Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Hồ Phương Vinh

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG
CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2020

1


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Hồ Phương Vinh

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG
CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Nguyễn Như Phát

HÀ NỘI, năm 2020
2


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi thực hiện dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Như Phát. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
văn là trung thực và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Hồ Phương Vinh

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT
ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM........................... 16
1.1 Khái niệm, đặc điểm và bản chất pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam ...... 16
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong
hoạt động công chứng .......................................................................................... 16
1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong
hoạt động công chứng .......................................................................................... 21

1.1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng
viên trong hoạt động công chứng......................................................................... 22
1.2. Chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt
động công chứng .................................................................................................. 29
1.2.1. Chủ thể gây thiệt hại .................................................................................. 29
1.2.2. Chủ thể bị thiệt hại ..................................................................................... 31
1.3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam ........................................ 32
1.3.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm thường thiệt hại ngoài hợp đồng ........... 32
1.3.1.1. Có thiệt hại xảy ra ................................................................................... 32
1.3.1.2. Có hành vi trái pháp luật ......................................................................... 34
1.3.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
.............................................................................................................................. 37
1.3.1.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại ..................................................................... 37
1.3.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng ....... 40
1.3.2.1 Có hành vi vi phạm hợp đồng .................................................................. 40
1.3.2.2. Có thiệt hại xảy ra ................................................................................... 41
1.3.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy
ra ........................................................................................................................... 42
1.3.2.4. Có lỗi của bên gây thiệt hại ..................................................................... 43
1.4. Các biện pháp bảo đảm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên ...... 44
1.5. Vấn đề trách nhiệm hồn trả của cơng chứng viên. ...................................... 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................... 49

4


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT
ĐỘNG CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ

MINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .................................................................... 51
2.1. Về vấn đề bồi thường thiệt hại của các loại công chứng viên ...................... 51
2.1.1. Đối với công chứng viên là công chức ....................................................... 51
2.1.2. Đối với công chứng viên là viên chức ........................................................ 53
2.1.3. Đối với công chứng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên công ty
hợp danh ............................................................................................................... 55
2.1.4. Đối với công chứng viên là lao động làm việc theo chế độ hợp đồng ....... 58
2.1.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị .............................................................. 60
2.2. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại .................................. 63
2.2.1. Xác định thiệt hại phải bồi thường theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng . 63
2.2.2. Xác định hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm hợp đồng của công chứng
viên ....................................................................................................................... 65
2.2.3. Xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật, hành vi vi
phạm hợp đồng và thiệt hại .................................................................................. 67
2.2.4. Vấn đề lỗi ................................................................................................... 67
2.2.5. Những vấn đề đặt ra và kiến nghị .............................................................. 71
2.3. Về thủ tục bồi thường, hồn trả của cơng chứng viên và kiến nghị ............. 73
2.3.1. Thủ tục bồi thường, hoàn trả ..................................................................... 73
2.3.2. Kiến nghị .................................................................................................... 76
2.4. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên và kiến nghị .. 77
2.4.1. Về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên..................... 77
2.4.2. Kiến nghị .................................................................................................... 81
2.5. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng và kiến nghị ............................. 82
2.5.1. Về hợp đồng cung cấp dịch vụ công chứng ............................................... 82
2.5.2. Vấn đề đặt ra và kiến nghị ......................................................................... 83
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 85
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 91

5



PHỤ LỤC ............................................................................................................ 98

6


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Từ đầy đủ

BLDS

Bộ luật dân sự

BLLĐ

Bộ Luật Lao động

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

BTTH

Bồi thường thiệt hại

CCV


Công chứng viên

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

LCC

LCC

Nxb

Nhà xuất bản

PCC

PCC

TCHNCC

Tổ chức hành nghề công chứng

VPCC

VPCC

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khắc phục những bất cập của Luật Công chứng (LCC) năm 2006, ngày
20/6/2014 tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XIII đã thơng qua LCC năm 2014 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015, trong đó quy định chi tiết và cụ thể hơn về
bồi thường, bồi hồn trong hoạt động cơng chứng, cụ thể là “ Tổ chức hành nghề
công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân,
tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là
cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng. Công chứng
viên, nhân viên hoặc người phiên dịch gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền
cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị
thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp khơng chi trả thì tổ chức hành
nghề cơng chứng có quyền u cầu tồ án giải quyết” (Điều 38). Tuy luật Công
chứng năm 2014 đã bổ sung những thiếu sót về bồi thường thiệt hại nhưng vấn
đề “trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công
chứng theo pháp luật Việt Nam” vẫn còn nhiều tồn tại, nhiều vấn đề đặt ra cần
phải giải quyết như sau:
Thứ nhất, Điều 3 LCC năm 2014 quy định “công chứng viên cung cấp dịch
vụ công do Nhà nước uỷ nhiệm”, vậy có tồn tại một hợp đồng giữa người cung
cấp dịch vụ và người hưởng dịch vụ hay không? Khi công chứng viên gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo chế định nào? Bồi thường thiệt hại theo hợp đồng
hay ngoài hợp đồng?
Thứ hai, khi nào công chứng viên phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra
trong hoạt động cơng chứng? Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng bao gồm những điều kiện
nào? Thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan điều tra

đối với việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong
hoạt động công chứng như thế nào?
Thứ ba, hiện nay tồn tại song song hai loại hình tổ chức hành nghề công
chứng là PCC (do Nhà nước thành lập) và VPCC (do các cá nhân các công

8


chứng viên thành lập). Nên khi hành nghề công chứng, các công chứng viên hành
nghề với nhiều tư cách, vai trò khác nhau và được điều chỉnh bởi nhiều nguồn
luật khác nhau, như: Luật cán bộ, công chức, Luật viên chức, Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước, Luật doanh nghiệp Bộ luật lao động (BLLĐ). Do đó,
khi gây thiệt hại họ cũng được điều chỉnh bởi các quy định về bồi thường thiệt
hại trong các luật tương ứng khác nhau. Mặc dù trong hoạt động công chứng,
công chứng viên hành nghề với nhiều danh nghĩa khác nhau (công chức, viên
chức, chủ Doanh nghiệp tư nhân (DNTN), thành viên công ty hợp danh, làm việc
theo chế độ hợp đồng) gây thiệt hại nhưng chủ thể phải bồi thường là tổ chức
hành nghề công chứng, song không phải tổ chức hành nghề cơng chứng bồi
thường thì cơng chứng viên gây thiệt hại hết trách nhiệm mà giữa tổ chức hành
nghề công chứng và cơng chứng viên gây thiệt hại cịn tồn tại mối quan hệ “hoàn
trả”. Tuy nhiên trong mối quan hệ “hồn trả” này đối với mỗi loại cơng chứng
viên còn tồn tại nhiều quy định khác nhau của pháp luật, thậm chí khơng có quy
định, hạn chế này gây ra sự mất bình đẳng giữa các cơng chứng viên của PCC và
VPCC, thậm chí là giữa các cơng chứng viên trong cùng một tổ chức hành nghề
công chứng với nhau.
Thứ tư, LCC quy định BHTNNN của công chứng viên là loại hình bảo
hiểm bắt buộc như một cơ chế bảo đảm thực hiện việc bồi thường, tuy nhiên đây
lại là bảo hiểm mang tính cá nhân, trong khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hoạt động công chứng là trách nhiệm của tổ chức hành nghề công chứng.
Trong trường hợp có BHTNNN cơng chứng thì số tiền bồi thường vượt quá số

tiền được bảo hiểm, hoặc khi công chứng viên khơng cịn làm việc cho tổ chức
hành nghề cơng chứng nữa thì trách nhiệm bồi thường, hồn trả như thế nào?
Đặc biệt hiện nay tình hình cơng chứng viên phải bồi thường thiệt hại xảy
ra ngày càng nhiều với những bất cập mà theo phản ánh của nhiều cá nhân, tổ
chức, báo chí: “Bất cập án tun cơng chứng viên bồi thường [28]”; “Với công
chứng viên, lẽ nào một là tiền, hai là tù” [37]… Dẫu với tư cách nào thì cơng
chứng viên cũng thường bị cơng an, viện kiểm sát, tòa án cho là đã vi phạm các
điều luật của Luật Công chứng. Cụ thể là điều luật về việc công chứng viên soạn
thảo hợp đồng và công chứng ngoài trụ sở. Hay phổ biến hơn là các điều luật về

9


việc kiểm tra giấy tờ trong hồ sơ; về việc đề nghị người yêu cầu công chứng làm
rõ hoặc tiến hành xác minh, yêu cầu giám định theo đề nghị của người u cầu
cơng chứng … Theo đó, có trường hợp thì tịa xử buộc bị cáo và tổ chức hành
nghề công chứng của công chứng viên ấy liên đới bồi thường thiệt hại cho người
bị hại. Có trường hợp thì tịa chỉ buộc bị cáo bồi thường nhưng lại kèm theo câu
thịng là nếu bị cáo khơng có tiền đền thì tổ chức hành nghề cơng chứng ấy phải
đền thay. Riêng trong trường hợp công chứng viên bị xử tội (đã có hai tội được
áp dụng là tội lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ và tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng) thì tịa không yêu cầu công chứng viên phải
chịu trách nhiệm dân sự. Điều đáng nói là chỉ có các cơng chứng viên là bị cáo
mới được các tòa xác định rõ hành vi vi phạm chiếu theo chức trách của công
chứng viên. Theo BLDS, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được
dựa trên bốn yếu tố là: Có thiệt hại xảy ra; hành vi gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật hoặc vi phạm hợp đồng; có lỗi của người gây thiệt hại; có mối liên hệ
nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật hoăc vi phạm hợp đồng. Đối với
người phạm tội lừa đảo…, do có đủ bốn yếu tố này nên việc buộc bị cáo phải có
nghĩa vụ bồi thường là điều đương nhiên. Thế nhưng đối với nhiều công chứng

viên đã nhận công chứng hợp đồng từ những bị cáo lừa đảo đó, khi bốn yếu tố ấy
khơng được nhận diện rõ ràng, thuyết phục, lý gì các tịa buộc họ (cơng chứng
viên) phải bồi thường như thực tế đã được chúng tơi viện dẫn ở trên?
Vì những lý do nêu trên việc nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, hoàn trả của công chứng
viên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, trong khi các quy định của
pháp luật về vấn đề này vẫn cịn mang tính ngun tắc, thiếu sự hướng dẫn cụ thể
nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường thiệt hại nói chung là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hình
thức chế tài bất lợi được áp dụng cho người gây thiệt hại. Do đó, vấn đề trách
nhiệm bồi thường thiệt hại được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều

10


góc độ khác nhau, tuy nhiên nghiên cứu mang tính chuyên ngành về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động cơng chứng có rất ít tài
liệu, cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể như sau:
- Đỗ Văn Đại (2011) “Bồi thường thiệt hại do cơng chứng viên gây ra”, tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, (số 14), tr.44-52. Tác giả đã phân tích cơ sở pháp lý,
giải quyết bồi thường thiệt hại và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do cơng chứng viên gây ra.
- Tuấn Đạo Thanh (2013) “Hồn thiện các quy định về trách nhiệm dân sự
trong hoạt động công chứng”, Nxb.Tư pháp, Hà Nội. Tác giả Tuấn Đạo Thanh
đã có những phân tích, luận giải về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công
chứng viên, của tổ chức hành nghề công chứng trên cở sở quy định của pháp luật.
Từ đó tác giả đã có những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của

pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại của công chứng viên, tổ chức hành nghề
công chứng.
- Đỗ Văn Đại (2014) “Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam
bản án và bình luận bản án”, tập 1và 2, Nxb.Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh,
TP Hồ Chí Minh,. Thơng qua việc phân tích các bản án tác giả đã chỉ ra những
khó khăn, vướng mắc khi giải quyết bồi thường thiệt hại do người làm công gây
ra, do người của pháp nhân gây ra, do công chứng viên gây ra. Tác giả đã phân
tích các khía cạnh pháp lý, có đối chiếu so sánh với pháp luật nước ngoài về cùng
một vấn đề để làm sáng tỏ sự thuyết phục hay không thuyết phục khi áp dụng
pháp luật ở Việt Nam. Đặc biệt tác giả đã đi sâu phân tích trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do cơng chứng viên gây ra.
- Nguyễn Minh Đoan (chủ biên) (2014) “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan
Nhà nước ở Việt Nam”, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã phân tích
thực trạng pháp luật Việt Nam quy định về trách nhiệm pháp lý của cán bộ, công
chức, viên chức, cơ quan Nhà nước. Tác giả đã đi phân tích sâu mối quan hệ giữa
cơ quan, đơn vị của cán bộ, công chức, viên chức gây thiệt hại khi thi hành công
vụ với người bị thiệt hại, và mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức với cán bộ, cơng
chức, viên chức có lỗi gây thiệt hại cho người khác trong khi thi hành công vụ.

11


- Hoàng Văn Hữu (2014) “Trách nhiệm bồi thường do công chứng viên
gây ra trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ,
Đại học Luật Hà Nội. Tác giả có những phân tích, luận giả về trách nhiệm bồi
thường do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng trên cơ sở theo
quy định LCC năm 2006, BLDS năm 2005. Tuy nhiên, tác giả đã chưa đi sâu
phân tích thực tiễn, bình luận những bản án cụ thể đã xét xử để xác định những
bất cập trong quy định cũng như việc áp dụng pháp luật trong xét xử. Mặc khác,

hiện nay BLDS năm 2015 và LCC năm 2014 có hiệu lực, nên những phân tích,
luận giải đã khơng cịn phù hợp.
Các cơng trình nêu trên tuy cịn ít nhưng là những tài liệu bổ ích, mang tính
lý luận cơ bản, ít nhiều có đề cập đến bồi thường thiệt hại thuộc đối tượng nghiên
cứu của tác giả, giúp tác giả có thêm nhiều thông tin và kiến thức phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài. Do các cơng trình nghiên cứu trên khơng nghiên cứu
chuyên sâu về lĩnh vực bồi thường thiệt hại của cơng chứng viên trong hoạt động
cơng chứng, hoặc có nghiên cứu về lĩnh vực tác giả nghiên cứu thì cũng mới chỉ
phân tích những bất cập bước đầu, chưa đầy đủ và toàn diện và chưa cập nhật
được những quy định mới liên quan (cụ thể LCC năm 2014, BLDS năm 2015…)
về vấn đề tác giả đang nghiên cứu. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài : “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” vừa kế thừa những thành
cơng của những cơng trình nghiên cứu trước đó nhưng là đề tài nghiên cứu một
cách toàn diện, tổng thể, chuyên sâu về vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh ở cấp độ thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh” nhằm mục đích xây dựng nền tảng lý luận và thực tiễn về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của cơng chứng viên góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm
nghề nghiệp cho các công chứng viên, giảm thiểu những sai sót gây ra thiệt hại,

12


tạo an toàn pháp lý cho tất cả mọi người trong hoạt động công chứng và giúp bảo
vệ quyền lợi chính đáng của cơng chứng viên khi gây ra thiệt hại trong hoạt động

công chứng.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, nghiên cứu những vấn đề cơ bản về cơ sở lý luận trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật
Việt nam. Nghiên cứu xác định bản chất pháp lý của vấn đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cơng chứng viên có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại
theo hợp đồng và cũng có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Hai là, nghiên cứu các quy định pháp luật về trách nhiệm của công chứng
viên trong việc thực hiện chức trách công chứng, các điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường của công chứng viên, đối chiếu so sánh giữa quy định của
pháp luật và thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh thơng qua bình luận các bản
án của Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa các kiến
nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề đề tài nghiên cứu.
Ba là, nghiên cứu về nghĩa vụ “hồn trả” của từng loại cơng chứng viên
đối với tổ chức hành nghề công chứng tương ứng khi tổ chức hành nghề công
chứng đã thực hiện việc bồi thường thiệt hại do lỗi của công chứng viên gây ra
trong hoạt động công chứng.
Bốn là, nghiên cứu về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng
viên và các cơ chế khác có thể đảm bảo trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng
viên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam, những
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng tại thành phố Hồ Chí
Minh.
Phạm vi nghiên cứu

13



Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một dạng của trách nhiệm dân sự.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động cơng chứng có nội hàm rộng,
bao gồm: trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng
trong hoạt động công chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng
viên trong hoạt động công chứng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhân viên
hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng …
Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp đó là trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của các loại công chứng viên trong khi thực hiện hoạt động công chứng
theo pháp luật Việt Nam và chỉ nghiên cứu đề tài dựa trên các vụ việc cụ thể tại
thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài tác giả sẽ thực hiện các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp duy vật biện chứng nhằm làm sáng tỏ các mối quan hệ biện
chứng trong quan hệ bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động
công chứng; Phương pháp thư viện nhằm tra cứu, sưu tập các bài viết, bài nghiên
cứu của các tác giả khác để tìm hiểu các quan điểm, tư tưởng khác nhau về vấn
đề đang nghiên cứu. Các phương pháp này được tác giả sử dụng trong suốt quá
trình nghiên cứu.
Phương pháp duy vật lịch sử nhằm làm rõ sự hình thành, phát triển và biến
đổi của quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng
viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật Việt Nam; Phương pháp so sánh;
Phương pháp phân tích, suy luận, tổng hợp; Phương pháp bình luận bản án.
Phương pháp định tính: thơng qua việc đối chiếu, so sánh và phân tích
những quy định pháp luật hiện hành, những bất cập hạn chế và thực trạng xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động cơng
chứng, từ đó có những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Đề tài đưa ra luận cứ khoa học để xác định bản chất pháp lý của vấn đề
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động cơng
chứng là có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng và có thể là

14


trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, tùy thuộc vào nguồn gốc (cơ sở)
phát sinh thiệt hại. Phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt
hại, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng. Từ đó giúp nắm bắt và hiểu được các quy định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong hoạt
động công chứng một cách hệ thống. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật của
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của công chứng viên trong hoạt động công chứng. Thông qua việc đặt câu hỏi
nghiên cứu và trả lời các câu hỏi nghiên cứu. Tác giả đưa ra các luận cứ khoa học
và đề xuất hoàn thiện pháp luật trong phạm vi nghiên cứu của đề tài. Xây dựng
hệ thống lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên trong
hoạt động công chứng theo pháp luật Việt nam.
Là một công chứng viên đang hành nghề, đề tài này có ý nghĩa ứng dụng rất
cao trong thực tiễn, trong công việc chuyên môn công chứng của tác giả và các
đồng nghiệp, giúp tác giả và các đồng nghiệp nhận thức sâu sắc hơn về nghề
nghiệp của mình, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mình (cơng chứng
viên) trong hoạt động cơng chứng theo quy định pháp luật Việt Nam, góp phần
nâng cao nhận thức trách nhiệm nghề nghiệp của CCV. Từ đó nâng cao cao chất
lượng và giá trị pháp lý của văn bản cơng chứng. Ngồi ra, đề tài cịn là tài liệu
tham khảo bổ sung cho mọi người khi nghiên cứu về vấn đề mà đề tài đã giải
quyết.

15



CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG HOẠT
ĐỘNG CÔNG CHỨNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1 Khái niệm, đặc điểm và bản chất pháp lý, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của công chứng viên trong hoạt động công chứng theo pháp luật
Việt Nam
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng viên
trong hoạt động công chứng
Theo từ điển tiếng Việt, “thiệt hại” được hiểu là sự “mất mát về người, của
cải vật chất hoặc tinh thần” [23, tr.943]. Khác với nghĩa thông thường, Từ điển
luật học chỉ rõ “thiệt hại” là “tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản, danh
dự, uy tín của pháp nhân… được pháp luật bảo vệ” [87, tr.73]. Như vậy, có thể
đưa ra khái niệm thiệt hại như sau: “Thiệt hại là bất kỳ tổn thất nào mà một
người phải gánh chịu do các quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm
phạm hay nói cách khác thiệt hại là bất kỳ sự thay đổi tiêu cực nào đối với các
quyền, tài sản và lợi ích hợp pháp của bên có quyền”.
Theo từ điển luật học thì “bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân
sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách
đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại” [87,
tr.84]. Luật dân sự quy định “người bị thiệt hại có quyền buộc bên gây thiệt hại
phải bồi thường thiệt hại” [45, khoản 2 Điều 9] và “khi quyền dân sự của cá
nhân, pháp nhân bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định
của Bộ luật này, luật khác có liên quan hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền buộc bồi thường thiệt hại” [64, Điểm 5 Khoản 1 Điều 11], đây là quyền tự
bảo vệ của chủ thể bị thiệt hại.
Thuật ngữ “trách nhiệm” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa ở nhiều góc độ
khác nhau. Trong lĩnh vực đạo đức, chính trị “trách nhiệm” được hiểu theo nghĩa

tích cực đó chính là bổn phận, là vai trò của chủ thể xuất phát từ ý thức về vai
trị, vị trí của chủ thể đối với xã hội. Còn trong thuật ngữ pháp lý thì “trách
nhiệm” cũng được hiểu theo hai nghĩa khác nhau, nó có thể hiểu là nghĩa vụ là

16


những yêu cầu mà pháp luật đòi hỏi phải làm, phải tuân thủ trong hiện tại hoặc
trong tương lai. Ở nghĩa thứ hai “trách nhiệm” được hiểu với nghĩa tiêu cực đó
chính là hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu khi có hành vi gây thiệt hại
hoặc vi phạm nghĩa vụ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn được hiểu theo
nghĩa thứ hai.“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của người có
hành vi vi phạm, có lỗi trong việc gây thiệt hại về vật chất, tinh thần phải bồi
hoàn cho người bị thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất tinh
thần cho người bị thiệt hại” [87, tr.799]. Như vậy, khi nói bồi thường thiệt hại là
nói đến một hình thức của trách nhiệm dân sự, cịn nói trách nhiệm bồi thường
thiệt hại là nói đến hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể gây thiệt hại phải bồi
thường khi gây thiệt hại, hay nói cách khác bồi thường thiệt hại còn được gọi là
trách nhiệm dân sự khi gây thiệt hại.
Trong khoa học pháp lý, căn cứ trên từng tiêu chí nhất định để phân định,
người ta phân loại rất nhiều loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại khác nhau.
Khái quát như sau:
Một là, căn cứ vào nguồn gốc phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Thứ nhất, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách
nhiệm dân sự mà theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây
ra thiệt hại cho người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất
mà mình gây ra. Nếu giữa hai bên khơng tồn tại một hợp đồng nào thì nếu có
thiệt hại xảy ra bao giờ cũng sẽ là những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng và

bên gây thiệt hại chỉ có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng. Chính vì vậy, bồi thường thiệt hại trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, hủy
bỏ hợp đồng và vi phạm đề nghị giao kết hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng bởi lẽ hợp đồng chưa được giao kết giữa các bên hoặc được coi là chưa
hề tồn tại; Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ phát sinh khi có
hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng tức là không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng gây ra; Chủ thể gây thiệt hại và người bị thiệt hại chính là
các bên trong quan hệ hợp đồng đó.

17


Thứ hai, Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một
loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp
luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra.
So với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng có một số khác biệt như sau: (1) Về cơ sở phát
sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại
trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định.(2) Về điều kiện
phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát
sinh khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện đó là: Có thiệt
hại xảy ra, có hành vi trái phát luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái
pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Tuy nhiên, bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng, do cơ sở phát sinh trách nhiệm là do các bên bên thoả thuận nên các bên
cũng có thể thoả thuận đặt ra các điều kiện phát sinh có thể khơng bao gồm đầy
đủ những điều kiện trên như bên vi phạm hợp đồng không có lỗi cũng vẫn phải
bồi thường thiệt hại… (3) Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp
luật thì cịn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên,

người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp
nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề…. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ có thể áp dụng đối với các bên tham gia hợp
đồng mà không thể áp dụng đối với người thứ ba. (4) Về mức bồi thường: Bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng về nguyên tắc là người gây thiệt hại phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Thiệt hại chỉ có thể được giảm trong một trường
hợp đặc biệt đó là người gây thiệt hại có lỗi vơ ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ. Còn đối với bồi thường thiệt
hại theo hợp đồng thì các bên có thoả thoả thuận ngay trong hợp đồng về mức
bồi thường bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức thiệt hại xảy ra và khi phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì mức bồi thường sẽ áp dụng mức do các bên
thoả thuận.

18


Việc phân biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặc biệt có ý nghĩa trong việc thực
hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt
hại theo hợp đồng nguyên đơn chỉ cần chứng minh thiệt hại là do người gây thiệt
hại đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng gây ra cịn trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng bên bị thiệt hại ngoài việc
chứng minh thiệt hại còn phải chứng minh hành vi gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật.
Một vấn đề được đặt ra là trong trường hợp một bên có nghĩa vụ theo hợp
đồng nhưng nghĩa vụ đó cũng được pháp luật quy định thì khi vi phạm những
nghĩa vụ đó sẽ phát sinh trách nhiệm theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng và người
bị thiệt hại có thể lựa chọn một trong hai loại trách nhiệm để kiện yêu cầu bồi
thường hay không? Theo tác giả, trong trường hợp các chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự đã cụ thể hoá những nghĩa vụ do pháp luật quy định vào trong

hợp đồng và thoả thuận đó có thể khác pháp luật thì pháp luật vẫn sẽ tơn trọng sự
thoả thuận của họ nếu thoả thuận đó là khơng vi phạm điều cấm của pháp luật,
khơng trái đạo đức xã hội. Chính vì vậy khi phát sinh trách nhiệm thì các bên
cũng chỉ có thể áp dụng một phương thức là kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
theo hợp đồng chứ không thể tự do lựa chọn phương thức có lợi nhất cho mình.
Ví dụ hành khách bị thiệt hại về tính mạng mà theo hợp đồng vận chuyển hành
khách các bên có thoả thuận mức bồi thường thấp hơn mức bồi thường do pháp
luật quy định về bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng trong trường hợp bị xâm
phạm về tính mạng thì bên bị thiệt hại cũng chỉ có thể yêu cầu bồi thường theo
hợp đồng mà thôi.
Hai là, căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại xảy ra mà
trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân thành trách nhiệm bồi thường thiệt
hại vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần. (1) Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bồi thường tổn thất vật chất thực tế
được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí
hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc
giảm sút. (2) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần được hiểu là người

19


gây thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngồi việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,
cải chính cơng khai cịn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất
về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, lòng đau thương…
Ba là, căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại phân thành trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra. (1) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con
người gây ra được hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại
xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi của con người gây ra. Trường hợp này người

gây thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động và
hành vi đó chính là ngun nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. (2) Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi
tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm cao
độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà cơng trình xây dựng bị sụt,
đổ gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại…
Bốn là, căn cứ vào mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các chủ thể của
trách nhiệm bồi thường thiệt hại phân thành trách nhiệm liên đới và trách nhiệm
riêng rẽ. (1) Bồi thường thiệt hại liên đới được hiểu là trách nhiệm nhiều người
mà theo đó thì mỗi người trong số những người có trách nhiệm phải chịu trách
nhiệm đối với tồn bộ thiệt hại và mỗi người trong số những người có quyền đều
có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải bồi thường tồn bộ cho mình. (2) Bồi
thường thiệt hại riêng rẽ là trách nhiệm nhiều người mà theo đó thì mỗi người có
trách nhiệm chỉ phải chịu trách nhiệm đối với phần thiệt hại do mình gây ra và
mỗi người trong số những người có quyền cũng chỉ có quyền yêu cầu người gây
thiệt hại bồi thường những tổn thất mà mình phải gánh chịu.
Năm là, căn cứ vào yếu tố lỗi và mức độ lỗi của cả người gây thiệt hại và
người bị thiệt hại phân thành trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập. (1)
Trách nhiệm hỗn hợp là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người
gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi. (2) Trách nhiệm độc lập là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại mà người bị thiệt hại là người hồn tồn khơng có lỗi.

20


Sáu là, căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phân thành
trách nhiệm bồi thường của cá nhân, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của pháp
nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước. (1) Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của cá nhân được hiểu là trách nhiệm dân sự mà theo đó thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cá nhân người gây thiệt hại hoặc đại

diện theo pháp luật của người đó như cha mẹ, người giám hộ; (2) Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại pháp nhân và các tổ chức khác được hiểu là trách nhiệm dân
sự phát sinh cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác trong trường hợp người của
pháp nhân và các tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân
hoặc tổ chức giao cho; (3) Trách nhiệm bồi thường Nhà nước được hiểu là khi
cán bộ, công chức gây thiệt hại thuộc phạm vi bồi thường Nhà nước thì Nhà
nước phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại chứ không phải chính cán
bộ cơng chức hay cơ quan quản lý cán bộ công chức phải bồi thường.
Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của LCC, được
Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng [60, Khoản 2 Điều 2]
và khi vi phạm quy định của LCC thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật [60, Điều 71].
Từ đó có thể hiểu khái niệm “trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công
chứng viên trong hoạt động công chứng là một hình thức của trách nhiệm dân sự
buộc cơng chứng viên trong khi thực hiện hoạt động cơng chứng có lỗi gây thiệt
hại thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra”.
1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chứng
viên trong hoạt động công chứng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động công chứng có
thể thuộc trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, có thể
thuộc trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng, nên nó vừa
mang những đặc điểm chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng
hoặc ngồi hợp đồng (như: có hành vi trái pháp luật hoặc hành vi vi phạm hợp
đồng, có thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái
pháp luật/hành vi vi phạm hợp đồng, có lỗi (hoặc khơng có lỗi nếu pháp luật có

21



quy định), ngồi ra nó cịn có một số đặc điểm đặc thù của hoạt động công chứng
sau:
Thứ nhất, chủ thể gây thiệt hại phải là CCV và CCV phải gây thiệt hại
trong khi hoạt động nghề công chứng. Nếu CCV gây thiệt hại trong khi không
hoạt động nghề công chứng thì sẽ bị điều chỉnh bởi các các quy định của pháp
luật tương ứng khác;
Thứ hai, hành vi trái pháp luật của CCV trước hết phải được xem xét là
hành vi trái với quy định của LCC và Quy tắc đạo đức nghề công chứng; Hoặc
hành vi vi phạm hợp đồng của CCV là hành vi vi phạm hợp đồng dịch vụ do
CCV, tổ chức hành nghề công chứng đã ký kết với người yêu cầu công chứng
hoặc CCV có lỗi do sơ suất của CCV trong việc tư vấn cho các bên về vấn đề cần
công chứng làm thất lạc giấy tờ cần công chứng, làm thất lạc hồ sơ, giấy tờ của
khách hàng, giao thiếu hồ sơ tài liệu, số bản gốc được công chứng, chậm trễ
trong việc thực hiện nghĩa vụ;
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV là trách nhiệm bồi
thường được bảo hiểm. BHTNNN của CCV là bảo hiểm bắt buộc;
Thứ tư, bồi thường thiệt hại bao gồm thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt
hại do sức khoẻ bị xâm phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Trong khi đó cơng chứng là “việc cơng
chứng viên của một tổ chức hành nghề cơng chứng chứng nhận tính xác thực,
tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự bằng văn bản, tính chính xác, hợp
pháp khơng trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang
tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt” [60, khoản 1, Điều
2]. Hợp đồng, giao dịch có đối tượng là tài sản hoặc quan hệ nhân thân mang tính
chất tài sản như: quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ…do đó đối tượng bị xâm
phạm trong hoạt động cơng chứng của CCV có thể là tài sản, quan hệ nhân thân
mang tính chất tài sản.
1.1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công
chứng viên trong hoạt động công chứng
Sau khi đối chiếu các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của

CCV, trình tự, thủ tục thực hiện công chứng được ghi nhận tại LCC, chúng ta

22


thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động cơng chứng có
thể được nhìn nhận như sau: [82, tr.28-36]
Một là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về tinh thần. Do hoạt động công chứng luôn gắn liền, đi đôi với các hợp
đồng giao dịch dân sự … [60, Điều 2] nên thiệt hại vật chất xảy ra trong hoạt
động cơng chứng là điều dễ hiểu. Tuy có hay khơng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về tình thần trong hoạt động công chứng hiện nay vẫn là câu hỏi chưa có
trả lời thỏa đáng. Và hiện nay có hai luồng quan điểm về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về tinh thần trong hoạt động công chứng. Quan điểm thứ nhất, cho rằng
không tồn tại thiệt hại về tinh thần trong hoạt động công chứng trong khi quan
điểm thứ hai khẳng định điều ngược lại. Từ khái niệm đã nêu ở mục 1.1.1 về
thiệt hại tinh thần cũng như xuất phát từ thực tiễn, tác giả nghiêng về quan điểm
thứ nhất.
Hai là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Với khái niệm về công
chứng “là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề cơng chứng chứng
nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn
bản, tính chính xác, hợp pháp, khơng trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ,
văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng
Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng.” [60, Khoản 1 Điều 2] “. Chúng ta có thể khẳng
định rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV trong hoạt động cơng chứng
chỉ có thể là thiệt hại do hành vi của con người gây ra. Thiệt hại của người bị hại
là do do hành vi trái pháp luật của CCV gây ra.
Ba là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới và trách nhiệm bồi thường

thiệt hại riêng rẽ. Từ những khái niệm đã nêu ở phần trên thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của CCV có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới và
cũng có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại riêng rẽ. Trường hợp chủ thể gây
ra thiệt hại cho người yêu cầu công chứng, cá nhân, tổ chức khác bao gồm CCV
và “người khác” thì đây thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên đới. Trường

23


hợp chủ thể gây ra thiệt hại cho người yêu cầu cơng chứng, cá nhân, tổ chức khác
chỉ có CCV thì thì đây thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại riêng lẻ.
Bốn là, trách nhiệm hỗn hợp và trách nhiệm độc lập. Trách nhiệm hỗn hợp
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại đều có lỗi. Trách nhiệm độc lập là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà
người bị thiệt hại là người hồn tồn khơng có lỗi. Từ cách thức lấy yếu tố lỗi là
làm tiêu chí phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như trình tự, thủ tục
công chứng, tác giả thấy rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CCV hồn
tồn có thể là trách nhiệm hỗn hợp hay trách nhiệm độc lập.
Năm là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại Nhà nước. Có thể thấy rằng cách thức phân biệt trách nhiệm bồi thường
thiệt hại lấy chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại làm tiêu chí xác định
hiện đang tồn tại một cách rất rõ trong lĩnh vực công chứng. Cụ thể là có cả trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước hiện hữu trong
hoạt động công chứng. Căn cứ vào khoản 1 Điều 38, Điều 71, Điều 72 LCC
2014, chúng ta thấy rõ sự tồn tại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
CCV, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức hành nghề công chứng và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại Nhà nước (do có sự tồn tại của PCC của nhà
nước).

Sáu là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Để xem xét bồi thường thiệt hại của CCV là bồi
thường thiệt hại theo hợp đồng hay bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chúng ta
chỉ có thể xác định được khi xem xét về bản chất của hoạt động công chứng theo
quy định của p háp luật Việt Nam:
Hoạt động công chứng ở Việt Nam trước năm 2006 (trước khi LCC năm
2006 có hiệu lực thi hành) ln mang tính hành chính Nhà nước, cơng chứng
viên là công chức [83, Khoản 3 điều 1] hoạt động của công chứng viên được xem
là hoạt động công vụ. Khi LCC năm 2006 có hiệu lực đã xuất hiện loại hình
VPCC là doanh nghiệp tư nhân hoặc cơng ty hợp danh [48,, khoản 1 Điều 26],

24


còn PCC là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp [48, Khoản 2 điều 24] [60, khoản
2 điều 19]. Các tổ chức hành nghề công chứng được xác định là một loại dịch vụ
công [71]. Trước năm 2006 công chứng viên chỉ có thể là cơng chức, nhưng sau
năm 2006 cơng chứng viên vừa có thể là cơng chức đối với công chứng viên là
Trưởng PCC [50, Khoản 2 điều 4] [60, Khoản 2 Điều 19] vừa là viên chức [53,
Điều 2] đối với công chứng viên làm việc tại các PCC và công chứng viên với tư
cách là chủ doanh nghiệp, người lao động trong các VPCC. Tính chất của hoạt
động cơng chứng đã chuyển từ “hành chính Nhà nước” sang “dịch vụ cơng”.
Hiện nay, có hai loại “chủ thể” có thể bị cơng chứng viên gây thiệt hại đó là
người u cầu cơng chứng và người thứ ba (cá nhân, tổ chức khác) (khoản 1
Điều 38 LCC năm 2014). Đối với hai loại chủ thể này việc bồi thường thiệt hại là
khác nhau, cụ thể như sau:
Thứ nhất, “bồi thường thiệt hại cho người thứ ba (cá nhân, tổ chức khác)”
thì rõ ràng đây là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng [21, tr.165];
Thứ hai, “bồi thường thiệt hại cho người u cầu cơng chứng” thì hiện nay
còn tồn tại các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất, cho rằng trách nhiệm

bồi thường thiệt hại của công chứng viên đối với người yêu cầu công chứng là
trách nhiệm bồi thường theo hợp đồng vì giữa cơng chứng viên và người yêu cầu
công chứng “tồn tại một hợp đồng dịch vụ và thiệt hại (nếu có) phát sinh từ việc
công chứng viên thực hiện hợp đồng” [21, tr.165]. Cùng quan điểm nêu trên
nhưng lại có cách giải thích khác khi cho rằng “dù giữa cơng chứng viên và
người yêu cầu công chứng không hề tồn tại một bản hợp đồng cụ thể nào nhưng
khi đứng ra cung cấp dịch vụ công chứng theo đề nghị của người u cầu cơng
chứng, có vẻ cơng chứng viên đã mặc nhiên giao kết một bản hợp đồng theo
những điều khoản, điều kiện đã được quy ước” [82, tr.29]. Quan điểm thứ hai,
cho rằng đây là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng bởi “khi cơng
chứng viên giải quyết một yêu cầu công chứng cụ thể, người yêu cầu công chứng
với công chứng viên hay tổ chức hành nghề công chứng không phải giao kết với
nhau bất kỳ một hợp đồng nào dưới dạng hợp đồng cung cấp dịch vụ” [82, tr.28].
Theo tác giả, như đã phân tích ở mục 1.1.1 về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng và bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì để xác định bồi thường thiệt

25


×