Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

THUYẾT MINH NGŨ HÀNH SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.36 KB, 4 trang )

THUYẾT MINH NGŨ HÀNH SƠN
Tp Đà Nẵng không những nổi tiếng là thành phố của những cây cầu mà còn nổi tiếng bởi
những danh lam thắng cảnh đặc sắc. Hầu hết du khách khi đến Đà Nẵng đều muốn ghé thăm
danh thắng Ngũ Hành Sơn - vốn được xem như biểu tượng của vùng đất này. Không gian
huyền ảo, thơ mộng, đền chùa và hang động, cây cỏ, sóng vỗ … đã làm cho Ngũ Hành Sơn trở
thành cõi thiên thai dành cho du khách.
Ngũ Hành Sơn nằm cách Trung tâm Đà Nẵng 8km về hướng Đông Nam. Các ngọn núi ngạo
nghễ đứng giữa trời mây. Mỗi một hòn một dáng vẻ ấn tượng. Núi ở gần biển và sông nên
người dân gọi là hòn non nước. Danh thắng này cịn có tên gọi khác là Ngũ Uẩn Sơn, hay Ngũ
Chỉ Sơn. Năm 1837 ( Năm Minh Mạng thứ 18 ) Lần thứ 3 Vua Minh Mạng ngự du và nhận ra
thế đứng của các ngọn núi ở đây. Theo phương vị ngũ hành của thuyết kinh dịch đông phương
nên đặt tên các ngọn núi là Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn và cho khắc tên
vào núi. Người Pháp gọi là núi cẩm thạch, người dân địa phương thì gọi với một tên rất nơm na
và cũng khơng kém phần thơ mộng đó là hịn Non Nước. Những ngọn núi phía Bắc gọi là núi
chùa (Thủy Sơn), hịn phía Đơng là núi mồng gà (Mộc Sơn), hịn phía Tây Bắc gọi là núi đá
chồng (Thổ Sơn), hịn phía Tây là núi Đùng (Kim Sơn) và hịn phía Nam là núi Ơng Chài (Hỏa
Sơn).
Ngũ Hành Sơn – Non Nước là dịa danh không những đi vào thơ ca, nhạc, họa từ bao đời nay
mà còn lưu tụng ở đó bao nhiêu truyền thuyết mang đậm bản sắc văn hóa của một dân tộc ln
vượt lên những hồn cảnh khắc nghiệt để tự tồn tại và phát triển. Thơng qua những truyền
thuyết về sự tích hình thành Ngũ Hành Sơn – Non Nước chúng ta cũng thấy được tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng của những người đi lập nghiệp lúc bấy giờ. Đó là tình cảm đối với quê
hương đất nước, ý thức hướng về cội nguồn của mọi người Việt Nam.
Sự hình thành Ngũ Hành Sơn đã gắn liền với truyền thuyết về thần Kim Quy và trứng Rồng
của Long Quân. Chuyện kể rằng: ngày xửa ngày xưa có một cụ già từ miền biển phía Bắc xa
xơi bơi thuyền đến cập vào bãi biển phía Đơng (Đà Nẵng ngày nay), cụ lên bờ và dựng một túp
lều tranh sống hiu quạnh một mình với cơng việc chài lưới.
Một buổi sáng, như thường lệ, cụ sửa soạn thuyền để ra khơi đánh cá, thình lình trời bỗng nổi
sấm, gió thổi vùn vụt, mặt biển sơi động, từng đợt sóng cao xơ vào bờ cuồn cuộn. Trong tiếng
gầm rít của gió, tiếng gào thét của sóng cụ già thấy hiện ra một con rồng khổng lồ làm mặt đất
rung chuyển, cát bụi bay mù mịt, cụ già tưởng như căn lều của mình tan thành ra từng mảnh


khi con rồng tiến gần về phía đó. Cụ bỗng nghe một tiếng sấm vang lên và từ dưới bụng con
rồng lăn ra một quả trúng lớn, sau đó con rồng từ từ quay ra biển và biến mất sau những đợt
sóng khổng lồ.
Một lát sau, trời yên biển lặng, cụ già chưa kịp hồn hồn thì bỗng thấy một con rùa vàng lớn
cũng từ ngoài khơi đi vào và đến bên túp lều, Rùa Vàng đào một lỗ trên cát rồi vùi quả trúng
xuống. Sau đó Rùa Vàng quay lại bảo cụ già:“Ta là thần Kim Quy, ta muốn ngươi phải gắn sức
bảo vệ giọt máu này của Long Quân”, chưa hết bàng hoàng, cụ già lúng túng trả lời:“Nhưng tôi
tuổi già, sức yếu làm sao đủ sức đảm đương công việc hệ trọng này”. Thần Kim Quy liền trao
cho cụ già một chiếc móng và nói:“Ngươi đừng lo, hãy cầm lấy chiếc móng này và hễ có
chuyện chẵng lành thì cứ đặt móng bên tai, ta sẽ chỉ cách cho”, cụ già nhận chiếc móng và
nói:“Được, tơi xin cố hết sức”. Xong việc, thần Kim Quy liền quay ra biển và biến mất sau làn
nước xanh.
Từ đó, cụ già giữ gìn và chăm nom quả trúng rất cẩn thận. Một hôm đang làm việc trong vườn,
cụ già kinh hải khi thấy một chiếc xe trâu từ đằng xa cứ nhắm thẳng vào vị trí chơn quả trúng


mà tiến đến, trên xe lố nhố những khuôn mặt dữ dằn với binh khí hùng hổ trên tay. Với ý nghĩ
chỉ cần chiếc xe trâu lăn qua cũng đủ làm cho quả trúng vỡ tan tành, cụ già vội lấy chiếc móng
rùa ra đặc sát bên tai mình và cụ nghe một giọng nói dịu dàng vang lên: “Hãy nằm xuống, nằm
xuống đi”, cụ già liền làm theo, mới vừa nằm xuống cụ liền hóa thành một con hổ to lớn, bọn
kia hoảng hồn quay xe tháo lui chạy mất.
Sau đó, cụ già dỡ cả túp lều của mình đến dựng ngay bên trên chỗ chôn quả trứng Rồng. Cụ
không ngờ trứng mỗi ngày một lớn và trồi dần lên khỏi mặt đất. Trứng cứ lớn mãi, lớn mãi
choáng hết căn nhà tranh bé nhỏ của cụ. Vỏ trúng lấp lánh như một hòn ngọc khổng lồ. Một
đêm cụ già vừa nằm chợp mắt thì nghe có tiếng lửa cháy lách tách, thì ra bọn người hơm nọ
đang quay lại phóng lửa đốt túp lều của cụ, thấy thế cụ liền khấn xin thần Kim Quy cứu giúp.
Vừa khấn xong, cụ liền thấy mình ở trong một hang đá rộng rãi mát mẻ, trong góc hang lại có
giường chiếu sẳn sàng. Cụ khơng hề hay biết rằng có một phép màu đã xảy ra, chính cụ ở trong
hang đá của một trong sáu ngọn núi Cẩm Thạch vừa được biến thành từ sáu mảnh vỡ của
chiếc vỏ trứng thần, từ trong chiếc trứng ấy đã bước ra một cô gái xinh xắn chính là giọt máu –

con gái của Long Quân.
Cụ già bàng hoàng hơn khi bước ra cửa hang và nhìn thấy quanh mình có năm hịn núi đá có
đủ loại cây cỏ, chim mng… Từ đó cụ già với cô gái nhỏ sống bên nhau như hai cha con,
chim chóc và thú rừng là những người bạn của họ. Hằng ngày, từng đàn chim thay nhau đi lấy
sữa từ trong các mạch đá và hái trái cây quanh núi về ni cơ bé, chúng cịn tha bơng vải từ các
nơi về dệt nên những bộ quần áo xinh đẹp cho cô bé và ông cụ. Cô bé và cụ già được người
dân trong vùng yêu mến bởi hai cha con đã dạy cho họ biết trồng cây, dệt vải để sinh sống và
còn vào rừng hái lá chữa bệnh cho mọi người.
Thời gian thắm thoát thoi đưa, cô bé đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời. Một hơm, có
chàng Hồng Tử con vua đi săn với đoàn tùy tùng đi lạc đến cửa hang dưới chân núi đã nhìn
thấy cơ gái, q si mê với vẻ đẹp kiều diễm, chàng đã trở về xin vua cha cho cưới nàng làm vợ.
Ngày đoàn tùy tùng mang kiệu rước cô gái về cung cũng là ngày thần Kim Quy lên bờ đón cụ
già xuống biển.
Từ đó, ngọn núi thiếu vắng bóng hai cha con cụ già nhưng những người dân làng chài vì yêu
mến hai cha con ông lão đã kéo đến lập nghiệp quanh chân năm cụm núi. Đến nay, những hòn
núi đá Cẩm Thạch ấy vẫn còn trơ gan theo cùng năm tháng bên cạnh biển Đơng mà dân gian
vẫn quen gọi là hịn Non Nước.
Con đường với 156 bậc cấp được lát đá dẫn du khách lên núi Thủy Sơn cao 106m Con đường
này được làm vào năm 1825 khi vua Minh Mạng lần đầu tiên ngự du Ngũ Hành Sơn. Ở ngọn
Thủy Sơn có 1 điểm rất được vua Minh Mạng ưa thích khi đến đây dó là Vọng Giang Đài, nơi
đây còn để lại tấm bia đá Trà Kiệu khắc 3 chữ Vọng Giang Đài, tấm bia được làm năm Minh
Mạng thứ 18. Vọng Giang Đài là nơi để ngắm cảnh sơng, từ đây ta có thể thấy được dịng sơng
Cổ Cị quanh co uốn lượn. Chúng ta cũng nhìn thấy bao quát cả Ngũ Hành Sơn. Điều thú vị là
tuy được đặt tên là Ngũ Hành nhưng ở đây lại có tổng cộng 6 ngọn núi, trong đó Hỏa Sơn có
hai ngọn là Dương Hỏa Sơn và Âm Hỏa Sơn. Từ phải qua trái kia là hòn Thổ Sơn, kế đến là
Kim Sơn, Dương Hỏa Sơn, Âm Hỏa Sơn và Mộc Sơn. Và vị trí chúng ta đứng đây là ngọn
Thủy sơn. Ngồi ra cịn có Vọng Hải Đài, nơi ngắm cảnh biển.
Ở Thủy Sơn có những ngơi chùa rất ngổi tiếng như Chùa Tam Thai, chùa Linh Ứng. Chùa
được đặt tên Tam Thai là vì lấy theo tên của 3 đỉnh Tam Thai của núi Thủy sơn , 3 đỉnh này
giống như “Sao Tam Thai” tức là 3 ngôi sao làm thành cái đuôi của chùm sao Đại Hùng Tinh.



Chùa Tam Thai và Linh Ứng có lịch sử hơn 300 năm và đều đc triều Nguyễn sắc phong là quốc
tự. Bên cạnh chùa Tam Thai cịn dấu tích hành cung của vua Minh Mạng với mỹ danh là Động
Thiên Phước Địa. Ở đoạn sơng Cổ Cị gần Núi Kim Sơn vẫn cịn lưu lại vết tích Bến Ngự của
Vua nhà Nguyễn khi du thuyền đến Ngũ Hành Sơn.
Chùa Tam Thai tọa lạc tại ngọn núi Thủy Sơn, là ngôi chùa cổ nhất ở Ngũ Hành Sơn cũng là
một trong các ngôi chùa cổ nhất ở Đà Nẵng. Chùa được xây dựng vào đời hậu Lê khoảng năm
1630. Ngôi chùa này đã bị hủy hoại trong các cuộc giao tranh và phải trùng tu nhiều lần. Khi
Nguyễn Ánh ( Vua Gia Long ) lánh nạn tại đây, gặp một vị thiền sư giảng đạo . Vua nghe xong
liền phát nguyện rằng : " Sau này tôi phục quốc xong, tôi sẽ tô điểm thêm nơi danh lam thắng
cảnh này cho được huy hoàng tráng lệ ". Sau khi Vua Gia Long phục quốc nhưng vì bận cơng
việc triều chính chưa thực hiện được lời nguyện, nên vua di chúc lại cho con là Vua Minh
Mạng để hoàn thành đại nguyện của mình. Năm Minh Mạng thứ VI ( 1825 ), Vua Minh Mạng
mới ngự chế Ngũ Hành Sơn, nhà Vua đã cho xây dựng lại chùa này, vua ban cho chùa một tấm
biển ghi rõ :
Âm : " Ngự chế Tam Thai tự, Minh Mạng lục niên phụng tạo " .
Nghĩa : Ngự chế chùa Tam Thai, năm Minh Mạng thứ VI phụng tạo .
Và một tấm biển ngạch bằng đồng hình quả trám giống quả tim xung quanh trang trí những tia
lửa nên gọi là " Quả Tim lửa " cở 35 * 45 cm, hai mặt rập chính nét chữ của nhà vua .
Mặt trước ghi :
Âm : " Ngã Như Lai dĩ pháp vương ngự thế, hoằng tế nhơn thiên biến hiện thập phương hư
không thường trú, tác thập đại công đức nhi viêm phương độc hậu yên ".
Nghĩa : Đức Như Lai của chúng ta đã đem Phật Pháp vô thượng ngự vào thế gian, mở rộng tế
độ cho trời người, biến khắp mười phương hư không thường trú, Ngài đã làm thập đại công
đức, đâu phải chỉ có nước Nam ta chịu ân huệ sâu dày ấy .
Mặt sau ghi :
Âm
:
"

Minh
Mạng
lục
niên
Nghĩa : Làm năm Minh Mạng thứ sáu vào một ngày tốt .

kiết

nhật

tạo

.

"

Hai bảo vật này hiện còn lưu giữ tại chùa Tam Thai. Chùa Tam Thai này cùng chùa Ứng Chơn
(
chùa
Linh
Ứng
sau
này
)
được
công
nhận

quốc
tự.

Từ cổng Tam quan đi vào khoảng 10m, có tơn trí tượng Đức Phật Di Lặc to lớn ngồi trên tòa
sen bằng đá xanh do nghệ nhân ở Ngũ Hành Sơn điêu khắc, chánh điện hiện tại chính giữa thờ
Đức Phật A Di Đà đứng trên tòa sen cao khoảng 2,5m. Hai bên thờ Đức Quán Thế Âm và Đức
Đại Thế Chí Bồ Tát. Tiền đường hai bên thờ Ngài Hộ Pháp và Ngài Tiêu Diện.
Ngôi chùa này từ Vua Minh Mạng cho đến các vị vua sau này của triều Nguyễn đều rất quan
tâm đến. Vua Thành Thái năm thứ 14 ( 1902 ) đã đích thân giá ngự đến Chùa Tam Thai và
Chùa Linh Ứng để tổ chức trai đàn phụng Phật, nguyện cầu quốc thái dân an.
Ngôi chùa thứ hai cũng rất nổi tiếng ở đây chính là chùa Linh Ứng. Chùa khởi dựng khoảng
giữa thế kỷ 18 thời Hậu Lê, ban đầu chỉ là một am nhỏ tên Dưỡng Chân Am, sau thì xây thành
một ngơi chùa đặt tên Ứng Chân Tự. Chùa được Vua Minh Mạng ban quốc tự năm 1825. Năm


Thành Thái thứ 3 chùa được đổi tên thành Linh Ứng Tự do kỵ húy tên cha vua Thành Thái,
Nguyễn Phúc Ưng Chân. Trong chánh điện chùa Linh Ứng thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, 2 bên là
Quán Thế Âm Bồ Tát và Địa Tạng Vương Bồ Tát. Chùa rất linh thiêng nên được nhiều du
khách và phật tử đến chiêm bái lễ Phật.
Thắng cảnh Ngũ Hành Sơn có nhiều hang động đẹp như Động Hoa Nghiêm, Động Huyền
Không, Động Tàng Chơn, Động Linh Nham, Động Quan Âm. Tạo hóa đã ban cho Ngũ Hành
Sơn có Động Vân Thơng đường lên trời và Động Âm Phủ đường xuống địa ngục. Trong các
hang động ở đây động đẹp nhất có lẽ là động Huyền Khơng. Đi qua cổng vịm có khắc 3 chữ
Huyền Không Quan, cửa động tối om, những bậc cấp dẫn sâu vào trong lòng động . Hai bên
cửa động là pho tượng của các ông Thiện và ông Ác đứng chống kiếm uy nghi như nhắc nhở
con người về cái thiện và ác khi đến cõi sắc không của nhà Phật. Vào trong hang ta thấy có
những luồng ánh sáng từ trên cao chiếu vào hang qua lỗ hổng ở trên trần động tạo nên khung
cảnh lung linh huyền ảo. Cảnh trí nơi đây cho ta cảm giác như sống ở 1 thế giới vừa hư vừa
thực, huyền ảo lạ lùng.
Ở đây cịn vết tích của người Chăm xưa khi họ còn hiện diện ở vùng đất này thông qua các bức
phù điêu, các đài thờ. Các bức phù điêu mà chúng ta thấy có niên đại khoảng thế kỷ thứ 10 .
Ở Ngũ Hành Sơn hằng năm đều tổ chức một lễ hội rất lớn thu hút phật tử, người dân địa
phương và du khách khắp nơi về tham dự, đó chính là lễ hội Qn Thế Âm tổ chức vào ngày

17-19/2 âm lịch. Năm 1956, nhân hịa thượng Thích Pháp Nhãn phát hiện ra một pho tượng
Quan Âm bằng thạch nhũ đang cầm bình cam lộ hoàn toàn thiên tạo, rất hoàn chỉnh, cao bằng
người thật trong một cái hang tại ngọn Kim Sơn. Phía sau và chung quanh tượng là cả thế giới
đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nào là thiện tài Ngọc Nữ, Thiện Sĩ, nào là Hải Sư, bụi trúc vv…
Trên cơ sở nhân dun đó, năm 1962, hịa thượng Thích Pháp Nhãn nhân dịp khánh thành ngôi
chùa mới xây, tổ chức ngày lễ vía 19-2 Âm lịch và sau này trở thành là lễ hội Quán Thế Âm.
Hàng năm tại đây tổ chức ngày lễ vía trọng đại này.
Dưới chân núi NHS có 1 làng điêu khắc đá rất nổi tiếng đó là Làng đá mỹ nghệ Non Nước.
Ngơi làng được hình thành từ thế kỷ 17 , người thợ ở đây rất tài hoa, họ sáng tác nên các sản
phẩm mỹ nghệ bằng đá cẩm thạch khá phong phú: tượng Phật, tượng thánh, tượng người,
tượng mng thú…, vịng đá đeo tay trơn láng đầy mầu sắc chạm trổ tinh xảo, công phu. Đến
Ngũ Hành Sơn, du khách có thể chọn lựa thoải mái khi mua những đồ lưu niệm bằng đá do bàn
tay tài hoa của các nghệ nhân địa phương thực hiện.
Ngũ Hành Sơn được ví như hịn non bộ khổng lồ giữa lịng thành phố Đà Nẵng, khơng những
là biểu tượng văn hoá trong tâm thức của mỗi người con quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng
mà còn là điểm đến hấp dẫn của du lịch Miền Trung - con đường di sản.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×