Đông và đã đi vào
tiềm thức của bao người đọc. Bởi vậy, đoạn thơ nói cái khơng có, mà dường
như lại khắc họa được cái có, tạo nên một trường liên tưởng thật gợi cảm:
người ra đi và người đưa tiễn tựa hồ đã đến bến sông, dù không muốn rời nhau,
nhưng họ đành phải chia tay vào lúc hoàng hồn sắp bng xuống... Ngồi ra, từ
nhan đề của bài thơ đến giọng điệu và những hình ảnh của đoạn thơ trên phải
chăng có tác dụng như một điển cố, khiến người đọc nhớ đến nhân vật Kinh
Kha trong Sử kí của Tư Mã Thiên nói về cuộc tiễn biệt bên sông Dịch Thủy
trước khi người tráng sĩ đi sang đất Tấn? Điều ấy cịn góp phần quan trọng tạo
khơng khí có bi hùng, làm nền cho những hình ảnh xưa, những chữ có xuất
hiện một cách tự nhiên, một cách nhất quán ở những đoạn thơ tiếp theo.


Nói cho cùng, cảnh vật trên đã được "nhìn" qua tâm trạng bâng khng, xao
xuyến của con người. Chính vì xao xuyến nên cho dù không đưa bạn qua sông,
nhưng người đưa tiễn vẫn thấy "sóng ở trong lịng", vẫn thấy bóng hồng hơn
ngập tràn trong ánh mắt. Người đọc có lần đã bắt gặp hình ảnh "sóng tình",


"sóng lịng" trong thơ của Nguyễn Du của Nam Trần... Tuy vậy đúng như nhà
nghiên cứu Nguyễn Hồnh Khung đã nhận xét: cách nói của Thâm Tâm ở đây
kín đáo và dư ba hơn. Thêm nữa nhờ sự phối hợp bằng trắc (câu đầu gồm tồn
thanh bằng, câu thứ hai có ln ba thanh trắc rất gắt ("có tiếng sóng"), câu thứ
tư trừ chữ "mắt" còn tất cả đều thanh bằng) nhờ cách điệp câu hỏi tu từ và cách
điệp âm ("sao có" - "sao đầy"; "đưa người" - "đưa qua sông"; "trong mắt
trong"), Thâm Tâm tạo ra được giọng điệu riêng, vừa thiết tha tràn đầy xúc
cảm, vừa rắn rỏi hiên ngang. Giọng điệu này chính là chủ âm, chi phối tồn bộ
bài thơ, góp phần tạo nên nét hấp dẫn độc đáo của Tống biệt hành.


Đoan thơ tiếp theo:


<i>Đưa người, ta chỉ đưa người ấy</i>


<i>Một giã gia đình một dửng dưng...</i>


<i>- Li khách! Li khách! con đường nhỏ.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Thì khơng bao giờ nói trở lại.</i>


<i>Ba năm mẹ già cũng đừng mong</i>


Giúp người đọc hiểu rõ hơn cốt cách của người ra đi. Trong cuộc tiễn biệt này,
người tiễn chỉ biết có người đi. Điều này nói rõ ý nghĩa thiêng liêng của cuộc ra
đi và mối quan hệ gắn bó thân thiết giữa hai người. Người tiễn hiểu rất rõ
khơng thể lay chuyển chí hướng sắt đá của "li khách". Bởi lẽ, "li khách" khơng
phải là kẻ bình thường mà là người lãng mạn có dáng dấp trượng phu "dứt áo
ra đi", quyết "một đi không trở về", tựa hồ như "chàng tuổi trẻ" "xếp bút
nghiên", hùng dũng sẵn sàng ra chiến trường lấy da ngựa bọc thây trong Chinh
phụ ngâm, hay những khách chinh phụ ra đi "không vương thê nhi" xuất hiện


khá nhiều trong thơ ca lãng mạn đương thời, khi các thi sĩ có khuynh hướng trở
về cội nguồn, trở về q khứ. Anh quyết ra đi khơng vì khúc mắc với gia đình
hay vì miếng cơm manh áo, mà bởi vì khơng chấp nhận cuộc sống tù túng, tầm
thường; ra đi để thực hiện "chí nhớn". Do đó bất chấp mọi sự đau xót, đắng
cay... Dựa trên câu chữ của bài thơ, có lẽ chưa hồn tồn có đủ cơ sở để khẳng
định người ra đi là "chiến sĩ cách mạng lên đường tranh đấu" (Mặc dù mỗi nhà
văn lão thành đã khẳng định: Thâm Tâm làm bài thơ này để tiễn bạn lên chiến
khu Việt Bắc năm 1941). Phải chăng người ra đi chỉ nên hiểu là một con người
cao cả, mang "chí nhớn'' Có nghĩa là mang "tình thần siêu việt muôn thuở của
con người" theo cách diễn đạt của Hồng Ngọc Hiến? Cách hiểu này khiến cho
hình ảnh của "li khách" có tính phổ qt tồn nhân loại, (mà cũng khơng làm
giảm mất tính khuynh hướng cụ thể của thi phẩm).


Do thái độ quyết liệt, lạnh lùng của người ra đi với quyết tâm không trở về nếu
"chí nhớn" chưa thành đã khiến cuộc tiễn đưa mang màu sắc vĩnh biệt, giống
như cuộc tiễn đưa Kinh Kha vào đất Tấn vậy.


- Li khách! Li khách! Con dường nhỏ


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

những níu giữ thường tình, lên đường vì nghĩa lớn, để cuộc đời mình từ chỗ
nhạt nhồ vơ nghĩa có cơ hội cháy sáng huy hồng. Và nếu đặt bài thơ này vào
những năm đầu sôi sục của thập kỷ 40, người đọc khơng thể khơng ít nhiều
nhận thấy tình cảm của Thâm Tâm trước hiện thực đầy biến động của đất nước.
Tính chất thời sự này, tác giả cịn nói rõ hơn với niềm lạc quan ở một số bài thơ
khác như Tráng ca hay Vọng nhân hành (Sông Hồng chàng phái xưa sông Dịch
- Ta ghét hồi câu "nhất khứ hề").


<i>Sao có tiếng sóng ở trong lòng</i>


Những câu còn lại của bài thơ vẫn là suy nghĩ, là xúc cảm của người đi tiễn sau


khi chia biệt, khắc họa đậm nét một phương diện tính cách khác của người ra
đi. Người tiễn biết rất rõ bên trong cái vẻ hùng dũng và khẩu khí ngang tàng
"một giã gia đình một dửng dưng" kia, "li khách" cịn có một nỗi buồn dai
dẳng, triền miên.


<i>Ta biết người buồn chiều hôm trước ... Ta biết người buồn sảng hơm nay.</i>


Thì ra con tim cùa "li khách" thật mềm yếu, thật cô đơn! Ra đi, anh bỏ lại mẹ
già, hai chị héo mòn và đứa em ngây thơ - những người đang cần đến anh như
một chỗ dựa. Hai chị khóc đến cạn nước mắt "khuyên nốt em trai dịng lệ sót"
nhưng vẫn khơng níu được bước chân em, dẫu trong lòng em cũng tràn ngập
nỗi buồn đau:


<i>Ta biết người buồn sáng hôm nay:</i>


<i>Giời chưa mùa thu. tươi lắm thay</i>


<i>Em nhỏ ngây thơ đơi mắt biếc</i>


<i>Gói trịn thương tiếc chiếc khàn tay...</i>


Trời tươi thắm, đứa em nhỏ e ấp trao cho anh vật kỷ niệm trước giờ li biệt, với
bao niềm thương nỗi nhớ...


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

hóa nội tâm. Biến hóa mà khơng rối vì chi tiết đột biến ấy đã phát triển và đồng
hóa vào bài "Mùa hạ sen nở nốt" đã dẫn đến "Một chị, hai chị cũng như sen" và
vì nở nốt mới gợi tới "dịng lệ sót". Ở đoạn dưới cũng vậy "Giời chưa mùa thu"
tạo ấn tượng ngây thơ "đôi mắt biếc" của đứa em


Như trên đã nói, cuộc tiễn đưa này thật là thiêng liêng, có màu sắc vĩnh biệt.


Bởi thế, đền phút chót, khi "li khách" lên đường; người tiễn - tuy đã được
chuẩn bị về mặt tâm lý, tuy vẫn đồng tình với người ra đi vẫn giật mình, bàng
hồng, khơng muốn tin vào sự thật đau lòng. Câu thơ giống như một lời độc
thoại, một câu nói thầm thể hiện tài tình tâm trạng ấy:


<i>Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!</i>


Cuối cùng là những câu man mác buồn, giọng thơ lắng xuống, lần lượt nói về
những người thân ở lại:


<i>Mẹ thà coi như chiếc lá bay.</i>


<i>Chị thà coi như là hạt bụi,</i>


<i>Em thà coi như hơi rượu say.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

phản, để thể hiện tinh tế tâm trạng giằng xé của "người ra đi dẫu khơng ngoảng
lại" (Nguyễn Đình Thi).


Ngồi ra, trong bài thơ này, bên cạnh những câu thơ êm ái, dịu dàng kết quả
của nghệ thuật phối thanh, của cách gieo vần và của lối điệp:


<i>Sao đầy hoàng hơn trong mắt trong</i>


<i>Em nhỏ ngày thơ đơi mắt biếc</i>


<i>Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay</i>


Là những câu thơ rất gắt tựa như câu nói của người đang uất ức, đọc lên tỏ rằng
có sự hụt hẫng (khác xa với phần nhiều những câu thơ uyển chuyển giàu chất


âm nhạc và hội họa của phong trào Thơ mới):


<i>Chí nhớn chưa về bàn tay khơng</i>


<i>Thì khơng bao già nói trở lại</i>


<i>Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.</i>


Phải chăng, bằng cách sử dụng luân phiên những câu thơ có giọng điệu đối lập
nhau này. Tác giá có dụng ý "tạo nên những chu kỳ âm hưởng, đáp ứng tứ thơ",
khác họa hai phương diện trong tính cách của "li khách" như đã nói ở trên?
Bằng Tống biệt hành, Thâm Tâm đã đem đến cho kho tàng thơ Việt Nam một
tác phẩm độc đáo làm "sống lại cái khơng khí riêng của nhiều bài thơ Cổ",
nhưng vẫn "đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại" (Hồi Thanh) với
những hình ảnh, thi tứ, giọng điệu... thật mới mẻ, hấp dẫn. Bài thơ thể hiện một
cách tài tình về đẹp của "li khách" - "của con người cao cà trong toàn bộ sự
biểu hiện chân thật của nhân tình, đẩy tinh thần nhân đạo”


</div>

<!--links-->

×