Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Câu hỏi và gợi ý trả lời Cuộc thi Tìm hiểu "Bác Hồ với Thái Bình - Thái Bình thực hiện Di chúc của Bác"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.76 KB, 28 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Câu hỏi và gợi ý trả lời Cuộc thi Tìm hiểu "Bác Hồ với Thái Bình - Thái</b>
<b>Bình thực hiện Di chúc của Bác"</b>


<b>Câu 1: (10 điểm)</b>


<b>Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh</b>
<b>đã mấy lần về thăm Thái Bình? Bối cảnh lịch sử và ý nghĩa những lần Người</b>
<b>về thăm? Nội dung Bài nói chuyện của Bác với Đảng bộ nhân dân Thái Bình</b>
<b>khi Người về thăm tỉnh lần thứ năm?</b>


<b>Gợi ý trả lời:</b>


* Những lần Bác về thăm, Bối cảnh lịch sử và ý nghĩa những lần Người về
thăm.


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 5 lần về thăm Đảng bộ và nhân dân
Thái Bình.


Lần thứ nhất: Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng, chính
quyền dân chủ nhân dân vừa mới thành lập, đứng trước mn vàn khó khăn, thử
thách: 28 vạn người chết đói, 500 quân Tưởng kéo vào quấy phá, đê Đìa - Hưng
Nhân (nay là huyện Hưng Hà) và đê Mỹ Lộc - Thư Trì (nay là huyện Vũ Thư) bị
vỡ. 15 giờ, ngày 10-01-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hưng Yên đến thăm Thái
Bình. Người làm việc với các đồng chí lãnh đạo tỉnh tại Uỷ ban hành chính tỉnh,
Người căn dặn: Phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết các thân hào, thân sỹ, trước hết
phải lo giải quyết nạn đói cho nhân dân và nhanh chóng khắc phục đoạn đê mới bị
vỡ. Sau đó, Người đến thăm đoạn đê Đìa thuộc huyện Hưng Nhân. Trước đơng đảo
đồng bào Thái Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên và nhắc nhở: nhiệm vụ
trước mắt là phải đắp lại đê và cứu đói.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

đã gặp gỡ, nói chuyện với hơn 5 vạn cán bộ, nhân dân trong tỉnh. Người khen ngợi


thành tích tăng gia lao động sản xuất của nhân dân và kêu gọi mọi người phải đoàn
kết, ra sức diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Sau đó, Bác đến thăm quãng
đê vỡ đã được hàn gắn. Người xem xét rất kỹ đoạn đê và nhắc phải đầm đất kỹ hơn
nữa.


Lần thứ ba: Ngày 26 - 10 - 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Thái Bình.
Người gặp gỡ Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Uỷ ban hành chính tỉnh tại trụ sở Uỷ ban
hành chính tỉnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghe lãnh đạo tỉnh báo cáo tình hình và
những cơng việc của tỉnh đã làm được trong năm 1958. Rời Trụ sở Uỷ ban hành
chính tỉnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm các chuyên gia Trung Quốc tại công
trường nhà máy Xay. Sau đó, Người tới dự Đại hội sản xuất Đơng - Xn tỉnh Thái
Bình. Tại sân vận động thị xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh có buổi nói chuyện với 4 vạn
đại biểu nhân dân Thái Bình từ cấp xã, huyện, tỉnh. Người đánh giá cao những
thành tích mà quân dân Thái Bình đã đạt được và nhắc nhở một số điểm cần khắc
phục như vấn đề tiết kiệm, chủ quan, tự mãn. Người kết luận “Thái Bình có nhiều
điều kiện thuận lợi, người đơng, đất tốt, nước có sẵn, đồng bào và cán bộ phải cố
gắng làm cho tỉnh nhà thành một tỉnh gương mẫu trong miền Bắc”.


Lần thứ tư: Được biết, Thái Bình có phong trào lấn biển khai hoang và tồn
tỉnh đạt thành tích cao trong sản xuất, ngày 26 - 3 - 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
về thăm và động viên phong trào. Từ máy bay trực thăng xuống, Chủ tịch Hồ Chí
Minh gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo tỉnh và các tầng lớp nhân dân ra đón. Người
đến thăm xã Nam Cường (huyện Tiền Hải), xã điển hình đi đầu trong cơng tác lấn
biển, mở rộng diện tích đất canh tác, Người khen ngợi thành tích ngăn biển, khai
phá đất hoang và tặng huy hiệu cho 4 cán bộ, xã viên có thành tích xuất sắc trong
xã.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nhân dân Thái Bình có nhiều cố gắng trong tăng vụ, vỡ hoang, làm thuỷ lợi, phân
bón. Thay mặt Trung ương, Người giao trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên tỉnh
Thái Bình phải xây dựng Thái Bình thành một trong những tỉnh khá nhất về mọi


mặt. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tặng huy hiệu của Người cho 14 chiến sỹ thi
đua về lao động sản xuất trong toàn tỉnh. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm
một số gia đình xã viên của xã Đơng Lâm, thăm một đơn vị bộ đội đóng quân tại
địa phương.


Lần thứ năm: Chiều ngày 31-12-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Thái
Bình, tỉnh đầu tiên đạt năng suất 5 tấn thóc/ha. Cùng đi với Bác có các đồng chí:
Tố Hữu và Hồng Anh. Người làm việc với các đồng chí lãnh đạo tỉnh tại nơi sơ
tán - thôn Đại Đồng, xã Tân Hồ, huyện Thư Trì, nghỉ lại 1 đêm tại đây. Sáng ngày
01-01-1967, tới thăm xã Hiệp Hồ, huyện Thư Trì (nay là huyện Vũ Thư) nói
chuyện với cán bộ, nhân dân tại đình Phương Cáp, xã Hiệp Hồ, Bác căn dặn:
“Bác mong các đồng chí và đồng bào đều cố gắng hơn nữa để làm cho Thái Bình
trở thành một tỉnh gương mẫu về mọi mặt”.


* Nội dung Bài nói chuyện của Bác với Đảng bộ nhân dân Thái Bình khi
Người về thăm tỉnh lần thứ năm.


“Hôm nay, Bác cùng với các đồng chí Tố Hữu và Hồng Anh, thay mặt
Trung ương Đảng và Chính phủ về thăm Thái Bình là tỉnh trong năm 1966 đã sản
xuất khá giỏi. Bây giờ có mấy câu chuyện nói với các cụ, các cô, các chú.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

các hợp tác xã nông nghiệp, của bà con xã viên, của cán bộ công tác ở nông thôn là
rất quan trọng.


Các chiến sỹ ở ngồi mặt trận phải có đủ vũ khí, phải nắm vững chiến thuật
để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trên mặt trận sản xuất, cán bộ và xã viên phải
nắm vững kỹ thuật canh tác để thâm canh tăng năng suất. Muốn tăng năng suất,
trước hết phải làm tốt thuỷ lợi, phải nhiều phân bón. Phân bón thì có thứ phân bón
sẵn có, chỉ cần ta xúc lấy là được, như bùn, nước phù sa. Nhưng phân chuồng vẫn
là loại phân bón tốt nhất. Muốn có nhiều phân chuồng thì phải chăn ni tốt, nhất


là ni lợn. Có đủ nước, nhiều phân rồi, lại còn phải chọn giống tốt, phải phịng trừ
sâu bệnh thì mới thu hoạch được nhiều. Trong sản xuất có nhiều việc quan hệ với
nhau. Có làm tốt cả các biện pháp thì ruộng mới có năng suất cao, mùa màng mới
thắng lợi.


Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, phải coi trọng cả lúa và hoa màu. Có
lúa lại phải có nhiều hoa màu thì lương thực mới dồi dào. Hoa màu dùng làm thức
ăn cho người, lại cịn để chăn ni lợn.


Trong việc chăn ni chú ý nuôi nhiều cá, để thêm thức ăn.


Một việc rất quan trọng nữa là phải trồng cây gây rừng. Trồng cây nào phải
tốt cây ấy. Trồng 100 cây mà sống cả, tốt cả thì hơn trồng 1000 cây mà chỉ sống
được 90 cây. Việc trồng cây nên dựa vào lực lượng các cụ phụ lão và các cháu nhi
đồng. Các cụ vừa có kinh nghiệm trồng cây, vừa cẩn thận, tỉ mỉ chăm sóc cây cối.
Các cháu nhỏ ở nơng thơn cần giúp các cụ giữ gìn cây tốt, khơng để cho trâu bò
phá hại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Muốn sử dụng tốt sức người vào cơng việc sản xuất, thì cần ra sức cải tiến
công cụ. Một người gánh khoẻ cũng chỉ được độ 50 cân, nhưng một người kéo một
cái xe thì có thể chở được hơn vài tạ, tức là gấp mấy lần gánh.


Sức người có nhiều loại: có thanh niên, có phụ nữ, có người trẻ, có người
già. Phải phân cơng cho hợp lý, người khoẻ thì làm việc nặng, người yếu thì làm
việc nhẹ.


Phải đặc biệt chú ý đến sức lao động phụ nữ. Phụ nữ là đội qn lao động rất
đơng. Phải giữ gìn sức khoẻ cho phụ nữ để chị em tham gia sản xuất được tốt. Ví
dụ: Khi phụ nữ có kinh thì hợp tác xã chớ phân công họ đi làm ở chỗ ruộng sâu,
nước rét. Các hợp tác xã phải có những tổ giữ trẻ tốt để phụ nữ có con mọn có chỗ


gửi các cháu để yên tâm lao động.


Một điều nữa, Bác cần nói là: phải kính trọng phụ nữ. Chúng ta làm cách
mạng là để tranh lấy bình quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền như nhau. Lê
nin dạy chúng ta: phụ nữ là một nửa xã hội. Nếu phụ nữ chưa được giải phóng thì
xã hội chưa được giải phóng cả. Phụ nữ phải tự mình phấn đấu giữ gìn quyền bình
đẳng với đàn ơng. Đàn ơng phải kính trọng phụ nữ. Nhưng Bác nghe nói vẫn có
người đánh chửi vợ. Đó là một điều đáng xấu hổ. Như thế thì cịn gì là tình nghĩa
vợ chồng? Như thế là phạm pháp, là cực kỳ dã man. Chi bộ đảng phải giáo dục
đảng viên và nhân dân về quyền bình đẳng giữa vợ chồng. Đồn thể phụ nữ và
thanh niên phải bảo ban nhau cách cư xử hồ thuận trong gia đình. Bác mong rằng:
từ nay về sau sẽ khơng cịn thói xấu đánh chửi vợ nữa.


Bây giờ Bác nói đến tình hình các hợp tác xã nơng nghiệp ở Thái Bình. Nói
chung đều có tiến bộ, thu hoạch khá. Nhưng chưa phải hợp tác xã nào cũng đều tốt
cả. Cho nên các hợp tác xã đã khá rồi phải cố gắng vươn lên nữa. Các hợp tác xã
kém thì phải cố gắng tiến lên thành hợp tác xã khá. Các hợp tác xã đều phải:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

- Thực hành dân chủ, nghĩa là công việc đều phải bàn bạc với xã viên, cán
bộ không được quan liêu, mệnh lệnh.


- Tài chính phải cơng khai, tuyệt đối chống tham ơ, lãng phí.


Các hợp tác xã phải làm thế nào để các xã viên đều thấy rằng mình là người
chủ tập thể của hợp tác xã, có quyền bàn bạc và quyết định những công việc của
hợp tác xã. Có như thế thì xã viên sẽ đồn kết chặt chẽ, phấn khởi sản xuất và hợp
tác xã sẽ tiến bộ khơng ngừng.


Năm nay, Thái Bình được mùa khá. Nhưng chớ thấy được mùa mà chủ
quan, cụ thể là:



a. Phải cố gắng hơn nữa, không nên cho như thế là đủ rồi. Phải làm cho năng
suất cao hơn nữa;


b. Phải tiết kiệm, khơng được lãng phí;


c. Thái Bình vốn là một tỉnh đất hẹp, người đông. Cho nên phải hết sức tăng
năng suất cây trồng, nhưng vẫn phải đi vỡ hoang thêm ruộng đất. Trong việc vỡ
hoang có xã Nam Cường, năm nọ Bác về thăm thì mới bắt đầu vỡ hoang. Bây giờ
Nam Cường chẳng những sản xuất đủ ăn mà cịn xung phong bán thóc làm nghĩa
vụ cho Nhà nước. Như thế là rất tốt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Bác nghe nói ở Thái Bình đang có phong trào báo cơng, bình cơng. Trong sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước, ai có cơng thì báo cơng và đưa ra trước xã viên bình
cơng. Làm như thế là tốt, vì:


- Ai có cơng, ai khơng có cơng, bà con xã viên đều biết. Do đó thúc đẩy lẫn
nhau, cùng cố gắng lập cơng mới.


- Người có cơng gì tự báo cơng để tập thể bình bầu, như thế là thực hành
quyền dân chủ trong nhân dân, làm cho mọi người đều phấn khởi và cố gắng.


- Đó cũng là một dịp để phê bình và tự phê bình một cách thiết thực, nhân
dân tự giác giáo dục lẫn nhau, qua đó mà mọi người biết làm việc gì thì tốt, làm thế
nào là tốt...


- Về việc xây dựng Đảng ở Thái Bình, phát triển Đảng như vậy là khá.
Nhưng đảng viên phụ nữ hiện nay mới chiếm 17 % tổng số đảng viên, như thế là
cịn ít, cịn hẹp hịi với phụ nữ. Trong lúc đề bạt cán bộ trẻ phải chú ý đến sự đoàn
kết giữa đảng viên cũ và đảng viên mới. Trong Đảng ta có nhiều đảng viên già,


nhiều đảng viên trẻ. Đảng viên nhiều tuổi thì từng trải. Đảng viên trẻ tuổi thì hăng
hái. Cho nên đảng viên phải giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau tiến bộ. Công việc cách
mạng rất nhiều, không sợ thiếu việc. Phải chú ý đến phát triển Đảng vào thanh
niên. Không nên hẹp hòi. Nhưng việc phát triển Đảng phải làm cẩn thận, khơng
được cẩu thả.


Cịn hai điều nữa, phải rất chú ý:


Một là, việc phịng khơng nhân dân phải làm tốt hơn nữa. Địch càng thua,
càng liều lĩnh. Chiến tranh có thể cịn gay go hơn. Cho nên phải đào nhiều hầm hào
để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Cuối cùng, Bác nhờ các cụ, các cô, các chú chuyển lời thăm hỏi tới tồn thể
bà con xã viên trong hợp tác xã, cơng nhân trong xí nghiệp, cán bộ trong cơ quan,
các đơn vị bộ đội và công an, dân quân trong tỉnh. Năm nọ, Bác về thăm, cán bộ và
đồng bào trong tỉnh đã hứa với Bác sẽ đưa phong trào tiến lên mạnh mẽ. Bây giờ,
Bác rất vui lòng thấy Thái Bình có tiến bộ nhiều. Bác mong các đồng chí và đồng
bào đều cố gắng hơn nữa để làm cho Thái Bình trở thành một tỉnh gương mẫu về
mọi mặt.


Ngồi những vinh dự trên, Đảng bộ và nhân dân Thái Bình cịn nhận được
mn vàn tình thương u và chăm sóc của Bác như: trong nhiều năm theo dõi
Báo “Thái Bình tiến lên”, Bác đã thưởng huy hiệu cho 67 người tốt, việc tốt. Bác
khen 41 giáo viên dạy giỏi, 197 học sinh giỏi. Bác hai lần gửi thư khen Hợp tác xã
Tân Phong, Đơng Bình cách chăn ni trâu, bị giỏi, khen ngợi Hợp tác xã Hiệp
Hồ trồng cây giỏi, khen đội thuỷ lợi Quang Trung làm thuỷ lợi giỏi. Bác gửi Tỉnh
uỷ ba tấm ảnh có chữ ký của Người làm phần thưởng. Đầu năm 1969, cả Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ được vào thăm và chụp ảnh với Bác.


<b>Câu 2: (10 điểm)</b>



<b>Bác viết Di chúc trong hoàn cảnh nào, thời gian những lần Bác viết và</b>
<b>sửa Di chúc?</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Người tâm huyết nhắc nhở các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ: cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình. Đặc biệt, Bác nhấn mạnh: Đảng ta là một đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Điều đó
cho thấy sự nung nấu, suy tính của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều năm, chứa
đựng chiều sâu của tư tưởng, tình cảm, chiều cao trí tuệ của Người.
Di chúc là một văn kiện lịch sử vơ giá, tốt lên khí phách, tinh thần lạc quan chiến
thắng của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, là kết tinh của tinh hoa tư tưởng, đạo
đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và
nhân loại. Di chúc là những lời căn dặn thiết tha, chứa đựng biết bao tình cảm, hồi
bão và khí phách, thể hiện trong từng lời nhắc nhở, dặn dò trước lúc Bác đi xa.


Trong các tác phẩm Càng nhớ Bác Hồ và Hồi ký Bác Hồ viết Di chúc, đồng
chí Vũ Kỳ, thư ký của Bác Hồ nêu rõ, Bác bắt đầu viết những dòng đầu tiên của
bản Di chúc để lại cho muôn đời sau vào lúc 9 giờ sáng thứ hai, ngày 10/5/1965;
đến 10 giờ, Bác viết xong phần mở đầu. Bác xếp tài liệu lại và chuyển sang làm
các công việc thường ngày. Các ngày tiếp theo, ngày 11, 12, 13/5/1965, cũng vào
giờ đó (từ 9 giờ đến 10 giờ), Bác viết tiếp các phần cịn lại. Riêng ngày 14/5/1965,
do buổi sáng có lịch đi thăm một hợp tác xã ở ngoại thành Hà Nội và dự một phiên
họp của Bộ Chính trị, Bác chuyển viết Di chúc sang buổi chiều với thời gian gấp
đôi, từ 14 giờ đến 16 giờ. Đúng 16 giờ, Bác đánh máy xong bản Di chúc và cho
vào phong bì. Đến 21 giờ hơm đó, Bác giao chiếc phong bì cho đồng chí Vũ Kỳ và
dặn: “Chú cất giữ cẩn thận, vào dịp này sang năm nhớ đưa lại cho Bác”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

bổ sung thêm vào bản Di chúc tùy theo tình hình đất nước. Đặc biệt là qua tình
hình chiến sự miền Nam, Bác lại viết thêm những phần cần thiết vào bản Di chúc.
Năm 1966, Bác bổ sung thêm phần nói về tự phê bình và phê bình trong Đảng,
trong đó Bác nhấn mạnh: “Phải có tình đồng chí thương u lẫn nhau”. Năm 1967,
Bác xem lại bản Di chúc, nhưng khơng sửa gì. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang,
gồm một số đoạn về việc riêng và một số công việc cần làm sau khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi. Năm 1969, Bác xem và viết lại toàn bộ phần
mở đầu gồm 1 trang viết tay. Ngày 19/5/1969, Bác sửa lần cuối.


Như vậy, bản Di chúc đã được Bác khởi thảo từ ngày 10/5/1965. Ngày
20/5/1969 là ngày Bác xem lại lần cuối cùng. Trong khoảng 4 năm ấy cứ vào trung
tuần tháng 5 hằng năm, phần lớn mỗi ngày Bác đều dành 1 giờ để xem lại, sửa
chữa, bổ sung những chỗ cần thiết, có khi viết thêm một số trang, hoặc sửa chữa
một số câu, có khi chỉ thay đổi một vài chữ trong Di chúc. Với trách nhiệm với hậu
thế, Bác cân nhắc từng ý, từng lời, nhưng mỗi ý, mỗi lời đều giản dị, chân thành,
trong sáng, tự nhiên như chính cuộc đời mà Bác đã sống.


Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ tang
của Người vào tháng 9/1969, gồm 4 trang in khổ 14,5 cm x22 cm. Ngày
19/8/1989, Bộ Chính trị ra Thông báo số 151- TB/TW Về một số vấn đề liên quan
đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Di chúc cơng
bố chính thức năm 1969 đảm bảo trung thành với bản gốc của Người. Nội dung
chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong đó đoạn mở đầu là của bản viết
năm 1969, đoạn về việc riêng là của bản viết năm 1968. Lúc đầu, vì những lý do
nhất định, nên một số vấn đề trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được
cơng bố,…Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) đã quyết định cơng bố tồn
bộ các bản viết Di chúc của Người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>Nội dung và những giá trị cốt lõi Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh?</b>


*Nội dung của Di chúc:


- Trước hết nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định truyền thống
đồn kết chặt chẽ trong Đảng và “cần giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”;


Người yêu cầu “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” để củng cố và phát triển đồn kết và thống
nhất trong Đảng. Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng; giữ gìn Đảng ta thật trong sạch.


- Nói về đồn viên và thanh niên, Bác nhấn mạnh “bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đảng cần phải chăm
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ - những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa
xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.


- Nói về nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân lao
động bao đời chịu đựng gian khổ, bị nhiều áp bức bóc lột của phong kiến, thực
dân; nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù, luôn đi theo và rất trung
thành với Đảng. Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hố, xã
hội nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.


- Dự báo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài nhưng nhất
định sẽ hồn tồn thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, sau khi kháng chiến
thắng lợi, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển đất nước; Đảng và Nhà
nước phải quan tâm chăm lo tới mọi đối tượng trong xã hội, đem lại ấm no hạnh
phúc cho nhân dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

- Nói về một số việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ tiếc rằng khơng được
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn


nữa. Người căn dặn “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình,
để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.


- Mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa là toàn
Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hồ bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới.


* Giá trị cốt lõi của Di chúc:


- Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng. Di chúc là tâm
nguyện của Người: “Suốt đời tơi hết lịng phụng vụ Tổ quốc, phụng vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi khơng có điều gì phải hối
hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phụng vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Ý chí,
niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân của Người thể
hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống
nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về cơng việc của sự nghiệp cách mạng cịn dang
dở. Di chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến
dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với “các nước
anh em” và “bầu bạn khắp năm châu”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo
đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi
cán bộ, đảng viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là cơng việc
thường xun để giữ vững vai trị lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.


+ Đảng cầm quyền phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn
bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chun”, có như vậy mới thực
hiện thành cơng lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Vì vậy:



Nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là một việc quan trọng,
cốt tử trong cơng tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Trong Di chúc lịch
sử, Bác nói điều trước hết: “Trước hết nói về Đảng” và yêu cầu đội ngũ cán bộ,
đảng viên “phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[1].


Nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là một trong những biện
pháp quan trọng hàng đầu để phòng, chống và đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa cá
nhân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù chế độ thực dân hay phong kiến đã bị tiêu
diệt, nhưng các tật xấu của nó như tệ tham ơ, tham nhũng, lãng phí, quan liệu,...;
những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân thì vẫn cịn. Do vậy, chừng nào, mỗi cán
bộ, đảng viên chưa quét sạch những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân để nâng cao
đạo đức cách mạng, thì chừng đó, cách mạng vẫn chưa hồn tồn thành cơng vì hệ
lụy của các tật xấu ấy vẫn ngấm ngầm ngăn trở, gặm nhấm và làm suy thoái đạo
đức của người cán bộ, đảng viên, dẫn đến phá hoại sự nghiệp xây dựng chế độ xã
hội chủ nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”[2]. Cho nên,
Bác căn dặn trong Di chúc “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn
sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[3].


Nhờ nâng cao đạo đức cách mạng mới thực hành tốt dân chủ trong Đảng và
trong xã hội. Vấn đề dân chủ cũng nhạy cảm, hệ trọng như vấn đề đồn kết dân
tộc, đồn kết trong Đảng. Chính vì vậy, trong Di chúc, Người nhắc nhở, căn dặn
“Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng”. Tháng 5/1965, khi xem lại bản Di chúc đầu tiên, Người đã bổ sung
đoạn viết tay vào bên lề sau ý phê bình “phải có tình cảm đồng chí thương u lẫn


nhau”[4]. Khơng chỉ phát huy dân chủ trong Đảng, Bác còn căn dặn người cán bộ,
đảng viên phải biết dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân mới có thể giành được
thắng lợi trong sự nghiệp kiến quốc vĩ đại.


Không chỉ nêu ra, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải rèn luyện đạo đức cách
mạng, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo đức mà “giàu sang khơng
thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Tấm
gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là suốt đời phục vụ Tổ quốc, phục vụ
cách mạng, phục vụ nhân dân. Người khơng để lại tài sản riêng gì cho cá nhân
mình. Trước khi mất với tình thương dân, thương nước cịn nghèo, Người căn dặn
phải tiết kiệm, khơng nên phơ trương, hình thức: “Sau khi tơi qua đời, chớ nên tổ
chức điếu phúng linh đình để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”[5].


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

+ Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững
mạnh của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các
đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về phong trào cộng
sản thế giới” chỉ dẫn định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó là
ngun tắc đồn kết quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vơ sản, có lý có tình”.


+ Để xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần:


Nỗ lực học tập lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, học
tập và quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng...Đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Quy định số 101-QĐ/TW “Về trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, Quy định
số 124-QĐ/TW “Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị
- xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người


đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”, Quy định số 109-QĐ/TW “Về
công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên” và gần đây nhất là Quy định số 08-QĐi/TW “về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”...Thơng qua đó, tạo sự chuyển
biến, từ nâng cao nhận thức sang hành động cho mỗi cán bộ, đảng viên, tại mỗi tổ
chức cơ sở đảng bằng cách gắn thực hành đạo đức cách mạng với phịng chống,
ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

điểm tự phê bình và phê bình thường xuyên đối với cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đây là tiêu chuẩn quan trọng
nhất để đánh giá đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh và tư cách đảng viên.


Quá trình rèn luyện đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực
tiễn, trong mọi mối quan hệ với tổ chức và cá nhân, trong đời tư cũng như trong
sinh hoạt cộng đồng; phải được sự giám sát của cấp ủy, của nhân dân trên tinh thần
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.


- Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, là phác
thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta:


+ Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ
giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức
mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư
tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất
nước.



+ Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của tồn Đảng,
tồn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về
quản lý xã hội như: đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội; sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp hồn cảnh mới; khơi phục và mở rộng
các ngành kinh tế; phát triển công tác vệ sinh, y tế; chính sách miễn thuế nơng
nghiệp cho nơng dân; chính sách xã hội, cơng bằng xã hội...


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

dị về việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn đề cập đến việc xây dựng một đời
sống văn hoá mới; một lối sống tiết kiệm, khơng lãng phí; mối quan hệ giữa con
người với thiên nhiên, môi trường sinh thái.


+ Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát triển; đổi
mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian khổ, "là một cơng
việc cực kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã
cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Người yêu cầu, Đảng cần
phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân.


+ Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều kiện
nước ta phải đặc biệt chú trọng xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân
chủ, chăm lo đời sống Nhân dân.


Tơn trọng nhân dân trước hết phải có thái độ đánh giá đúng vai trị, vị trí của
nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, có dân là có tất cả, “vơ luận việc gì, đều do người
làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”[6]. Người chỉ ra rằng: “Nếu khơng
có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng....Chúng ta phải u dân, kính dân
mới u ta, kính ta”[7].


Theo Bác, muốn thật sự tơn trọng nhân dân thì phải hiểu dân. Chính tài dân,


sức dân, của dân, quyền dân, lịng dân, sư khơn khéo, hăng hái, anh hùng đã tạo
nên “cái gốc” của dân. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Nhân dân ta rất anh
hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn đi theo
Đảng, rất trung thành với Đảng”[8].


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Ngưoif dặn dò cán bộ phải “không bao giờ sai lời hứa”, “không nên làm hoặc nói
gì có thể làm cho dân hiểu lầm rằng mình xem khinh họ”[9].


Phát huy dân chủ là một khía cạnh biểu hiện ý thức tôn trọng nhân dân. Từ
chỗ đánh giá cao vai trị của dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm sao cho họ có
năng lực làm chủ, biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm.


Dân chủ được Người giải thích ngắn gọn, súc tích là dân là chủ và dân làm
chủ. Trong nước, dân chru thì địa vị cao nhất là dân, dân là quý nhất, lực lượng
nhân dân là mạnh nhất.


Phát huy dân chủ là phát huy tài dân. Muốn vậy, thì phải chịu khó nghe dân,
gặp dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân. Học hỏi dân để lãnh đạo dân. Theo Hồ Chí
Minh: "Khơng học hỏi dân thì khơng lãnh đạo được dân. Có biết làm học trị dân
mới làm được thầy học dân"[10].


Về chăm lo đời sống nhân dân: Tư tưởng Hồ Chí Minh là vì con người, do
con người, trước hết là vì dân và do dân. Người nói rằng: "Tơi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành"[11]. Theo Bác, muốn có sức dân, lịng dân thì phải chăm lo đời sống của
dân. Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn quan tâm "đầu tiên là công việc đối với con
người"[12]. Người dặn trong Di chúc: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát
triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"[13].



Câu 4 (15 điểm)


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<b>* Gợi ý trả lời</b>


Trong suốt 50 năm qua (1969- 2019), thực hiện Di chúc của Người, cùng
những tình cảm sâu nặng, lời chỉ bảo ân tình và mong muốn của Bác trong những
lần khi Người về thăm tỉnh đã khắc sâu trong tâm trí của mỗi người dân Thái Bình,
trở thành động lực tinh thần to lớn, thơi thúc Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đồn
kết thống nhất, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, hồn thành thắng
lợi, tồn diện nhiệm vụ chính trị trong các giai đoạn cách mạng. Trải qua các chặng
đường cách mạng, Đảng bộ tỉnh Thái Bình ln qn triệt và vận dụng sáng tạo
đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn địa phương.


Là một trong những địa phương có chi bộ đảng ra đời sớm nhất cả nước,
ngay sau khi thành lập, Đảng bộ không ngừng củng cố lại tổ chức và phát triển lực
lượng về các địa phương trong tỉnh. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ đảng, nhiều
cuộc đấu tranh cách mạng của Nhân dân trong tỉnh đã liên tiếp nổ ra; tiêu biểu là
hai cuộc biểu tình của nơng dân Dun Hà - Tiên Hưng, ngày 01-5-1930 và của
nông dân huyện Tiền Hải, ngày 14-10-1930; Thái Bình được Trung ương đánh giá
là tỉnh có phong trào cách mạng mạnh nhất Bắc Kỳ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

thanh niên đã lên đường nhập ngũ, hàng vạn tấn lương thực đã kịp thời chi viện
cho chiến trường. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi với
đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ, Thái Bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh
tặng cờ "Qn dân một lòng tiêu diệt quân địch" và làng Nguyên Xá (Đông Hưng)
được tặng cờ "Làng kháng chiến kiểu mẫu"; nhiều tập thể, cá nhân được phong
tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.


Sau khi miền Bắc được hồn tồn giải phóng, Đảng bộ Thái Bình đã lãnh


đạo Nhân dân tích cực thực hiện cơng cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi
phục, phát triển sản xuất và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những năm chống
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, thấm nhuần chân lý "Khơng có gì q hơn
độc lập, tự do", qn và dân Thái Bình đã anh dũng đánh trả 1.064 trận bằng không
quân, hải quân của giặc Mỹ; hàng chục vạn người con của Thái Bình đã lên đường
nhập ngũ, là tỉnh có tỉ lệ người tham gia quân đội so với dân số cao nhất miền Bắc
(18%). Thi đua với tiền tuyến anh hùng, nhân dân và lực lượng vũ trang Thái Bình
đã bắn rơi 44 máy bay, bắn cháy 4 tàu chiến Mỹ. Phát huy truyền thống quê hương,
những người con của quê hương Thái Bình đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lao
động sản xuất, học tập và công tác, lập nên những chiến công xuất sắc. Trên quê
hương ngày đêm bị bom Mỹ bắn phá, Nhân dân Thái Bình vẫn “vững tay cày, chắc
tay súng”, vừa sản xuất giỏi, vừa chiến đấu giỏi; kiên cường, bất khuất, bám đồng
ruộng, nhà máy, công trường, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, Thái Bình là tỉnh đầu
tiên ở miền Bắc đạt bình qn 5 tấn thóc/ha năm, góp phần cùng đồng bào, chiến sĩ
cả nước đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

xuất lớn, chi viện nhân lực tới khai phá các vùng kinh tế mới theo chủ trương của
Nhà nước, từng bước ổn định đời sống nhân dân.


Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng qua các nhiệm kỳ,
Đảng bộ Thái Bình đã vận dụng và cụ thể hoá phù hợp với đặc điểm tình hình địa
phương.


Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, tổng sản phẩm (GRDP) bình quân 5
năm (2011 - 2015) đạt 36.321 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng 8,04%/năm. Trong
những năm gần đây, nền kinh tế tiếp tục ổn định và duy trì đà tăng trưởng khá. Cơ
cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực: nơng, lâm, thủy sản chiếm 25,82%, cơng
nghiệp, xây dựng chiếm 38,24%, dịch vụ chiếm 35,94%. GDP bình quân đầu


người (giá thực tế) đạt 24,8 triệu đồng/năm. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được
tăng cường, việc xây dựng Khu kinh tế Thái Bình được quan tâm chỉ đạo, đã hoàn
thành Đồ án Quy hoạch chung theo tiến độ. Nhiều chủ trương, chính sách trong
phát triển kinh tế - xã hội , xây dựng nông thôn mới tiếp tục được triển khai đồng
bộ kịp thời như: tích tụ ruộng đất, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thu hút
đầu tư, ban hành và chỉ đạo triển khai Tiêu chí xã đạt chuẩn nơng thơn mới nâng
cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

mẫu, đã và đang tạo nên diện mạo mới cho nơng thơn Thái Bình, được lãnh đạo
Đảng, Nhà nước ghi nhận là nơi dẫn đầu cả nước về phong trào này ngay từ khi
phát động. Đến nay, toàn tỉnh đã có 263 xã/263 xã đã hồn thành 19 tiêu chí nơng
thơn mới (đạt 100%), trong đó: 252 xã và 01 huyện đã có quyết định cơng nhận.
Cơng tác xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu được các địa
phương tích cực tập trung thực hiện.


Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao và thơng tin
truyền thơng đều đạt kết quả tốt. Chính sách đối với người, gia đình có cơng, các
chính sách xã hội được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc và kịp thời. Tình hình an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội được bảo đảm. Cơng tác cải cách hành chính tiếp
tục được đẩy mạnh; một số thủ tục hành chính được cắt giảm, rút ngắn thời gian,
tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức và cá nhân…Sự nghiệp văn hố, thơng tin, thể
dục - thể thao có chuyển biến tích cực; an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống vật
chất, tinh thần của Nhân dân được nâng lên. Giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng
nghệ có nhiều tiến bộ. Quy mô giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng; chất
lượng giáo dục tồn diện được nâng lên. Cơng tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân
dân, kế hoạch hóa gia đình được thực hiện có hiệu quả. Các cấp, các ngành quan
tâm, tổ chức thực hiện tốt các chính sách đối với người và gia đình có cơng với
cách mạng và các chính sách xã hội. Thực hiện kịp thời, đầy đủ các chế độ trợ cấp
ưu đãi thường xuyên cho các đối tượng chính sách. Tổ chức thăm hỏi, tặng quà,
cấp Thẻ bảo hiểm y tế, hỗ trợ tiền điện... cho người có cơng, người nghèo, cận


nghèo. Công tác lao động, việc làm được chỉ đạo thực hiện đầy đủ, kịp thời. Cơng
tác quốc phịng, an ninh được tăng cường; tình hình chính trị - xã hội ổn định, trật
tự an toàn xã hội được bảo đảm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23></div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của
tỉnh; thực hiện phong trào thi đua "Dân vận khéo" gắn với thực hiện nhiệm vụ
chính trị của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc chỉ đạo thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, Quy chế giám sát và phản biện xã hội được chú trọng. Công tác tín
ngưỡng, tơn giáo, cơng tác nhân quyền tập trung kiểm tra, hướng dẫn, tạo điều kiện
cho các hoạt động tôn giáo thực hiện đúng pháp luật; kịp thời giải quyết một số vụ
việc về tín ngưỡng, tơn giáo ở cơ sở.


Cơng tác xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
được chú trọng và đạt kết quả tích cực. Hội đồng nhân dân tỉnh tiếp tục chỉ đạo và
thực hiện các giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của
hội đồng nhân dân, đại biểu hội đồng nhân dân; đổi mới và tăng cường công tác
giám sát; nâng cao chất lượng công tác tiếp xúc cử tri.


Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tập trung chỉ đạo nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước; tăng cường kỷ luật, kỷ cương chỉ đạo điều hành của các cấp, các
ngành; thể chế hóa và triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước và của Tỉnh uỷ. Chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả cơng tác cải cách
hành chính năm 2018; chỉ đạo các sở, ngành thực hiện tốt việc rà sốt quy trình thủ
tục, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước, nhất
là đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 trở lên. Công tác tiếp dân
và giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơng dân, cơng tác thanh tra được duy trì nề
nếp, đúng quy định; chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo có chuyển biến tích
cực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

và sử dụng nước sạch, các hoạt động dạy nghề, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức khoa


học - kỹ thuật cho đoàn viên, hội viên và nhân dân.


- Với những thành tích, đóng góp, hy sinh to lớn và đặc biệt xuất sắc trong
các cuộc kháng chiến, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN, Thái Bình đã vinh dự được 5 lần đón Bác về thăm; Đảng bộ, nhân
dân, các lực lượng vũ trang Thái Bình đã vinh dự được Đảng, Nhà nước trao tặng
các danh hiệu cao quý: Huân chương Độc lập, Huân chương Hồ Chí Minh, Hn
chương Qn cơng, Hn chương Chiến cơng, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân
dân, Anh hùng Lao động v.v… Nhiều người con Thái Bình đã ghi vào lịch sử
những dấu son chói lọi như Vũ Ngọc Nhạ, Tạ Quốc Luật, Bùi Quang Thận, Trần
Huy Cung, Phạm Tuân...


Đến nay, tồn tỉnh có 332.827 người được Nhà nước ghi nhận có cơng với
cách mạng, trong đó có 916 người được công nhận là cán bộ Lão thành cách mạng;
258 người được công nhận là cán bộ Tiền khởi nghĩa; trên 5.200 bà mẹ được
phong tặng và truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”; trên 100 cá nhân
được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng
lao động; hơn 50 ngàn người con của quê hương Thái Bình đã anh dũng hy sinh
trong các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc
của nhân dân; 32 nghìn thương binh, bệnh binh; gần 50 nghìn gia đình có cơng với
nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

sớm hiện thực hóa lời căn dặn của Người: “ Làm cho Thái Bình trở thành một tỉnh
gương mẫu về mọi mặt”.


Câu 5: (20 điểm)


<b>Bạn hãy viết về một tấm gương người tốt, việc tốt hoặc một tập thể tiêu</b>
<b>biểu ở địa phương, cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Thái Bình mà bạn biết</b>
<b>trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh? (số</b>


<b>lượng khơng q 2000 từ).</b>


<b>Gợi ý trả lời:</b>


* Thông tin về tập thể, cá nhân
- Tên đơn vị, cá nhân.


- Địa chỉ cụ thể


+ Đối với cá nhân (Họ và tên, năm sinh, giới tính, quê quán...)
+ Đối với tập thể (Tên cơ quan, đơn vị, địa chỉ cụ thể...)


* Những thành tích đạt được


- Khái quát về quá trình phấn đấu của cá nhân, cơ quan, đơn vị, tổ chức.
- Những thành tích nổi bật của cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân đã đạt được
trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.


- Ý nghĩa, sức lan toả của những đóng góp đó.
Câu 6 (20 điểm)


<b>Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lời huấn thị của</b>
<b>Người, là một người con của quê hương, bạn suy nghĩ như thế nào về trách</b>
<b>nhiệm của mình trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách</b>
<b>của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xây dựng tỉnh Thái Bình ngày càng văn minh,</b>
<b>giàu đẹp như lời căn dặn của Bác: “…làm cho Thái Bình trở thành một tỉnh</b>
<b>gương mẫu về mọi mặt" (số lượng không quá 3.000 từ).</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

1- Hồ Chí Minh tồn tập.



2- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình:


- Giai đoạn 1927-1954, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999;
- Giai đoạn 1954-1975, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002
- Giai đoạn 1975-2000, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004.
3- Sách “Bác Hồ với Thái Bình - Thái Bình làm theo lời Bác” - Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.


4- Một số tài liệu do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Ban Tuyên giáo các huyện,
thành ủy phát hành, như: đề cương tuyên truyền 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh (1969-2019); đề cương tuyên truyền 89 năm Ngày thành lập
Đảng (1930-2019), đề cương tuyên truyền 129 năm Ngày thành lập tỉnh
2019), đề cương tuyên truyền 129 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1890-2019)...vv..và một số trang thơng tin điện tử chính thống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28></div>

<!--links-->

×