Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

(Đề tài thảo luận) vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.05 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
……………………………………………………………………………36
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………37

11


Mở đầu
Trước đại hội VI của Đảng Cộng, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào sự
điều tiết của Nhà nước. Tuy nhiên, chế độ quan liêu, bao cấp dần bộc lộ rõ nhiều
hạn chế khi nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh,
triệt tiêu đi mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ, làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh
tế, đẩy nước ta rơi vào khủng hoảng. Từ đó, đặt ra nhu cầu về việc thay đổi cơ chế
quản lí mới, phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy, có
thể nói, sự ra đời của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu
khách quan ở Việt Nam.
Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, Nhà nước vẫn nắm vai trò
chủ đạo, then chốt, là yếu tố quyết định hiệu quả phát triển của nền kinh tế. Nhà
nước xây dựng hệ thống pháp quyền xã hội chủ nghĩa, điều tiết và tạo điều kiện
phát huy vai trò của các thành phần kinh tế khác, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân để đảm bảo mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”. Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều
không thể phát triển nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường khơng chỉ được thể hiện trong
q trình đổi mới đất nước mà càng được phát huy hơn nữa trong giai đoạn phát
triển và hội nhập thế giới hiện nay của Việt Nam. Để làm rõ vấn đề này, nhóm 8 xin
phép thực hiện bài thảo luận với đề tài: “Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.

22



Nội dung
I.

Cơ sở lý thuyết
1. Kinh tế nhà nước

Thành phần kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu của
nhà nước về tư liệu sản xuất.
Hiện nay thành phần kinh tế nhà nước là thành phần đóng vai trị nịng cốt trong
nền kinh tế nước ta. Theo đó, nền kinh tế nhà nước bao gồm có các doanh nghiệp
nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc
quyền sở hữu của nhà nước có thể đưa vào sản xuất kinh doanh.
Chính vì vậy, nó nắm giữ các vị trí quan trọng, then chốt trong nền kinh tế và là lực
lượng vật chất quan trọng để nhà nước vận hành và điều tiết nền kinh tế.
2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam. Nó được mơ tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó khu
vực kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
3.

Đặc điểm thành phần kinh tế nhà nước

Đặc điểm cơ bản, nổi bật nhất của nền kinh tế nhà nước là nó thuộc sở hữu của nhà
nước. Tuy nhiên ở đây ta phải phân biệt rõ ràng giữa phạm trù sở hữu Nhà nước với
phạm trù sử dụng của thành phần kinh tế nhà nước.
Sở hữu của nhà nước có thể do các thành phần kinh tế khác sử dụng như đất đai, tài
sản mà nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu, nhưng kinh tế hộ gia đình, các hợp

tác xã nơng nghiệp, hay doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác vẫn được nhà
nước trao quyền sử dụng lâu dài.
33


Đặc điểm thứ hai của thành phần kinh tế nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước
được tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc hoạch toán kinh tế,
xóa bỏ dần sự bao cấp của nhà nước.
Đặc điểm thứ ba là trong thành phần kinh tế nhà nước thực hiện phân phối theo lao
động và theo hiệu quả sản xuất kinh doanh, đây là một đặc điểm rất quan trọng của
các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước, là hình thức phân phối căn
bản và là nguyên tắc phân phối chủ yếu, thích hợp với các thành phần dựa trên chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất ở nước ta hiện nay.
II.

Vai trò thành phần kinh tế nhà nước
1. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong xây dựng

Mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều khu vực và thành phần kinh tế là sự kế thừa những ưu việt của kinh tế
thị trường, phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Động lực
chung để phát triển mơ hình kinh tế này là sự kết hợp hài hịa các lợi ích của cá
nhân, tập thể và xã hội. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, những yếu tố, phương tiện và công cụ của kinh
tế thị trường đã được khai thác, sử dụng, phát triển sáng tạo, phù hợp với mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội. Tính chất xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ngày
càng được hình thành rõ nét hơn trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thành phần kinh tế nhà nước là một trong những cơng cụ giữ vai trị chủ đạo để
Nhà nước điều tiết nền kinh tế quốc dân trên các phương diện chính yếu của xã hội:
kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh dân tộc.

Về mặt kinh tế:
Kinh tế nhà nước dựa trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước) về tư liệu sản xuất,
là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Thành
phần kinh tế nhà nước khơng chỉ bao hàm doanh nghiệp nhà nước, mà cịn bao hàm
44


sức mạnh kinh tế đứng đằng sau các chính sách và hoạt động quản lý kinh tế của
Nhà nước; bao hàm khả năng tổ chức và hoạch định chính sách đúng đắn của Nhà
nước, sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước,
luật pháp và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Với sức mạnh kinh tế tổng hợp đó,
thành phần kinh tế nhà nước có khả năng tạo ra các điều kiện vật chất, các tiền đề
kinh tế - xã hội để phát triển tất cả các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, là yết hầu, xương sống của nền
kinh tế, do đó, nó có khả năng, điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần
kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế;
là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết, tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Kinh tế nhà nước đảm nhận các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có tính chiến lược
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Kinh tế nhà nước tham
gia vào những lĩnh vực khoa học, cơng nghệ mũi nhọn, có hệ số rủi ro cao...
Về mặt chính trị:
Kinh tế nhà nước là hòn đá thử vàng để xem xét sự đúng hướng hay chệch hướng
xã hội chủ nghĩa trong tiến trình phát triển kinh tế. Bởi vì, Nhà nước ta là Nhà
nước XHCN, Nhà nước công nông, Nhà nước của những người lao động. Để giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thiết phải khẳng định kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, và thành phần này phải ngày càng phát triển trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Nếu không củng cố và tăng cường kinh tế nhà
nước thì khơng thể nói tới chủ nghĩa xã hội, khơng thực hiện tốt vai trị chủ đạo của

kinh tế nhà nước thì cũng khơng thể nói tới định hướng xã hội chủ nghĩa, tới con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
55


Về mặt xã hội:
Do bản chất về sở hữu và mục đích hoạt động, nên thành phần kinh tế nhà nước
gánh vác chức năng và vai trò xã hội to lớn. Đối với bộ phận phi doanh nghiệp
(ngân sách, dự trữ quốc gia...), đương nhiên bên cạnh chức năng kinh tế, chính trị,
cịn có chức năng xã hội. Bộ phận doanh nghiệp trong thành phần kinh tế nhà nước
hoạt động theo nguyên tắc thị trường cũng đảm nhận những vai trò xã hội lớn. Điều
này thể hiện ở chỗ, các doanh nghiệp này phải đảm nhận những ngành ở những địa
bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực
hiện bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành
sản xuất hàng hóa cơng cộng thiết yếu. Đó là những “người lính” đi đầu trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong cuộc chiến chống đói, nghèo
và tụt hậu.
Về mặt an ninh dân tộc:
Kinh tế nhà nước thể hiện vai trò chủ đạo ở hai nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an
ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chun dùng cho quốc phịng, an
ninh, ...).
Thứ hai, tham gia nắm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để giữ vững định
hướng xã hội, làm đối trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế (bán bn lương thực,
xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khống sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí,
điện tử, cơng nghệ thơng tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay, ...).
Như vậy, có thể khẳng định việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là đúng đắn, phù hợp với điều kiện
của nước ta và là tiêu chí quan trọng bảo đảm tính định hướng XHCN cho nền kinh
tế.

66


2.

Đóng vai trị hàng đầu trong việc khắc phục, hạn chế những khuyết
tật của cơ chế thị trường

Những khuyết tật của cơ chế thị trường về cơ bản có những vấn đề như sau:
Thứ nhất, thị trường ln ln có nguy cơ mất cân đối cung - cầu, tạo ra các cuộc
khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu làm suy thối về kinh tế, có tình trạng
lạm phát. Cơ cấu nền kinh tế thị trường mất cân đối nên không thể tránh khỏi tình
trạng thất nghiệp.
Thứ hai, bản chất thị trường là bất bình đẳng, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội
ngày càng rõ rệt.
Thứ ba, vì mục tiêu lợi nhuận và cạnh tranh, doanh nghiệp ít quan tâm đến lợi ích
tồn cục, lợi ích cộng đồng nên đã bất chấp thủ đoạn, giả dối trong kinh doanh, gây
ô nhiễm, phá hoại môi trường, trốn tránh luật pháp gian lận thương mại, nảy sinh
hàng giả, hàng nhái, …là những vấn đề điển hình.
Thứ tư, các thành phần kinh tế phát triển khiến vai trò của kinh tế nhà nước bị sụt
giảm và chịu sức ép mạnh mẽ từ các thành phần kinh tế khác.
Vai trò của Kinh tế Nhà nước trong việc khắc phục những hạn chế, khuyết tật
của cơ chế thị trường
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Muốn
đạt được mục tiêu xã hội này, nhiệm vụ kinh tế quan trọng nhất là phải đảm bảo
nền kinh tế phát triển ở trạng thái cân bằng, lợi ích kinh tế phải được chia sẻ một
cách công bằng cho tất cả mọi người trong xã hội. Muốn như thế, Nhà nước phải
định hướng sự phát triển của nền kinh tế bằng các công cụ vĩ mơ, trong đó có thể
khẳng định vai trị chủ đạo của kinh tế Nhà nước là một trong các yếu tố quan trọng

77


nhất. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn nữa khi Việt Nam ở giai đoạn phát
triển rất thấp và có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với các nước
xung quanh cũng như thế giới. Do vậy cần phải có những cú đột phá trong phát
triển kinh tế, phải đi những con đường ngắn hơn, hợp lý hơn và quan trọng nhất,
phải có một đầu tàu kéo toàn bộ đoàn tàu kinh tế tăng tốc. Thực tiễn xây dựng và
phát triển kinh tế Việt Nam trong những giai đoạn vừa qua cũng đã chứng minh tầm
quan trọng của kinh tế Nhà nước trong việc định hướng cũng như thúc đẩy nền
kinh tế đất nước. Khi đất nước chưa chuyển sang xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần, kinh tế Nhà nước đã đóng vai trò quyết định tạo ra các nguồn lực cơ bản
phục vụ cho cuộc chiến đấu thống nhất đất nước cũng như những năm đầu tiên tiến
hành xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong giai đoạn chúng ta xây dựng một nền
kinh tế tự chủ của đất nước trên nền tảng một nền kinh tế nông nghiệp và là thị
trường tiêu thụ thành phẩm của các nước công nghiệp phát triển. Cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thối kinh tế toàn cầu trong các năm 2008 - 2009 đã gây ra
những biến động lớn trong nền kinh tế nước ta. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước đã đóng vai trị là lực lượng quan trọng được Nhà nước sử dụng để kiềm
chế lạm phát, ổn định thị trường, ngăn chặn suy giảm kinh tế và đảm bảo an sinh
xã hội... Điều đó đã góp phần quan trọng vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao của nền
kinh tế nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay, khu vực kinh tế Nhà nước đang nắm giữ
những ngành nghề được xem là lợi thế của Việt Nam. Bởi lẽ, quá trình hội nhập
quốc tế, bên cạnh những thuận lợi, cơ hội cũng tồn tại những khó khăn, thách thức
đối với nền kinh tế đất nước mà điển hình là mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt
giữa doanh nghiệp trong nước và quốc tế, các ngành kinh tế trong nước đối mặt với
nguy cơ phá sản trước sức ép của các doanh nghiệp của nước ngoài. Do vậy, khu
vực kinh tế Nhà nước đã và đang không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh để tương xứng với nguồn lực mà mình nắm giữ cũng như để khẳng

88


định vai trị chủ đạo khơng thể thay thế của mình đối với quá trình xây dựng và
phát triển kinh tế đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định để đi lên Chủ
nghĩa xã hội, không thể không phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa mà bản chất là phát triển một nền kinh tế thị trường đồng bộ, đầy đủ,
hiện đại và hội nhập, đồng thời giữ vững nguyên tắc và bản chất chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có vai trò to lớn trong lãnh đạo đổi mới hệ thống ngân
hàng từ một hệ thống ngân hàng chuyển thành hai hệ thống ngân hàng, tách bạch
chức năng thương mại ra khỏi ngân hàng Nhà nước Việt Nam và phát triển hệ
thống các ngân hàng thương mại, thực hiện chức năng thương mại theo thơng lệ
quốc tế. Nhờ có đổi mới này mà quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển, các quy luật
thị trường được phát huy tác dụng, quy luật cung - cầu được vận dụng tốt. Tiếp
theo tiến trình đó, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã phát triển mạnh
mẽ, không chỉ dừng ở các ngân hàng thương mại cổ phần trong nước mà có cả các
ngân hàng thương mại nước ngồi và liên doanh được thành lập. Đến nay, hệ thống
ngân hàng Việt Nam cơ bản đã hòa nhập với hệ thống ngân hàng thế giới, thực hiện
theo các thông lệ quốc tế, thực sự đáp ứng tốt yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Mặc dù có những khuyết điểm, hạn chế nhưng có thể đánh giá rằng, kinh tế Nhà
nước đã giữ vai trò định hướng quan trọng trong quá trình cải tạo các quan hệ sản
xuất cũ, xây dựng và phát triển các quan hệ sản xuất mới, góp phần quan trọng
trong việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam những năm đầu tiên cả nước xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Dĩ nhiên, những yếu kém của kinh tế Nhà nước có cả nguyên
nhân khách quan và chủ quan và cần có thời gian để khắc phục một cách thấu đáo.
Nhưng khơng vì thế mà chúng ta phủ nhận tồn bộ những đóng góp của kinh tế
Nhà nước trong suốt chặng đường lịch sử vừa qua đối với sự phát triển kinh tế của
đất nước.
99



3.

Bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa

Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế
Thể chế hoá quyển tài sản (bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt
và hưởng lợi từ sử dụng tài sản) của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy
định trong Hiến Pháp năm 2013.
Các doanh nghiệp buộc phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh
tranh theo pháp luật. Nhà nước ln khuyến khích phát triển các doanh nghiệp về
cả số lượng và chất lượng. Các quyền tự do kinh doanh các ngành nghề mà pháp
luật không cấm đều được đảm bảo. Các vấn đề về cạnh tranh, kiểm soát độc quyền
được chú trọng xây dựng. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu,
quyền tài sản, luật phá sản.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng: doanh nghiệp
nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu, liên quan đến an ninh,
quốc phòng và những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác khơng đầu tư. Hồn
thiện thể chế định giá đất đai, tài sản hữu hình và tài sản vơ hình trong cổ phần hố
theo ngun tắc thị trường.
Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của kinh tế tập thể, kinh tế
hợp tác xã; đẩy mạnh liên kết hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương
thức quản lý tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường.
Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh với sở hữu hỗn hợp, nhất là các doanh nghiệp cổ phần.

10



Hồn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế
tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong quản lý và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, cần
phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước, đồng thời kiểm tra, giám sát, kiểm soát,
thực hiện công khai, hạn chế tiêu cực.
Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường, đảm bảo tính đúng, đầy đủ và công
khai, minh bạch các yếu tố hình thành giá đối với hàng hố, dịch vụ thiết yếu; đồng
thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho đối tượng chính sách, người nghèo và đồng
bào các dân tộc thiểu số. Hồn thiện pháp luật về chi phí, lệ phí: rà sốt, chuyển đổi
chính sách phí. Mở rộng cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định.
Tiếp tục đồng bộ và vận hành thông suốt các thị trường. Thực hiện đa dạng hoá thị
trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng hiện đại, chú trọng hình thành khung pháp lý,
phát triển hệ thống phân phối thông suốt và hiệu quả. Cơ cấu lại thị trường tài chính
đảm bảo lành mạnh hố và ổn định vững chắc kinh tế vĩ mơ, loại bỏ nguy cơ mất
an toàn hệ thống. Tiếp tục hồn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách để thị
trường bất động sản hoạt động thông suốt. Tiếp tục đổi mới, phát triển mạnh mẽ và
đồng bộ thị trường khoa học công nghệ, thực hiện cơ chế thị trường và có chính
sách hỗ trợ để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp đầu tư
nghiên cứu phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học - công
nghệ vào sản xuất kinh doanh.
Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán, ký kết, chuẩn bị các điều kiện thực hiện các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới, tham gia các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực
11


kinh tế, thương mại đầu tư, ... Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; đa dạng hoá, đa
phương phương hoá quan hệ quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác

cụ thể, kết hợp hiệu quả ngoại lực và nội lực, gắn hội nhập quốc tế với xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ.
Rà soát, hồn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm thực thì có hiệu
quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã kí kết. Hồn thiện thể chế để
tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế,
nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư
pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã đóng góp quan trọng vào việc mở rộng và đưa quan hệ
của nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, góp phần gìn
giữ mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước; Giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và trật
tự, an tồn xã hội; Quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng cao
uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Về hội nhập khu vực, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN đã tiến rất gần đến mục
tiêu xóa bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan đối với các nước ASEAN-6 (5 nước sáng
lập và Brunei), 99,2% số dòng thuế đã được xóa bỏ, trong khi 90,9% số dịng thuế
của các nước gia nhập sau là Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (gọi tắt là
các nước CMLV) đã được xóa bỏ tính tới năm 2017. Ngồi tự do hóa thuế quan,
các nước ASEAN cũng đang triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động
thương mại của các doanh nghiệp như dự án thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất
xứ, cơ chế hải quan một cửa...
Về hội nhập quốc tế, tính đến nay, Việt Nam đã xây dựng khuôn khổ thương mại tự
do với gần 60 nước (chiếm 59% dân số, 61% GDP và 68% thương mại thế giới)
thông qua 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), bao gồm cả các FTA thế hệ mới
12


như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) và hiện đang tích cực tham gia đàm
phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).

Về thu hút vốn đầu tư, theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), sau
hơn 30 năm thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI), kề từ khi Quốc hội ban hành Luật
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào cuối năm 1987, đến tháng 8-2018, ở 63 tỉnh,
thành phố của cả nước đã thu hút 26.438 dự án FDI của 129 quốc gia và vùng lãnh
thổ còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt
183,62 tỷ USD, bằng 55% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực.
Về đầu tư ra nước ngồi, tính chung tổng vốn đầu tư ra nước ngoài, bao gồm vốn
cấp mới và tăng thêm trong nửa đầu năm 2018 đạt 263,1 triệu USD. Lũy kế, tính
đến hết tháng 5-2018, Việt Nam đã có gần 1.200 dự án đầu tư tại 70 quốc gia và
vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 22 tỷ USD.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
Nâng cao năng lực kế hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng; tăng cường lãnh đạo việc thể chế hoá và việc tổ chức thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật cùa Nhà nước về kinh tế - xã hội;
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện đường lối, chủ
trương, nghị quyết của Đảng; lãnh đạo việc bố trí cán bộ hoạt động trong các lĩnh
vực kinh tế - xã hội. Các cấp ủy tổ chức đảng phải nâng cao nhận thức cho các chi
bộ, đảng bộ về vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở đảng đối với việc thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương của Đảng, trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, trong
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Đội ngũ đảng viên phải nhận
thức đúng tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị, là trung tâm đoàn kết trong toàn
cơ quan, đơn vị, sự vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện để cơ quan,
đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
13


Tập trung giáo dục nâng cao nhận thức cho đảng viên, cấp ủy viên về tầm quan
trọng của năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Nhận thức đúng
chất lượng cấp ủy viên, chất lượng đội ngũ đảng viên là yêu tố quyết định đến năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Giáo dục nhận thức đúng

những quan điểm chỉ đạo của Đảng trong xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện nay.
Nhận thức đúng những yếu tố tác động đến việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức đảng gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Nhà nước thể chế hố nghị quyết của Đảng, xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật,
chính sách, đảm bảo các loại thị trường ngày càng hồn thiện và vận hành thơng
suốt, cạnh tranh cơng bằng, bình đẳng và kiểm sốt độc quyền kinh doanh.
Đổi mới, hồn thiện cơ chế, chính sách để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân;
đảm bảo quyền tự do, dân chủ trong hoạt động kinh tế của người dân theo quy định
của Hiến pháp, pháp luật và sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội trong xây dựng và giám sát việc thực hiện thể chế kinh tế và
phát triển kinh tế - xã hội. Hình thành một hệ thống pháp luật kinh tế tương đối đầy
đủ để điều chỉnh các vấn đề phát sinh từ thực tiễn hoạt động của nền kinh tế. Cụ
thể, đã ghi nhận đầy đủ các loại chủ thể tham gia quan hệ thị trường, bao gồm
doanh nghiệp (DN) tư nhân, công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai
thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh và hợp tác xã với tư cách là
những chủ thể chủ yếu đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Các loại chủ
thể này được quy định chủ yếu trong Luật DN (2014) và Luật Hợp tác xã (2012).
Bên cạnh đó, điều chỉnh các quan hệ hàng hóa - tiền tệ (quan hệ hợp đồng) phát
sinh trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện và tự chịu trách nhiệm (pháp luật về hợp
đồng), trong đó, việc điều chỉnh các quan hệ thị trường thuộc về Bộ luật Dân sự
(1995 và 2005), ...

14


4.

Là đòn bẩy thúc đẩy các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế
quốc dân cùng phát triển


Theo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII ghi nhận: 'Tiếp tục đổi mới và
phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng
dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để
nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ
xã hội mới. Đại hội X của Đảng (2006) đã khẳng định 5 thành phần kinh tế: kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư hữu tư nhân), kinh tế
tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cùng phát triển trong nền kinh
tế nước ta. Việc chấp nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong
nền kinh tế đã tạo ra xung lực mới cho sự phát triển và đã làm cho nền kinh tế từ
nghèo khó từng bước được cải thiện và khởi sắc đi lên. Điểm mới và bước tiến
trong tư duy và nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
của Đảng chính là khẳng định sự ‘bình đẳng’ và ‘phát triển lâu dài’ của các thành
phần kinh tế và khẳng định việc thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động, hiệu quả kinh tế và theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và
phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Hơn nữa, Đảng ta
khẳng định ‘Phát triển kinh tế là trung tâm’; xây dựng cơ cấu kinh tế ‘có hiệu quả
và bền vững’.
Vai trị chủ đạo của kinh tế nhà nước trong việc là đòn bẩy thúc đẩy các thành
phần kinh tế quốc dân cùng phát triển
Kinh tế Nhà nước là đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề
xã hội. Đối với đất nước đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa như Việt
Nam, vai trị địn bẩy của kinh tế Nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát
triển của kinh tế. Kinh tế Nhà nước giúp nhanh chóng hình thành những chủ thể
15


kinh doanh trong các lĩnh vực cơng nghiệp có nguồn lực tài chính, có kỹ thuật, có
năng lực, đội ngũ lao động lớn, đảm nhận vai trò mở đường cho sự phát triển kinh
tế khi mà khu vực kinh tế tư nhân chưa tích lũy kịp các nguồn lực phục vụ cho phát

triển nền kinh tế. Bên cạnh đó, kinh tế Nhà nước còn giúp giải quyết các vấn đề xã
hội. Vai trò này thể hiện qua việc điều tiết các nguồn lực xã hội, phân phối lại thu
nhập xã hội, đảm bảo tính cơng bằng của phúc lợi xã hội, cung cấp các hàng hóa,
dịch vụ cơng ích, … mà ngồi kinh tế Nhà nước khơng có khu vực kinh tế nào khác
có thể đảm nhận.
Hơn nữa, kinh tế Nhà nước mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế
khác cùng phát triển. Bản chất của kinh tế thị trường là cạnh tranh, ở đó mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh đều hướng đến mục tiêu lợi nhuận. Việc tạo ra lợi nhuận
là cần thiết để nhanh chóng gia tăng tích lũy trong nội bộ nền kinh tế. Tuy nhiên,
việc chạy theo lợi nhuận bằng mọi phương thức, mọi giá sẽ dẫn đến tình trạng mất
định hướng phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt đối với Việt Nam, đang trong giai
đoạn hình thành các nền tảng, thiết chế của kinh tế thị trường, văn hóa kinh doanh
cùng nhiều vấn đề khác có liên quan chưa hình thành một cách đầy đủ thì việc đặt
lợi ích cá nhân lên trên lợi ích chung của tồn xã hội là điều khơng tránh khỏi. Để
khắc phục tình trạng này khơng thể có giải pháp tối ưu nào ngồi phát huy vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Với những ưu thế của mình, kinh tế Nhà nước sẽ là
đầu tàu mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Từ đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ là một nền kinh tế ở đó có thể chế kinh tế tối
ưu nhất, bảo đảm cho các yếu tố thị trường phát triển đầy đủ, sự phân bổ nguồn lực
hiệu quả được thực hiện triệt để theo cơ chế thị trường và hàm chứa đầy đủ tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội.
III.

Thực trạng phát triển thành phần kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay
16


Thành phần kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu nhà
nước về tư liệu sản xuất, bao gồm có các doanh nghiệp nhà nước các quỹ dự trữ

quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể
đưa vào sản xuất kinh doanh. Chính vì thế khi xem xét thực trạng phát triển thành
phần kinh tế nhà nước nhóm sẽ chủ yếu phân tích về thực trạng của các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
1.

Thành tựu

Trong suốt q trình 30 năm khơng ngừng đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đúng đường lối
chủ trương chỉ đạo qua các Đại hội đảng VI, VII, VIII, IX, thành phần kinh tế Nhà
nước nói chung, doanh nghiệp nhà nước nói riêng đã đạt được những thành tựu
đáng kể.
Về cơ chế quản lý có một sự thay đổi có thể nói đã tạo ra bước ngoặt cho các doanh
nghiệp nhà nước nói riêng và tồn bộ nền kinh tế nói chung. Từ năm 1986, nền
kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. Điều đó có nghĩa các doanh nghiệp nhà nước được tự
chủ hơn trong kinh doanh, họ chủ động về sử dụng và bảo tồn vốn, về việc tổ chức
bộ máy nhân sự vì vậy mà các doanh nghiệp hoạt động có trách nhiệm và hiệu quả
hơn.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, với những biến động khó đốn định của thị
trường trong quá trình đổi mới, cơ cấu lại doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp
nhà nước vẫn trụ vững, hoạt động hiệu quả, thể hiện được vai trò nòng cốt, dẫn dắt
và đảm bảo giữ vững một số cân đối lớn của nền kinh tế, có đóng góp quan trọng
trong xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.

17



Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước cịn bảo đảm là nguồn thu quan trọng, ổn
định cho ngân sách nhà nước. Chỉ tính riêng 33 tập đồn, tổng cơng ty, ngân hàng
trong Khối Doanh nghiệp Trung ương, kết quả sản xuất kinh doanh từ năm 2016
đến 2019 có sự tăng trưởng rất tốt với 38% doanh thu tăng trong giai đoạn này.
Cùng với đó, lợi nhuận trước thuế tăng 60,8%, nộp ngân sách nhà nước tăng 24%...
Năm 2020, cùng cả nước chống đại dịch COVID-19, các doanh nghiệp nhà nước
trong khối đã thực hiện các nhiệm vụ giải cứu đồng bào từ các vùng dịch trên thế
giới, cung cấp hóa chất, vật tư, thiết bị phịng, chống dịch; đặc biệt đã thực hiện
miễn, giảm các loại phí, giá dịch vụ, sản phẩm để ổn định thị trường, hỗ trợ đời
sống nhân dân và hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế với
tổng giá trị lên tới 24 nghìn tỷ đồng.
Các doanh nghiệp nhà nước trong khối cũng là đơn vị đi đầu thực hiện công tác an
sinh xã hội theo chủ trương của Đảng, Nhà nước. Trong 5 năm qua, tổng kinh phí
hỗ trợ triển khai các chương trình an sinh xã hội, các chương trình hỗ trợ giảm
nghèo nhanh và bền vững lên tới trên 9 nghìn tỷ đồng; đồng thời nhận hỗ trợ, giúp
đỡ trực tiếp cho 54/62 huyện nghèo trong cả nước. Các doanh nghiệp nhà nước
cũng giữ vai trò trọng yếu trong đảm bảo an ninh các lĩnh vực thiết yếu của đất
nước như: An ninh năng lượng, an ninh lương thực, tiền tệ…, để giữ vững ổn định
vĩ mô, đảm bảo các cân đối lớn của đất nước.
Do chủ trương cổ phần hóa, sắp xếp lại nên số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã
giảm 24 lần so với cách đây hơn 20 năm, từ 12.000 doanh nghiệp năm 1986 xuống
còn 500 doanh nghiệp năm 2017. Các doanh nghiệp nhà nước giảm rõ rệt về số
lượng, điều đó làm cho các thành phần kinh tế khác sẽ có điều kiện phát triển tốt
hơn như sự tăng lên về mọi mặt của kinh tế tư nhân trong những năm gần đây. Hiện
nay, doanh nghiệp nhà nước mặc dù số lượng ít hơn nhưng đều là các doanh

18


nghiệp có quy mơ lớn nên vốn thu hút vào sản xuất kinh doanh hiện vẫn còn khá

lớn, đây được coi như một thành tựu đáng mừng của nền kinh tế.
2.

Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc phát triển, thành phần kinh tế
Nhà nước cũng còn tồn tại nhiều hạn chế.
Thứ nhất, sự phát triển của thành phần kinh tế nhà nước và đặc biệt là các doanh
nghiệp Nhà nước cịn nhỏ về quy mơ và dàn trải về ngành nghề. Nhiều doanh
nghiệp cùng loại hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và
trên cùng một địa bàn tạo nên sự cạnh tranh khơng đáng có. Doanh nghiệp Nhà
nước cịn dàn trải trên tất cả các ngành nghề gây tình trạng phân tán, manh mún về
vốn trong khi vốn đầu tư nhà nước rất hạn chế, gây chi phối, không thể tập trung
cho các lĩnh vực then chốt. Cụ thể, giai đoạn 2016-2018, nước ta có khoảng 700
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, có đến 49,3% số doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh; nhiều doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoạt động kinh doanh bất
động sản, văn hóa, dược phẩm, quản lý bến xe, du lịch, cơ khí, dịch vụ suất ăn hàng
khơng, dịch vụ hàng hóa, …với số vốn cịn ở mức nhỏ khó đảm bảo sự phát triển
trong khi những lĩnh vực này khu vực tư nhân đã có khả năng đảm nhiệm.
Thứ hai, trình độ khoa học kỹ thuật và áp dụng cơng nghệ cịn lạc hậu so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới dẫn đến năng lực cạnh tranh chưa cao
và thua thiệt trong hội nhập kinh tế toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp được đưa vào
vận hành từ trước những năm 2000, máy móc thiết bị đã khấu hao nhiều. Trong
những năm gần đây, cơng nghệ thiết bị máy móc trong sản xuất kinh doanh đã được
hiện đại hơn rất nhiều nhưng thiếu tính đồng bộ nên khi hư hỏng vấn đề thay thế,
sửa chữa gặp nhiều khó khăn. Theo thơng tư về sử dụng tài sản, các tài sản cố định
hữu hình nhà nước có thời gian sử dụng khá dài như nhà, xưởng là khoảng 50-80
năm; các máy móc thiết bị văn phòng và thiết bị dùng trong hoạt động chung là
19



khoảng 6-8 năm, cùng với sự phát triển của khoa học cơng nghệ việc sử dụng các
thiết bị máy móc cần tính hiện đại thì thời gian sử dụng đã lâu làm hạn chế sự phát
triển của năng lực nhân viên và cơ sở hạ tầng các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
nhà nước ở địa phương còn lạc hậu trong tiếp cận các ứng dụng khoa học kỹ thuật.
Bên cạnh đó, trong q trình đổi mới kinh tế của nước ta vài năm trước có những
doanh nghiệp chuyển giao cơng nghệ nhưng lại nhập về những công nghệ đã lỗi
thời so với thế giới khiến nước ta thành “bãi rác cơng nghiệp” từ đó thất thốt nhiều
tiền của Nhà nước để xử lý và thay thế mới lại. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới
công bố năng lực cạnh tranh tồn cầu có đánh giá về áp dụng cơng nghệ thơng tin
thì thứ hạng của Việt Nam đã tăng nhưng còn thấp 67/141 (sau Singapore và
Malaysia), đây là con số báo động các chuyên gia và doanh nghiệp kinh tế, công
nghệ cần tăng cường năng lực phát triển để cạnh tranh. Tập đồn dầu khí Việt Nam
cịn chưa áp dụng được những công nghệ tiên tiến trên thế giới trong cơng tác khai
thác và chế biến dầu khí nên chủ yếu dầu khí của Việt Nam mình là xuất khẩu thơ
sang các nước tiên tiến hơn có cơng nghệ chế biến cao để tiến hành các công đoạn
chế biến Thành nhiên liệu rồi lại phải mua dầu khí các nhiên liệu đã chế biến sẵn về
Việt Nam. Ngoài tập đoàn dầu khí Việt Nam sự yếu kém về cơng nghệ cịn được
thể hiện ở Tổng cơng ty cà phê Việt Nam, Việt Nam là một nước xuất khẩu cà phê
rất lớn nhưng sản lượng cà phê mà tự mình chế biết được cịn rất thấp chủ yếu đều
nhờ vào cơng nghệ của nước ngoài.
Thứ ba, thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém
chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, tỷ lệ tăng trưởng đóng góp của hệ thống
Nhà nước vào GDP từ năm 2016 – 2018 giảm nhẹ từ 28.81% - 27,67% trong khi đó
ngân sách Nhà nước liên tục phải cấp vốn cho đầu tư xây dựng, cấp bổ sung vốn
lưu động, bù lỗ, miễn giảm thuế, miễn giảm lãi cho các doanh nghiệp Nhà nước.Cụ
thể, theo Kiểm toán Nhà nước, lỗ lũy kế đến hết năm 2017 của Tổng công ty CP

20



Xây lắp dầu khí là 3.377 tỉ đồng; Cơng ty CP Nghe nhìn tồn cầu (AVG) thuộc
MobiFone lỗ 73 tỉ đồng.
Từ thua lỗ, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã âm vốn chủ sở hữu như Cơng ty CP
Hóa dầu và xơ sợi dầu khí âm vốn 1.780 tỉ đồng, Cơng ty CP Đầu tư tài chính Cơng
đồn dầu khí VN 172 tỉ đồng và Công ty TNHH MTV Công nghiệp tàu thủy Dung
Quất 1.159 tỉ đồng.
Nhiều tập đồn, tổng cơng ty nhà nước quản lý nợ chưa chặt chẽ, để phát sinh nợ
phải thu q hạn, nợ khó địi cao như Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN) 547 tỷ
đồng; công ty mẹ - MobiFone 510 tỷ đồng; CTCP Phát triển địa ốc Sài Gịn 5.191
tỷ đồng; Tổng cơng ty Thương mại Sài Gịn (Satra) 266 tỷ đồng. Thậm chí, có
những đơn vị ơm khoản nợ khó địi lên tới chục nghìn tỷ đồng như của cơng ty mẹ PVN 11.368 tỷ đồng.
Thứ 4, cơng tác quản trị cịn hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu quản trị doanh nghiệp
hiện đại; cịn nhiều sai sót, yếu kém trong quản lý và sử dụng đất đai, quản lý hoạt
động đầu tư xây dựng trong một số doanh nghiệp nhà nước. Trong các doanh
nghiệp hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp bị tha hóa
biến chất, vi phạm cơ chế quản lý gây thất thoát tài sản, tiền vốn nhà nước; các cán
bộ lớn tuổi bảo thủ thiếu năng động nhưng vẫn giữ các chức vụ quản lý cấp cao; số
lượng nhân viên trong doanh nghiệp lớn nhưng trình độ văn hóa, kỹ thuật chun
mơn cịn kém, thiếu tinh thần trách nhiệm do đó năng suất cơng việc chưa cao.
Tình trạng sử dụng đất sai mục đích, xây dựng không phép, trái phép, các doanh
nghiệp Nhà nước chậm đưa đất vào sản xuất, sử dụng sai mục đích dẫn đến đất bị
lấn chiếm, thất thốt, lãng phí vẫn diễn ra. Cụ thể, Tổng công ty Khánh Việt có
286ha đất chưa sử dụng, Cơng ty Cấp nước Sài Gịn (Sawaco) 18,92ha, Tập đồn
Bưu chính viễn thơng VN (VNPT) 7,01ha ...Mặt khác, hàng nghìn hecta đất cơng
được sử dụng không hiệu quả. Cụ thể, công ty mẹ - Tổng công ty Thương mại Sài
21


Gịn TNHH MTV (Satra) có 2 khu đất đã được UBND TP.HCM chấp thuận chủ

trương đầu tư từ nhiều năm trước nhưng chậm triển khai thực hiện. HFIC có tới 37
địa chỉ nhà, đất kinh doanh trống, chưa cho thuê.
Cụ thể, việc không phân tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn nhà nước và chức
năng quản lý nhà nước, chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
dẫn đến lạm quyền trong điều hành quản lý doanh nghiệp nhà nước gây nên thất
thoát tài sản. Ngay trong đại án tham nhũng xảy ra tại Tập đoàn Công nghiệp tàu
thủy Việt Nam (Vinashin), các bị can đưa ra xét xử với với tội danh "cố ý làm trái
các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng".
Nguyên lãnh đạo Vinashin lợi dụng quyền hạn để tự ý tàu Hoa Sen gây thiệt hại
cho nhà nước số tiền hơn 469,5 tỷ đồng.


Nguyên nhân:

Thứ nhất: Các cơ chế, chính sách trong quản lý, đổi mới và phát triển doanh nghiệp
nhà nước còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn điểm chưa phù hợp với xu hướng
phát triển của nền kinh tế. Các văn bản luật và dưới luật cịn xung đột, có khoảng
trống. Điều này dẫn đến việc hoạt động của DNNN, hoạt động quản lý phần vốn
trong DNNN cịn nhiều khó khăn và bất cập, trong đó có sự chồng chéo giữa quản
lý nhà nước của các bộ ngành với vai trò quản trị, chủ quản của các DNNN. Một bộ
phận đội ngũ cán bộ địa phương thiếu trách nhiệm, chưa đáp ứng được yêu cầu về
năng lực, phẩm chất; công tác đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế cịn nhiều
điều bất cập.
Thứ hai: Trình độ khoa học cơng nghệ còn lạc hậu được chỉ ra bởi các nguyên nhân
như: việc đổi mới cơng nghệ nhìn chung cịn chậm, chưa đáp ứng nhu cầu của kinh
tế; trong quá trình mở cửa, hợp tác đầu tư với nước ngoài , yếu tố chuyển giao cơng
nghệ chiếm tỷ trọng cịn thấp; việc quản lý xuất nhập khẩu, quy chế giám định cơng
nghệ chưa chặt chẽ; vai trị quản lý, hướng dẫn của ngành Kinh tế - Kỹ thuật, của
22



các cơ quan quản lý của Nhà nước về khoa học, công nghệ trong cơ chế thị trường
chưa được đẩy mạnh; mối quan hệ giữa các doanh nghiệp và các cơ quan nghiên
cứu khoa học công nghệ rời rạc.
Thứ ba: Thực trạng hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước
còn hạn chế được nhận định do nguyên nhân một phần từ chính yếu kém nội tại của
doanh nghiệp: năng lực quản trị, kỹ năng, ứng dụng cơng nghệ; thể chế, quy định
chính sách và cơ chế giám sát chưa thực sự hiệu quả; sự hỗ trợ từ Nhà nước cịn
thiếu đồng bộ; các chính sách thúc đẩy của Nhà nước chưa tạo được động lực mạnh
mẽ thúc đẩy cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả kinh doanh.
3.

Thách thức

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc phát triển, thành phần kinh tế
Nhà nước cũng phải đối mặt với nhiều thách thức.
Thứ nhất là, tuy số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm nhiều nhưng các doanh
nghiệp chuyển đổi sở hữu chỉ chiếm khoảng gần 10% tổng số vốn của tồn bộ khu
vực doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, việc sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu trong thời gian
qua phần nhiều mang ý nghĩa sắp xếp, điều chỉnh trong nội bộ khu vực doanh
nghiệp nhà nước (giảm bớt doanh nghiệp quy mô nhỏ, doanh nghiệp lỗ, doanh
nghiệp không cần nắm giữ, giảm bớt đầu mối, chuyển từ cấp quản lý này sang cấp
quản lý khác…), mà chưa tạo được cơ cấu hợp lý và chưa điều chỉnh được cơ cấu
tương quan giữa doanh nghiệp nhà nước với các loại hình doanh nghiệp khác trong
nền kinh tế.
Thứ hai là, việc sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chưa được thực hiện
theo một đề án tổng thể kết hợp giữa ngành và địa bàn mà lại được thực hiện theo
từng đề án của từng bộ, ngành, địa phương, tổng cơng ty nên cịn có sự chồng chéo
23



về ngành nghề kinh doanh, giữa doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa
phương trên cùng một địa bàn.
Thứ ba là, phần lớn các ngành, các cấp vẫn có tư tưởng giữ lại nhiều doanh nghiệp
100% vốn nhà nước hoặc có cổ phần chi phối của Nhà nước. Cụ thể là có tới gần
60% số doanh nghiệp được xác định là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn
tại các đề án sắp xếp đã được phê duyệt không đáp ứng đủ các điều kiện quy định
tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí, danh mục phân loại công ty
nhà nước và công ty thành viên hạch tốn độc lập thuộc tổng cơng ty nhà nước.
Thứ tư là, việc triển khai thực hiện sắp xếp lại, cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu
doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua còn chậm so với tiến độ đã đề ra và chủ
yếu là đối với các doanh nghiệp quy mơ vừa và nhỏ; trong khi đó, các doanh
nghiệp cần chuyển đổi sở hữu trong thời gian tới lại tập trung vào các doanh nghiệp
quy mô lớn, tổng cơng ty, ngân hàng thương mại nhà nước có cơ cấu tổ chức phức
tạp bao gồm nhiều pháp nhân, chi nhánh hoạt động trên các địa bàn trong cả nước
lại phải vừa sắp xếp, tổ chức lại vừa phải triển khai cổ phần hóa tồn bộ tổng cơng
ty hoặc cổ phần hóa một bộ phận các doanh nghiệp thành viên vừa hình thành cơng
ty mẹ có 100% vốn điều lệ do Nhà nước sở hữu trong thời hạn 4 năm như luật định
là điều không dễ dàng trong điều kiện hiện nay.
Trong năm nay, các thành phần kinh tế Nhà nước còn gặp phải nhiều thách thức bởi
dịch Covid-19, cụ thể các doanh nghiệp gặp khó khăn khi thị trường tiêu thụ bị thu
hẹp (tỷ lệ các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu nhưng hàng hóa khơng xuất
khẩu được trên 40%); thị trường cung cấp nguyên liệu đầu vào bị thiếu hụt (dịch
Covid kéo dài trong nửa đầu năm dẫn đến nguyên liệu dự trữ của doanh nghiệp cạn
kiệt, thị trường nhập khẩu khơng khởi sắc vì tình hình dịch các nước cũng có nhiều
diễn biến phức tạp); thiếu hụt nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh (khu vực doanh
nghiệp Nhà nước có tỷ lệ thiếu hụt nguồn vốn cho SXKD cao nhất với 49,8%);
24



gánh nặng chi trả công lao động (hoạt động sản xuất trì trệ cùng tác động của các
chi phí lớn khác để duy trì hoạt động). Tình hình dịch bệnh cũng địi hỏi doanh
nghiệp cần có sự thay đổi để thích nghi hiệu quả hơn, nhanh chóng tìm hướng đi
mới, đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử, chuyển đổi mặt hàng sản phẩm chủ
lực, tích cực tìm kiếm thị trường mới cho nguyên liệu đầu vào cũng như thị trường
tiêu thụ sản phẩm đầu ra ngoài thị trường truyền thống. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp cần nắm bắt thời điểm này để tổ chức đào tạo nâng cao trình độ chuyên
môn, tay nghề cho người lao động.
Trong tương lai không xa doanh nghiệp Nhà nước phải đối mặt với hai sức ép cạnh
tranh lớn từ các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác và doanh nghiệp nước
ngoài tập đoàn mạnh sau khi nước ta ký kết các hiệp định thương mại lớn.
Vì vậy, có thể nói đây là thách thức to lớn, địi hỏi phải có chương trình mang tính
tổng thể với những điều chỉnh quyết liệt hơn của các ngành, các cấp, nhất là trong
bối cảnh hội nhập kinh tế đang được đẩy mạnh.
Liên hệ thực tiễn và giải pháp tăng cường vai trò của thành phần kinh tế

IV.

nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
1.

Việt Nam
Đối với thành phần kinh tế nhà nước

Theo chủ trương của Đại hội Đảng VIII đối với thành phần kinh tế nhà nước là phải
tăng cường việc chăm lo đổi mới và phát triển kinh tế thực sự có hiệu quả để có thể
làm tốt vai trị chủ đạo của nó, phải thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, Tổ chức lại thành phần kinh tế nhà nước theo hướng tập trung vào
những ngành, lĩnh vực then chốt

Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, lĩnh vực trọng
yếu như kết cấu hạ tầng, kinh tế xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm
25


×