Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tải Phân tích về nghệ thuật xây dựng hình ảnh trong Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên - Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.04 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Phân tích về nghệ thuật xây dựng hình ảnh trong Tiếng hát con</b>
<b>tàu của Chế Lan Viên Ngữ văn 12</b>


<b>Bài làm 1</b>


Một trong những thành công nổi bật của bài thơ Tiếng hát con tàu là nghệ thuật
sáng tạo hình ảnh. Có những hình ảnh được xây dựng theo thủ pháp tả thực,
song tiêu biểu là những hình ảnh - biểu tượng chứa đựng những khái quát triết
lí sâu sắc, thể hiện chất riêng của phong cách thơ Chế Lan Viên.


Trong dòng hồi nhớ, những hình ảnh tả thực gắn liền với những kỉ niệm kháng
chiến, là hình bóng của con người và thiên nhiên Tây Bắc đã in sâu trong kí ức
nhà thơ: Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn; Lửa hồng soi tóc bạc; bản sương
giăng, đèo mây phủ; Vắt xơi ni quân em giấu giữa rừng,... Như thế, kỉ niệm
đã hiện hình bằng những chi tiết xác thực.


Ngay nhan đề của bài thơ đã là một hình ảnh biểu tượng: Tiếng hát con tàu.
Biểu tượng về khát vọng và niềm hân hoan lên đường này có cơ sở từ thực tế:
những năm 1958


1960 có một cuộc vận động lên Tây Bắc xây dựng kinh tế miền núi. Chỉ có
điều là vào thời điểm ấy chưa hề có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Cho
nên, Tây Bắc ở đây không chỉ dừng lại ở ý nghĩa một địa danh cụ thể mà nó
cịn có ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống của nhân dân, là mảnh đất lớn chứa
đựng nhiều hứa hẹn, nơi khởi nguồn của mọi cảm hứng nghệ thuật chân chính.
Chúng ta cịn bắt gặp nhiều hình ảnh được xây dựng theo phương thức ẩn dụ
như thế trong suốt bài thơ: gió ngàn đang vẫy gọi; vầng trăng; trái đầu xuân;
Mẹ yêu thương; Mùa nhân dân giăng lúa chín; mẹ của hồn thơ; vàng ta đau
trong lửa; Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân,... Những hình ảnh biểu tượng
kích thích trí tưởng tượng, suy ngẫm của người đọc để tạo ra những liên tưởng
sâu xa, bất ngờ. Bên cạnh đó, người đọc cịn thấy hàng loạt các hình ảnh so


sánh độc đáo: ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa - Mười năm sau
còn đủ sức soi đường; Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ - cỏ đón giêng
hai, chim én gặp mùa - Như đứa trẻ thơ đói lịng gặp sữa - Chiếc nôi ngừng
bỗng gặp cánh tay đưa; Anh bỗng nhớ em như đơng về nhớ rét


Tình u ta như cánh kiến hoa vàng,... Những hình ảnh so sánh sinh động, liên
tiếp, trùng điệp như thế có tác dụng trực tiếp thể hiện, cụ thể hoá những ý nghĩa
vốn trừu tượng: ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Pháp đối với sự
sống nhân dân nói chung, người nghệ sĩ nói riêng; mối quan hệ khăng khít,
máu thịt giữa nghệ thuật với cuộc sống nhân dân, đất nước; nỗi nhớ, tình u,...
Qua Tiếng hát con tàu, có thể khẳng định: sức mạnh lay động của thơ Chế Lan
Viên chính là nghệ thuật sáng tạo hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.


<b>Bài làm 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

trở tìm tịi khơng ngừng.Thơ của ơng giàu tính triết lý,trong đó thường có rất
nhiều những hình ảnh độc đáo và tinh tế.Ơng đã sáng tác bài thơ “Tiếng hát
con tàu” như một bài ca về một cách nhìn mới với một đất nước mới, thời kỳ
này miền Bắc khôi phục kinh tế,bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, thời kỳ
mà giới văn nghệ sĩ đã có ý thức gắn bó mật thiết với công cuộc xây dựng cuộc
sống mới của nhân dân, tự nguyện sẵn sàng đi đến những miền xa xơi của đất
nước cịn gặp nhiều khó khăn,gian khổ.


Chế Lan Viên đã làm bài thơ này để theo con tàu tâm tưởng đến với Tây Bắc
với con người thân thiện nơi đây, điểm nhấn chính về phương diện nghệ thuật
của bài thơ là nghệ thuật xây dựng hình ảnh thể hiện trước hết qua nhan đề và
lời đề từ “ Tiếng hát con tàu” thật bất ngờ nhan đề đã gợi mở ra một bức hình
sinh động, những âm thanh du dương, nhờ biện pháp nhân hóa con tàu mà tác
giả đã gửi gắm thành cơng tình u q hương.



Bốn câu mở đầu, được sáng tạo bằng tấm lòng của nhà thơ với mảnh đất ấy:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc


Khi lịng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bộn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ cịn đâu”.


Vừa đọc khổ thơ này, hình ảnh liên tưởng cho ta là Con tàu và Tây Bắc –
những hình ảnh và địa danh mang tính biểu tượng. Con tàu là biểu tượng của
khát vọng đi xa về với nhân dân, đến với những ngọn nguồn sáng tạo nghệ
thuật, nhưng con tàu cũng có thể cịn ý nghĩa tả thực vào những năm
1956-1958, có hàng vạn bộ đội và thanh niên xung kích đi khơi phục tuyến đường xe
lửa lên Lào Cai, Yên Bái, thành công của con đường này có ý nghĩa rất to lớn.
“Tây Bắc” là một địa danh tuyệt đẹp với cảnh sắc thiên nhiên, nhưng hết sức xa
xôi, kèm cả thiếu thốn nhất của cực Tây Tổ quốc, nơi đó nhà thơ đã nhỏ máu
tâm hồn xuống đất. Như vậy, Tây Bắc là nơi đến và là nơi trở về, trở về với
nhân dân, về với kỷ niệm trong 9 năm kháng chiến, đến lúc tác giả phải thốt lên
một câu thơ rất đắc “tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”. Nói một cách khéo
léo, khi tâm hồn tình cảm của nhà thơ đã hòa làm một với hơi thở và tinh thần
của cuộc sống lớn thì là lúc nhà thơ tìm thấy được những cảm xúc thơ ca đích
thực cho bài thơ của mình.


Ở hai khổ thơ tiếp theo, đã một lần nữa sử dụng thành công biện pháp tu từ:
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội


Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngồi cửa ơ? Tàu đói những vành trăng


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Chẳng có thơ đâu giữa lịng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia



Mở đầu khổ thơ là câu hỏi mang tầm vóc của thời đại, chứa đựng tâm hồn
chung của thời kỳ lịch sử, nhà thơ đã mượn hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi
khát vọng lên đường. “Ngồi cửa ơ? Tàu đói những vành trăng”. Nhà thơ nói
với người khác và cũng là tự nhủ với chính lịng mình. Nghệ thuật sẽ không
nảy sinh khi người nghệ sĩ không mở rộng hồn mình đón nhận những vang
động của cuộc đời. Hãy ra khỏi những cơ đơn chật hẹp của mình mà hòa nhập
với mọi người, hãy vượt ra khỏi chân trời của cái tôi nhỏ bé để đến với chân
trời của tất cả. Khát vọng này rất dễ tìm thấy trong những tác phẩm của Chế
Lan Viên vì tâm hồn ơng ln rộng lớn muốn truyền nó đến với mọi người.


Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường


Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ


Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lịng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa


Tác giả sử dụng thêm biện pháp so sánh trùng điệp rất tài tình trong những câu
thơ tiếp để muốn truyền tải đến độc giả một niềm hạnh phúc, khát vọng về với
nhân dân và những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình. Nhà thơ đã nhắc đến kháng
chiến với một tấm lòng đặc biệt biết ơn những tình cảm thiêng liêng sâu nặng.
Từ cách xưng hô ta từ những khổ thơ trong sáng cái tôi cá nhân “con” – một
cách xưng hô vừa thể hiện tấm lịng thành kính với nhân dân, vừa thể hiện tình
cảm yêu thương bền chặt. Những hình ảnh này vừa có vẻ đẹp thơ mộng mượt
mà, vừa có sự hịa hợp giữa nhu cầu khát vọng của bản thân với hiện thực. “Trở


về với nhân dân” không chỉ là niềm vui là một lẽ tự nhiên phù hợp với quy luật
về với cội nguồn bất tận của sự sống,với những gì sâu nặng thân thiết của lịng
mình.


Tiếp theo tác giả sử dụng rất nhiều bút pháp tả thực khi đi từ những khái niệm
trừu tượng ở những khổ thơ trên mà trở về với những con người gần gũi xiết
bao thương mến. Nhân dân là anh con người anh du kích với chiếc áo nâu
“Suốt một đời vá rách/ Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”. Là anh em, “ thằng
em liên lạc,rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ, đó là mế với “lửa hồng soi
tóc bạc” “Năm con đau mế thức một mùa dài”. Với những điệp ngữ “nhớ” bài
thơ chồng chất, ăm ắp kỷ niệm xúc động theo dòng hồi ức của nhà thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?


Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đơng về nhớ rét


Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lơng trở biếc


Tình u làm đất lạ hố q hương


Tác giả đã làm nên những câu thơ đáng để phải suy ngẫm, chiêm nghiệm, giàu
tính khái quát về quy luật đời sống tình cảm trong tâm hồn con người. Đoạn
thơ châm ngôn này được đúc kết một cách sắc sảo, súc tích mà vẫn có cái gì đó
mới lạ, tất yếu mà vẫn thấy thật bất ngờ. Những miền quê mờ xa ẩn hiện trong
màn sương giăng và mây phủ nghe có vẻ rất hấp dẫn, và đó là miền đất của tác
giả - miền đất yêu thương, nên thơ. Ta cịn thấy tác giả nhắc về tình u, chính


tình u đã biến những vùng đất xa lạ trở thành thân thiết như quê hương ta,
hóa thành máu thịt của tâm hồn ta, nơi ta đã để lại những giọt máu, mồ hơi
đáng q. Hình ảnh so sánh ở đoạn thơ này thấm đậm tính triết lý, mỗi sự vật,
hiện tượng chỉ có thể tồn tại, có ý nghĩa trong mối quan hệ gắn bó sinh tử với
một sự vật hiện tượng khác, triết lí ấy được rút ra từ tình cảm, cảm xúc chân
thành từ tiếng lịng của tác giả không hề khô khan mà đến rất tự nhiên, giản dị.
Đây được coi là những câu thơ hay nhất đời Chế Lan Viên.


Cuộc kháng chiến ấy diễn ra nơi vùng đất Tây Bắc đầy gian khổ, hy sinh,
nhưng trên tất cả đã đặt niềm tin nơi thắng lợi, và quả thật đã đạt được thắng lợi
vang dội trong những năm tháng này và đang trên con đường công cuộc đổi
mới đất nước nên tác giả cũng gửi đến tình cảm đặc biệt nơi vùng đất này và
chỉ nhắc đến như gợi nhớ về kỉ niệm tuyệt vời tuy đau thương vẫn hằn sâu
trong tác giả. Hình ảnh được nhắc đến trong mỗi câu văn thường nhiều, phong
phú và cũng tương xứng với nó là ý nghĩa của nó mà tác giả gửi gắm không hề
nhỏ, khiến bài thơ mang một vẻ đẹp rất khác, đầy sâu sắc, tinh tế đến từng con
chữ, giọng điệu ngọt ngào dễ thấm vào lòng độc giả và vẫn được nhấn mạnh
nổi bật mà bạn đọc có thể cảm nhận được.


Khi nhắc đến nhà thơ ta nhớ ngay đến tác phẩm Tiếng hát con tàu, với những
phương diện nghệ thuật tuyệt vời của tác phẩm xúc tác cho lời thơ thêm bay
bổng con tàu chính là tâm hồn tuyệt vời của nhà thơ. Bài thơ thể hiện tình yêu
quê hương đất nước,một tình quân dân keo sơn.Chằng những vậy mà lời thơ
của Chế Lan Viên đã được các nhà phê bình ví như “một người phụ nữ đẹp ưa
trang sức và biết cách trang điểm” nhà thơ thành công với phong cách sáng tác
của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Là một nhà thơ lớn, thơ Chế Lan Viên đã đi qua và chiếm lĩnh cả ba đỉnh cao ở
ba thời kỳ tiêu biểu nhất của thơ ca Việt Nam thế kỉ XX: thời kỳ Thơ mới lãng
mạn, Thơ ca Kháng chiến và thời kỳ Đổi mới sau 1986. Ông được đánh giá là


một nhà thơ có phong cách đặc sắc và nổi bật.


Phong cách nghệ thuật thơ Chế Lan Viên thể hiện ở 2 đặc điểm chủ yếu là tính
trí tuệ, triết lý và khả năng sáng tạo hình ảnh.


Là một nhà thơ ưa triết lý, Chế Lan Viên thường có những phát hiện sâu sắc,
mới mẻ và bất ngờ về đối tượng. Thơ ông lấp lánh vẻ đẹp trí tuệ, con đường
đến với người đọc của thơ Chế Lan Viên đi từ trí tuệ đến trái tim, bởi ông quan
niệm "thơ không chỉ đưa ru mà cịn thức tỉnh". Tuy nhiên, trí tuệ mà khơng khơ
khan, trừu tượng; trí tuệ nhưng ln gắn liền với cảm xúc, là thứ trí tuệ của trái
tim.


Rất nhiều câu thơ trong "Tiếng hát con tàu" có hàm lượng trí tuệ cao, nhiều câu
được đúc kết như những triết lý, quy luật. Có thể dẫn tới một vài ví dụ:


- Chẳng có thơ đâu giữa lịng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.


- Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
- Như xn đến chim rừng lơng trở biếc


Tình u làm đất lạ hóa q hương.


Tính triết lý, trí tuệ đi liền với khả năng sáng tạo hình ảnh. Có thể nói Chế Lan
Viên cảm nhận và suy nghĩ về mọi vấn đề bằng hình ảnh và thế giới nghệ thuật
của thơ ông là thế giới của vô số những hình ảnh phong phú. Vì thế có người
nhận xét thơ Chế Lan Viên mang vẻ đẹp của một người đàn bà đẹp ưa trang
sức và biết trang sức.


"Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh"


Trong bài thơ này có những hình ảnh tả thực, chân thực:


Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Có những hình ảnh đẹp đẽ, lãng mạn:


Tình u ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lơng trở biếc.
Có khi cả khổ thơ là những hình ảnh sóng đơi liên tiếp:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Như đứa trẻ thơ đói lịng gặp sữa
Chiếc nơi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.


Và rất nhiều hình ảnh mang tính biểu tượng, triết lý như Con tàu, Tây Bắc,
vầng trăng, suối lớn mùa xn...


Tính trí tuệ và khả năng sáng tạo hình ảnh luôn gắn liền với nhau tạo nên một
vẻ đẹp riêng của thơ Chế Lan Viên. Nhờ hình ảnh mà trí tuệ khơng khơ khan,
trừu tượng; nhờ trí tuệ mà hình ảnh trở nên lấp lánh, đa nghĩa, lắng đọng và ám
ảnh.


</div>

<!--links-->

×