Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tải Lập dàn ý cho đề sau: Giá trị yêu nước trong bài Câu Cá mùa thu - Nguyễn Khuyến - Bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.86 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Lập dàn ý cho đề sau: Giá trị yêu nước trong bài Câu Cá mùa thu</b>
<b>- Nguyễn Khuyến</b>


Bài làm
Mở bài:


Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một nhà nho có học vấn uyên thâm, có cốt
cách thanh cao, có tấm lịng u nước thương dân nhưng bất lực trước thời
cuộc. Với những bài thơ bình dị, hồn hậu về cảnh vật và cuộc sống con người
vùng Bác bộ, Nguyễn Khuyến được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình làng
cảnh Việt Nam”. Bài thơ Mùa thu câu cá (thu điếu) là tác phẩm xuất sắc của
Nguyễn Khuyến trong thời gian ẩn cư ở quê nhà.


Thân bài:


Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng
nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống và sự gắn bó
của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân. Ơng là người có tâm hồn rộng mở, giàu
cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Nguyễn Khuyến ít viết về
mùa xuân mà mà tình cảm đặc biệt cho mùa thu. Có lẽ do tâm hồn bất mãn với
thời cuộc, muốn tìm một nơi để an trú tinh thần, mùa thu chính là một lựa chọn
hiển nhiên đối với ơng.


Mùa thu là mùa của sự tàn phai, rất phù hợp với tâm trạng Nguyễn Khuyến lúc
này. Cảnh thu yên tĩnh, tình thu nồng nàn gợi lên cái hồn cổ xưa của muôn năm
xa lạ. Nguyễn Khuyến với cái tài của một người vốn gắn bó với đồng ruộng
khơng cần dụng cong gì mà đã nắm bắt được cái hồn tinh tế ấy:


<i>Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,</i>
<i>Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.</i>
<i>Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,</i>


<i>Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.</i>
<i>Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,</i>
<i>Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.</i>
<i>Tựa gối buông cần lâu chẳng được,</i>


<i>Cá đâu đớp động dưới chân bèo.</i>


Cảnh sắc mùa thu: Điểm nhìn của thi nhân: điểm xuất phát là thuyền câu trên
ao thu với són biếc, lá vàng → hướng lên trời cao → hướng ra xa thấy ngõ trúc
quanh co → trở lại xuất phát điểm thuyền câu, ao thu.


Cảnh thu được đón nhận từ gần thấp đến cao, xa rồi từ cao, xa trở lại gần: bao
quát mọi hướng của không gian thu để nhận thấy tất cả các vẻ đẹp của cảnh sắc
mùa thu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Bức tranh thu hài hoà, cân đối về màu sắc, hình khối và đường nét. Màu sắc
hiện lên với gam màu chủ đạo là màu xanh gợi không khí se lạnh của mùa thu;
một chút màu vàng của lá, màu trắng của mây khiến bức tranh thêm sinh động.
Đường nét, hình khối cân đối cũng được gọt giũa, bố trí hết sức tài tình với “ao
thu nhỏ”, “chiếc thuyền câu”. Theo đó cũng bé tẻo teo và dáng người cũng thu
nhỏ lại. Đường nét mảnh mai, tinh tế với đường uốn lượn của ngõ trúc, đường
gợn của sóng.


Cảnh mùa thu đẹp, buồn, tĩnh lặng, dân dã, thanh sơ, gần gũi, rất tiêu biểu cho
mùa thu của làng quê Bắc Bộ. Có lẽ nhà thơ đã quá kiệm lời khi nói q ít về
cảnh thu tuyệt đẹp và tĩnh lạng như tờ ấy. Ông như sợ nếu chạm nhẹ hay khẽ
rung cũng có thể làm đổ vỡ bức tranh tuyệt vời hiếm gặp ấy. Như một bức
tranh thủy mặc đơn sơ mà ấn tượng, cnhr thu lập tức nằm gọn trong tâm hồn
người đọc, ẩn náu để rồi lan tỏa miên man.



Tình thu hịa quyện trong trời xanh nước biếc: tác giả cách cảm nhận cảnh thu
hết sức tinh tế bằng một tâm hồn thuần khiết của người gắn bó tha thiết với
thiên nhiên, đắt nước. Ơng nâng niu tất cả, giữ gìn tất cả với những vẻ đẹp
dáng quý của nó. Mọi thứ xa hoa đều bị gạt bỏ, chỉ còn lại đay chất đơn sơ,
mộc mạc mà thắm đượm nghĩa tình.


Bức tranh mùa thu tĩnh lặng, u buồn cũng là tâm trạng về thời thế đầy uẩn khúc
của tác giả. Ông chọn vần “eo”, một “tử vận” vốn rất ối ăm, khó làm để biểu
đạt cảnh vật. Với vần “eo” gây cấn ấy, không gian càng trở nên vắng lặng, nhỏ
dần, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc: veo-teo-vèo-teo-beo.


Từ “vèo” biểu thị của dòng thời gian đang trôi nhanh, rất nhanh. Và như thế,
cuộc đời, thế cuộc cũng đổi thay nhanh chóng. Thống chốc, đời người đã bước
sang tuổi xế chiều. biết bao ước muốn, khát vọng chưa dduwwocj hoàn thành.
Người nho sĩ với khát vọng kinh bang tế thế, trị nước bình thiên hạ, muốn cứu
đời, làm đổi thay thời thế nhưng giờ nhìn lại đã thấy xa vời q đỗi, bất lực
nhìn dịng thời gian trôi đi.


Tựa đề bài thơ gây một sự chú ý đặc biệt. Câu cá mùa thu mà không chú ý đến
chuyện câu cá, chỉ quan sát thiên nhiên, lắng nghe, hồ mình với thiên nhiên.
Chủ đề trữ tình xuất hiện trong tư thế ngồi bất động “tựa gối buông cần”. Đó là
tư thế thu mình lại, khơng phải để chờ đợi mà là để suy tu. Cõi lòng nhà thơ
đang tĩnh lặng tuyệt đối.


Bài thơ kết lại trong cái động rất nhỏ của tiếng cá “cá đâu đớp động dưới chân
bèo”. Chữ “đâu” diễn tả cái giật mình thảng thốt, cái ngơ ngác kiếm tìm như
người mất phương hướng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thơ còn sử dụng nhiều từ chỉ mức độ độc đáo: lạnh lẽo, trong veo, bé tẻo teo,
hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, xanh ngắt, vàng teo, quanh co,…Kếp hợp với


bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh phong
cảnh. Vận dụng tài tình nghệ thuật đối thanh đối ý. Mùa thu câu cá thật xứng
đáng là một tuyệt phẩm đặc sắc của làng thơ Việt Nam từ xưa đến nay.


Kết bài:


</div>

<!--links-->

×