Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.43 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề bài: Bình giảng bài thơ "Tiến sĩ giấy" của Nguyễn Khuyến</b>
<b>Bài làm</b>
Nguyễn Khuyến có đến trên 50 câu đối và bài thơ trào phúng; câu đối nào, bài
thơ nào cũng hóm hỉnh, đầy ý vị sâu xa:
<i>"Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,</i>
<i>Tiên là ý chú muốn vòi xu".</i>
(Bồ tiên thi)
<i>"Trời đất khéo thương chàng Bạch quỳ,</i>
<i>Giang sơn riêng sướng á hồng nhan".</i>
(Lấy Tây)
Bài "Tiến sĩ giấy" - bài 2 cũng là một bài thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn
Khuyến, được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật:
<i>"Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,</i>
<i>Cũng gọi ơng nghè có kém ai.</i>
<i>Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,</i>
<i>Nét son điểm rõ mặt văn khôi.</i>
<i>Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?</i>
<i>Cái giá khoa danh ấy mới hời!</i>
<i>Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh ch,</i>
<i>Nghĩ rằng đồ thật hố đồ chơi!".</i>
"Tiến sĩ giấy" cịn được gọi là "Ông nghè tháng tám" - một thứ đồ chơi trong
Hình ảnh ơng nghè tháng tám, thứ đồ chơi của trẻ em được tác giả miêu tả cụ
thể, sinh động và hay bằng nhiều chi tiết: cờ, biển, cân đai, mảnh giấy, nét son,
xiêm áo, ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe. Câu thứ tám rất hóm hỉnh. Ơng
nghè tháng tám chỉ là một thứ đồ chơi nhưng lại làm cho mọi người tưởng lầm
là đổ thật: "Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi".
Sắc phục rực rỡ, tư thế "ngồi bảnh chọe” rất buồn cười. Một thứ đồ chơi của trẻ
em mà làm được như thế phái nói là khéo tay. Vì thế trong bài "Tiến sĩ giấy"
-bài 1, Nguyễn Khuyến mới viết:
<i>"Rõ chú hoa man khéo vẽ trò,</i>
<i>Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.</i>
<i>Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,</i>
<i>Giấy má nhà bay đáng mấy xu"...</i>
Lớp nghĩa thứ hai của bài 'Tiến sĩ giấy" thể hiện cái nhìn sắc sảo của tác giả về
thân phận các ông nghè giữa thời buổi "Nào có ra gì cái chữ Nho" (Tú Xương).
Hai câu đề, chữ "cũng" được điệp lại bốn lần đã làm cho giọng điệu giễu cợt
cất lên cùng với cái cười mỉm về cờ biển, cân đai... của các ông nghè. Trang
phục ấy, cờ biển ấy... đều là của vua ban cho "có kém ai". Cách so sánh để hỏi
ấy cũng hàm ý giễu cợt:
<i>"Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,</i>
<i>Cũng gọi ơng nghè có kém ai?".</i>
là "nét son", được "tô vẽ, được "điểm rõ". Câu ba và câu bốn đối chọi nhau tài
Giấy trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái danh giá hão của ông nghè
chỉ là "mảnh giấy" đề rách, chỉ là "nét son" dễ nhoè mà thôi!
<i>"Mảnh giấy làm nên thân giúp háng,</i>
<i>Nét son điểm rõ mặt văn khơi".</i>
Cũng nói về cái hư danh của những ơng nghè, có lúc nhà thơ giễu cợt:
<i>"Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,</i>
<i>Giấy má nhà bay đáng mấy xu! ".</i>
(Tiến sĩ giấy - bài 1)
Cặp câu luận là sự bình phẩm, đánh giá về xiêm áo, về khoa danh của ông
nghè: "sao mà nhẹ", "thế mới hời". Hời là tiếng cổ, nghĩa là dễ dãi, giá rẻ. Nhẹ
và hời vì tầm thường. Khơng phải là thực tài, thực danh nên mới nhẹ, nên mới
hời. Nhẹ và hời vì vơ dụng và chỉ là hư danh, hư vị mà thôi. Tác giả sử dụng
câu nghi vấn và câu cảm thán khẳng định, đối chọi nhau rất tài tình để châm
biếm, để giễu cợt; giọng điệu thơ nhẹ nhàng mà mỉa mai:
<i>"Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?</i>
<i>Cái giá khoa danh ấy mới hời"..</i>
Hai câu kết, tác giá sử dụng nghệ thuật tương phản thật sắc sảo:
<i>"Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,</i>
<i>Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi".</i>
Cái tư thế ngồi rất oai: "ngồi bảnh chọe" trên "ghế tréo", "dưới lọng xanh". Ra
vẻ vênh vang và tự đắc, hợm mình về sự cao sang phú quý. Nhưng "chỉ là đồ
chơi". Tương phản ý ở câu bảy và câu tám, tương phản giữa "đồ thật" với "đồ
chơi". Tương phản để châm biếm cái hư danh, hư vị của những tiến sĩ giấy
dưới thời Pháp thuộc.
Trong gần một nghìn năm, chế độ khoa cử của nước ta đã đào tạo được hàng
nghìn tiến sĩ. Có biết bao ơng nghè đã đem đức tài làm rạng danh đất nước và
dân tộc, lưu danh sử sách. Dưới thời Pháp thuộc, cả dân tộc là vong quốc nơ,
thì "Ơng nghè, Ơng cống cũng nằm co", hoặc chỉ trở thành hư danh, hư vị mà
thôi. Nguyễn Khuyến là một nhà nho thực tài, ba lần đỗ đầu thi Hương, thi Hội,
thi Đình. Thế nhưng trong cảnh ngộ đất nước bị ngoại bang thống trị. có lúc
ơng cảm thấy “thẹn”:
<i>"Sách vở ích gì cho buổi ấy,</i>
<i>Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già".</i>
(Ngày xuân dặn các con)
Có lúc ơng lại tự cười mình, cười cái hư danh của mình:
<i>"Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,</i>
<i>Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng".</i>
Tiếng cười trong "Tiến sĩ giấy" là tiếng cười trong nước mắt. Bài thơ cho thấy
nghệ thuật dùng từ, cách đối xứng, tạo giọng điệu rất điêu luyện, đúng là cụ
Tam nguyên Yên Đổ xuất khẩu thành thơ.