Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tải Hãy làm sáng tỏ nhận định sau: “Có thể nói trong văn học cổ không có một nhà thơ thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật Thuý Kiều” - Bài văn mẫu lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.29 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Qua hai đoạn trích “Trao duyên” và “Những nỗi lòng tê tái”, hãy</b>
<b>làm sáng tỏ nhận định sau: “Có thể nói trong văn học cổ khơng có một nhà</b>
<b>thơ thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật như</b>
<b>Nguyễn Du, nhất là nội tâm nhân vật Thuý Kiều”</b>


<b>Bài làm</b>


Trong dòng văn học cổ, hầu như bất kì một tác phẩm nào khi được sáng tác ra
cũng mang trong đó những nỗi lịng u uất, những tâm trạng thổn thức đến bất
an. Vâng, việc miêu tả nội tâm nhân vật chính là hơi thở, giá trị của tác phẩm,
là hiện thực của cuộc sống và của xã hội, là những trắc ẩn dường như đến mênh
mơng... Và mỗi một tác giả có những nghệ thuật khác nhau để xây dựng thế
giới nội tâm ấy, nhưng hãy dừng lại một chút ở Truyện Kiều, lắng nghe tiếng
nói tâm trạng ta sẽ thấy được những nét chấm phá rất nghệ thuật, rất Nguyễn
Du. Nhà thơ đã từng viết:


<i>Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu</i>
<i>Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!</i>


Và có lẽ đó là chân lý nghệ thuật thơ của Nguyễn Du. Một thế giới nội tâm
trong thơ ông là những buồn vui trước thiên nhiên và cuộc sống phức tạp xung
quanh, là con người, là câu nói và là hiện thực xã hội trong thơ. Chính vì vậy
khơng phải ngẫu nhiên mà một nhà soạn sách văn học nào đó đã nhận xét: Có
thể nói trong văn học cổ khơng có một nhà thơ thứ hai nào thành công trong
việc miêu tả nội tâm nhân vật như Nguyễn Du, nhất là... Kiều.


Ở đây, tác giả đã viết rằng có thể nói, thật ra có thể nói chỉ là một sự mở đầu
uyển chuyển. Cái tài của Nguyễn Du khơng là có thể mà phải là khẳng định.
Truyện Kiều là một tác phẩm văn học vĩ đại, và cái sâu sắc nhất ở đây là nội
tâm của Kiều. Một nhân vật, một tác phẩm không thể tuyệt vời được nếu như
nhân vật đó khơng có nội tâm, tác phẩm ấy không tạo cho nhân vật cái nội tâm,


cái hồn. Bởi nội tâm là thế giới tâm hồn phức tạp đem lại sức sống của nhân
vật, nội tâm cũng chính là cái hồn của tác phẩm, cái hồn lắng đọng của thơ.
Những nội tâm chồng chất đan chéo mâu thuẫn lên nhau chính là cái hay trong
ngịi bút của Nguyễn Du khi viết truyện thơ.


Thật vậy, khi tả đoạn Kiều trao duyên cho Thuý Vân, Nguyễn Du đã không mở
đầu bằng một nàng Kiều u uất, mà ông viết về một Thuý Vân vô tư:


Thuý Vân chợt tỉnh giấc xuân
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:


<i>“Cơ trời dâu bể đa đoan,</i>
<i>Một nhà để chị riêng oan một mình</i>


<i>Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh</i>
<i>Nỗi riêng cịn mắc mối tình chi đây?”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

ấy là một vơ tình có dụng ý, nó càng chứng tỏ sự tinh tế trong cách diễn tả nội
tâm của nhân vật. Vân càng vô tâm để rồi sau mới thắc mắc, hỏi han, càng làm
bật lên nỗi âm thầm đau xót của Kiều. Chính vì thế khơng vơ tình khi bắt đầu
đoạn đời gái lầu xanh, bắt đầu phải tiếp khách làng chơi của Kiều. Nguyễn Du
đã xây dựng tâm trạng nhân vật trong khung cảnh: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh.
Ngay sau cơn say, ngay giữa lúc canh tàn, khi cuộc vui đã chấm dứt, khi thời
gian đã tàn lụi, tác giả nói về nội tâm của nàng Kiều. Nội tâm Kiều được thể
hiện ngay ở những dòng đầu tiên của đêm trao duyên và đêm truy hoan. Hai
giai đoạn là hai nội tâm khác nhau và cũng là hai hoàn cảnh khác. Nếu như lúc
trao duyên, Kiều day dứt, băn khoăn được thể hiện qua cô em Thuý Vân, thì ở
đây, trong cái cảnh phải tiếp khách làng chơi, Nguyễn Du lại đặt nội tâm của
Kiều vào đêm khuya, vào mặt trái của những cuộc vui để thấy được cái chua
chát, đau đớn của Kiều. Cái hay chính là ở đó, chính là những khoảnh khắc mà


con người trải qua để rồi từng từ, từng ngữ, từng ý thơ, Nguyễn Du có thể hiện
nó thành những nội tâm chồng chất một cách khéo léo và tài tình. Nhà thơ đã
viết:


<i>Cậy em, em có chịu lời</i>
<i>Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa ...</i>


<i>Kể từ khi gặp chàng Kim</i>
<i>Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề</i>


<i>Sự đâu sóng gió bất kì</i>
<i>Hiếu tình khơn dễ hai bề vẹn hai.</i>


Một lời mở đầu rất dịu dàng, dường như năn nỉ, dường như nài ép của Kiều.
Cậy, Kiều cậy em, Kiều nhờ em chịu lời, Kiều xin, Kiều lạy rồi Kiều thưa.
Từng từ, từng từ được thốt ra là đều cân nhắc và chọn lọc. Cái hay, cái sắc của
từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du diễn tả.
Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất chín, Kiều đã quyết
định trao duyên mình cho Thuý Vân. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho
Kim Trọng sẽ phải lỡ làng, cái ray rứt của nàng là ray rứt của Thuý Vân phải
chắp nối tơ thừa. Nhưng khi ngỏ lời nàng cịn biết cách nói cho dịu lịng Vân,
để ép Vân nhưng tại sao, tại sao nàng lại kể về mối tình đầu thơ mộng, tuyệt
đẹp của mình. Đáng lẽ ra trao duyên cho Vân, nàng phải kể về những cái đẹp
cái tốt, cái đáng thương của Kim Trọng; đằng này nàng lại khẳng định mối tình
của mình. Khi đọc đoạn: Kể từ khi gặp chàng Kim..., ta bỗng thấy dường như
câu thơ ấy bị khựng so với ý của câu trên. Đó chính là tâm lý của cơ gái, đó
chính là nghệ thuật trong ngịi bút của Nguyễn Du. Sự xúc động, niềm thương
cảm đã làm bật dậy tình cảm, tâm trạng của nàng Kiều. Suy nghĩ, đắn đo để
quyết định trao duyên, những khi thực sự mở lời, nàng khơng thể kìm được sự
xúc động của chính mình. Đó là một tâm lí rất bình thường, một diễn biến tâm


trạng rất hiển nhiên của con người. Đem trao một mối tình ai chẳng xót xa. Nếu
như lúc đầu lời lẽ nàng cân nhắc, sắc sảo bao nhiêu thì giờ đây, khi nghĩ về mối
tình của mình, nàng chợt lộ một tâm trạng mâu thuẫn đáng thương:


<i>Chị dù thịt nát xương mịn</i>
<i>Ngậm cười chín suối hãy cịn thơm lây</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Dù em nên vợ nên chồng</i>


<i>Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.</i>
<i>Kiều trao duyên cho Thuý Vân</i>


Kiều trao duyên cho em, thì chiếc thoa với bức tờ mây là của Vân và Trọng.
Thế mà nàng nghẹn ngào: Duyên này thì giữ, vật này của chung. Ngay cả nhịp
thơ bốn - bốn ở câu thơ này cũng bộc lộ nỗi niềm sâu kín trong Kiều. Như
nghẹn ngào thổn thức bật lên lời vật này của chung, nàng luyến tiếc đau khổ
xót xa cho những kỉ vật xưa. Và rồi những tình cảm chân thực ấy, tâm trạng
đau khổ tuyệt vọng của Kiều được Nguyễn Du thể hiện bằng một từ duy nhất
dù {Dù em nên vợ nên chồng). Khi đã quyết định trao duyên cho Vân, lẽ ra
Kiều phải nói nên vợ nên chồng nhưng ở đây lại là dù em nên vợ nên chồng.
Kiều khơng cịn bình tĩnh nữa, một sự lúng túng trong từng lời nói rất nhỏ nhặt
này đã bộc lộ tài năng của Nguyễn Du. Trong Kiều lúc ấy sự lưu luyến tiếc
thương, một nỗi lòng xúc động đau đớn, một diễn biến tâm lí rất dễ hiểu, rất
đáng thương ấy được Nguyễn Du cân nhắc bằng từng lời, từng chữ và đặc biệt
là bằng sự cảm thông sâu sắc lạ lùng của nhà thơ. Bởi thế mới thấy được cái
hay xác thực trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của tác giả Truyện
Kiều. Trong thơ ơng, nghệ thuật ấy chính là sức cảm thông lạ lùng mà thi hào
dành cho tâm trạng những con người đang yêu, nó ánh lên sự hi sinh cao đẹp
và bật lên cái ích kỉ đáng yêu trong tình yêu. Kiều trao duyên cho em nhưng
nàng vẫn mong mình được nhớ đến. Cái mâu thuẫn ấy, những tâm trạng mong


manh ấy đã là một minh chứng hùng hồn cho sự tài tình có một khơng hai ở
ngịi bút của Nguyễn Du, và cái tài tình ấy còn là tâm trạng phức tạp, sự khác
biệt nội tâm của nhân vật. Nhà thơ viết:


<i>Giật mình, mình lại thương mình xót xa</i>
<i>Khi sao phong gấm rủ là</i>


<i>Giờ sao tan tác như hoa giữa đường</i>
<i>Mặt sao dày gió dạn sương</i>


<i>Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?</i>


Cũng là một nàng Kiều với nội tâm đầy sóng gió của mình, nhưng ở hai giai
đoạn đời người là hai sự đúc kết khác nhau, là hai cách diễn đạt khác nhau. Nếu
như ở đoạn trao duyên cô gái trong trắng Thuý Kiều rất bình tĩnh, bình tĩnh đến
lạnh lùng và đáng sợ. Bởi tâm trạng nàng giờ đây khơng cịn là sự mong manh
đau khổ của người con gái lần đầu tiên đối mặt với cuộc đời, nó trở thành cái
đau đớn lạnh giá trong lịng một người phụ nữ ơ nhục sao, sao, và lại sao (khi
sao, giờ sao, mặt sao...), điệp từ ấy như một khúc điệp, đập vào lòng người một
tâm trạng tủi nhục đến ê chề của Kiều. Nàng khơng cịn là sự lưu luyến ngây
thơ đau khổ, mà nàng đang chán chường oán hận. Cũng là đau khổ đấy, cũng là
tiếc thương cho những gì đã có đã qua, một mối tình, một cuộc sống phong
gấm rủ là, nhưng ở cơ gái Th Kiều cịn trướng rủ màn che nó khác với người
phụ nữ đã dày gió dạn sương, đã bướm chán ong chường. Hai tâm trạng đời
người với hai nét bút, hai nét vẽ. Cái khổ nào cũng là tột cùng, cái khổ nào của
nàng cũng là sự tan vỡ tâm hồn. Nhưng khi nghĩ về chính mình ở đoạn trao
dun, sự đau đớn của nàng được bật lên thành lời, một tiếng kêu khẩn thiết
của nỗi lịng đau khổ của một cơ gái yếu đuối:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây...</i>



Sự đau khổ, sự ức chế được thốt ra thì khi nghĩ về phận mình, về đời mình ở
chốn lầu xanh, Nguyễn Du để cho nàng đắm chìm trong suy nghĩ, khơng cho
nàng một tiếng kêu khóc xót xa, có chăng thì đó chỉ là những câu hỏi thầm ốn
hận khơng câu trả lời. Để rồi chính nhà thơ bằng ngịi bút của mình đã nói lên
nỗi đau khổ, tuyệt vọng tột đỉnh của nhân vật:


<i>Song sa vò võ phương trời</i>
<i>Nay hồng hơn đã lại mai hơn hồng</i>


<i>Lần lần thỏ bạc ác vàng</i>


<i>Xót người trong hội đoạn tràng địi cơn...</i>
<i>Đã cho lấy chữ hồng nhan</i>


<i>Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.</i>


Thế đấy, nội tâm của Kiều thể hiện qua tiếng lịng xót thương của Nguyễn Du:
Song sa, vị võ rồi lại phương trời, từng từ, từng từ như luyến như quyện vào
nhau để bật lên cái cô đơn ê chề trong hoàn cảnh của Kiều, cho cái kiếp hồng
nhan bạc mệnh của nàng. Không chỉ là một sức cảm thơng lạ lùng của Nguyễn
Du dành cho Kiều, mà cịn là tình thương to lớn, thương cho tâm trạng tan nát
của nàng. Nguyễn Du đã thốt lên rằng: Làm cho, cho hại, cho tàn, cho căn.
Thật sự nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du đã lên đến cái đỉnh
cao trong dịng văn học cổ. Bất kì một chi tiết, một hoàn cảnh nào, Nguyễn Du
cũng mượn nó để chứa đựng, để phơi bày thế giới nội tâm của nhân vật. Thật
vậy, trong đau khổ, con người ta hay tự tìm cho mình một chỗ dựa để vươn lên,
và để sống. Ở Kiều, chỗ dựa vững chắc cho tâm hồn nàng chính là tình gia đình
và người tình. Nhưng nếu như trong những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng
Bích, nàng đã sớm nghĩ về Kim Trọng trong sự lo lắng cho người u và có


chút gì đó hi vọng thì ở đây nàng lại nghĩ về gia đình trước:


<i>Nhớ ơn chín chữ cao sâu</i>
<i>Một ngày một ngả bóng dâu tà tà</i>


<i>Dặm nghìn nước thẳm non xa,</i>
<i>Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.</i>


<i>Nàng nghĩ về chữ hiếu, rồi mới nhớ đến chữ tình:</i>
<i>Nhớ lời nguyện ước ba sinh</i>


<i>Xa xơi ai có thấu tình chăng ai?</i>
<i>Khi về hỏi liễu Chương Đài</i>
<i>Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay!</i>


<i>Tình sâu mong trả nghĩa dày,</i>
<i>Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?</i>


<i>Nàng Kiều với nội tâm đầy sóng gió</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

càng chứng tỏ tài năng vượt trội của thi hào. Nếu như ở Hồ Xuân Hương hay ở
Nguyễn Khuyến thế giới nội tâm cũng được bộc lộ trong từng từ, từng câu,
từng hoàn cảnh với những dụng ý viết rất nghệ thuật thì ở Nguyễn Du, cao hơn
một bước, thế giới nội tâm trong ngòi bút của ông không bó trong một không
gian hẹp, không giới hạn trong cái nhìn về những bức xúc của người phụ nữ
như trong thơ Hồ Xuân Hương rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn; cũng như không chỉ
là những trăn trở về thời cuộc như Nguyễn Khuyến. Thế giới nội tâm của
Nguyễn Du trải dài, xuyên suốt một tác phẩm lớn, đi từ những cái nhỏ nhất,
bình dị nhất của cuộc sống đến những khái quát cao sâu. Trong dòng văn học
cổ, thế giới nội tâm thường là những khái quát về một bức xúc trong xã hội, thì


ở Nguyễn Du là nội tâm của con người trong từng giai đoạn đời người, đó là
những tâm lí đời thường dung dị.


Và khơng dừng ở lại đó, ngịi bút của Tố Như là một ngòi bút thiên phú, thế
giới nội tâm trong thơ Nguyễn Du còn được ngụy trang bằng thiên nhiên, bằng
những nghệ thuật ước lệ tài tình:


<i>Địi phen gió tựa hoa kề</i>


<i>Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu</i>
<i>Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu</i>
<i>Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!</i>


<i>Đòi phen nét vẽ câu thơ</i>


<i>Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa</i>
<i>Vui là vui gượng kẻo là,</i>


<i>Ai tri âm đó mặn mà với ai?</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

sống bạc bẽo, nhầy nhụa ở chốn lầu xanh. Nội tâm cô đơn u uất của Kiều là lời
tố cáo cuộc sống mà nàng đang phải sống. Nó bóp nghẹt tiếng đàn, câu thơ của
nàng. Nhưng tâm trạng, nội tâm của nàng khơng bị vùi lấp bởi sự đau khổ ấy,
nó vẫn vươn lên.


Thế đấy, không thể lẫn, càng không thể so được tài năng của Nguyễn Du. Sự
chán chường, đau khổ, tuyệt vọng của Kiều được Nguyễn Du diễn tả bằng
những bút pháp khác nhau. Để rồi từ những diễn biến tâm lí rất hợp lí, tinh vi
trong cuộc sống trong tình yêu, Nguyễn Du khái quát thành một thế giới nội
tâm phong phú đầy ray rứt băn khoăn khắc khoải. Chính qua cái thế giới nội


tâm ấy, thi hào Nguyễn Du làm bật lên một đặc điểm cố hữu: mượn cái đau
đớn của nội tâm để tố cáo xã hội, tố cáo những kẻ đã đẩy con người, đã trút lên
con người những tủi nhục ê chề đó.


</div>

<!--links-->

×