Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm của khái niệm trong tư duy chính xác, tư duy biện chứng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.48 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>V</b>

<b>A</b>



Tư duy chính xác là đối tượng của logic học
hình thức; tư duy biện chứng là đối tượng của
logic học biện chứng; Khái niệm là một hình
thức cơ bản của tư duy. Vậy khái niệm trong
tư duy chính xác (tương ứng trong logic hình
thức) với khái niệm trong tư duy biện chứng
(tương ứng trong logic biện chứng) có quan
hệ với nhau như thế nào ?


<b>1. Khái niệm trong tư duy chính xác khơng </b>


vạch ra được mâu thuẫn nội tại của sự vật, hiện
tượng. Nó xem xét sự vật hiện tượng trong tính
“đồng nhất trừu tượng”. Trái lại, trong tư duy
biện chứng, khái niệm vạch ra sự thống nhất
của những mặt đối lập. Khái niệm trong tư duy


chính xác có tính chất bền vững, tách rời sự
phát triển và biến hóa của sự vật. Trong q
trình phản ánh của tư duy chính xác sự vật gạt
bỏ một cách trừu tượng ra khỏi quá trình vận
động, phát triển của bản thân nó và được nhận
thức trong trạng thái “nó là nó”, nghĩa là khơng
có sự vận động, biến đổi, phát triển. Về vấn đề
<i>này F.Enghen đã nhận xét: “Khi chúng ta nói </i>


<i>về những phạm vi nhỏ bé hay quãng thời gian </i>
<i>ngắn, giới hạn tác dụng của nó cũng khác nhau </i>
<i>đối với từng trường hợp và tùy theo bản chất của </i>


<i>đối tượng” (5, tr.46). Ở đây xuất hiện một trong </i>


những vấn đề quan trọng nhất, đó là vấn đề về
mối tương quan giữa cái phố biển và cái đơn
nhất trong khái niệm.


<b>ĐẶC ĐIỂM CỦA KHÁI NIỆM TRONG </b>



<b>TƯ DUY CHÍNH XÁC VÀ TƯ DUY BIỆN CHỨNG</b>



<b>NGUYỄN MẠNH CƯƠNG</b>


<b>Tóm tắt</b>


<i>Có thể nói rằng khái niệm giống như những viên gạch để xây dựng nên tòa lâu đài tri thức của con </i>
<i>người về thế giới. Nhận thức của con người là nắm bắt được quy luật vận động, phát triển của thế giới </i>
<i>khách quan và vận dụng vào thực tiễn (trên cơ sở tuân theo quy luật) để cải tạo, biến đổi thế giới theo </i>
<i>mục đích của mình. Khái niệm trong tư duy chính xác và trong tư duy biện chứng có mối quan hệ chặt </i>
<i>chẽ, hữu cơ với nhau. Đặc điểm quan trọng nhất của khái niệm trong tư duy biện chứng là sự vận động, </i>
<i>biến đổi và nội hàm ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hơn. Bài viết sẽ nêu lên một số ý kiến về vấn đề này.</i>


<b>Từ khóa: Tư duy chính xác, tư duy biện chứng.</b>


<b>Abstract</b>


<i>It can be said that concepts are similar to bricks used to build a palace of knowledge of humans </i>
<i>about the world. Humans’ cognition is to grasp the movement and development rules of the objective </i>
<i>world and apply that they have grasped into practices (on the basis of complying with the rules) to </i>
<i>improve and change the world by their purposes. The concepts in accurate thinking and dialectic </i>
<i>thinking have their close, organic relationships. The most important characteristics of the concepts in </i>


<i>the dialectic thinking is the movement, change and more and more sufficient and perfect connotation. </i>
<i>This article will give some ideas about this issue.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



Bản chất của sự vật và cả sự phản ánh bản
chất ấy trong tư tưởng là lĩnh vực của những
mâu thuẫn biện chứng. Diễn tả được bản chất
của sự vật có nghĩa là đã nhận thức được mâu
thuẫn nội tại của sự vật, vì mâu thuẫn là nguồn
gốc của phát triển. Những đặc điểm phổ biến
là những đặc điểm giống nhau giữa các sự vật.
Muốn tạo ra khái niệm phổ biến thì phải tước
bỏ, tách rời những đặc điểm nào mà chỉ hiện
tượng đơn nhất mới có và giữ lại những đặc
điểm chung cho tất cả hiện tượng cùng loại.
Theo phương thức khái quát đó, cái phổ biến
mâu thuẫn với cái đơn nhất. Những hiện tượng
đơn nhất thì mn vẻ. Tư duy chính xác sử
dụng khái niệm như là sự tổng hợp từ những
đặc điểm, thuộc tính, cịn về mối quan hệ lẫn
nhau giữa cái phổ biến và cái đơn nhất thì lại
khơng quan tâm. Tư duy chính xác chỉ thấy
những đặc điểm và thuộc tính nào thì thuộc
khái niệm này, cịn những đặc điểm và thuộc
tính nào thì thuộc khái niệm khác. Do đó đối
với tư duy chính xác, điều quan trọng khơng
phải là phép biện chứng của cái phổ biến và
cái đơn nhất mà là sự khác nhau giữa các khái
niệm. Heghen gọi những khái niệm kiểu đó là


“những phổ biến trừu tượng” vì cái phổ biến và
cái đơn nhất khơng liên hệ gì với nhau, khơng
phải là sự thống nhất của các mặt đối lập. Cái
phổ biến đối lập với thế giới muôn vẻ của
những hiện tượng đơn nhất, chứ không bao
gồm thế giới đó vào bên trong mình một cách
biện chứng. Heghen chỉ ra rằng trong trường
hợp đó tất cả tính mn vẻ đứng ngồi khái
niệm và chỉ có hình thức phổ biến trừu tượng
là nằm trong khái niệm.


Trong tư duy biện chứng, theo quan niệm
của Hêghen, cái phổ biến và cái đơn nhất đối
lập nhau không phải như những cái tuyệt đối.
Ông cho rằng cái phổ biến nào mà “khơng có
cái đơn nhất ở bên trong lịng mình” thì xa lạ
đối với khái niệm. Khái niệm là cái phổ biến
cụ thể, tức là cái phổ biến thể hiện bản chất
của hiện tượng, chứa đựng bên trong mình
tính phong phú của cái đơn nhất, do đó nó có
tính chất cụ thể. Sự trừu tượng của khái niệm


không phải là sự trừu tượng trống rỗng, không
phải là cái phổ biến khơng có nội dung mà là
cái phổ biến đầy nội dung. Trong khi phê phán
việc tuyệt đối hóa một cách siêu hình sự khác
nhau giữa cái phổ biến và cái đơn nhất của
Căng, Hêghen cũng bác bỏ nhân tố duy vật
trong quan điểm của Căng và cho rằng những
khái niệm khơng có nội dung trực quan cụ thể


là những khái niệm trống rỗng. Ơng cũng cho
rằng khái niệm khơng phải là một cái gì đó
tuyệt đối, như vậy nó chứa đựng ở bên trong
nó cái đơn nhất, nghĩa là trong quá trình vận
động của mình, khái niệm sinh ra cái đơn nhất.


Hêghen đã có mặt tích cực trong việc
nghiên cứu khái niệm nhưng lại trên lập
<i>trường duy tâm. Trong “Bút ký triết học” </i>
V.I.Lênin khi dẫn ra quan niệm của Hê ghen
<i>rằng: “Cái phổ biến bao hàm cả sự phong phú </i>


<i>của cái đặc thù“ (1, tr.108) và đã nhận xét là </i>


<i>quan điểm đó rất hay. Người viết: “Không phải </i>


<i>chỉ là cái phổ biến trừu tượng, mà là cái phổ biến </i>
<i>bao hàm cả sự phong phú của cái đặc thù, cái </i>
<i>cá thể, cái cá biệt” (tất cả sự phong phú của cái </i>
<i>đặc thù và cái cá biệt)! rất hay!” (1, tr.108). Ở chỗ </i>


khác Lê nin đã nhấn mạnh về sự gia nhập lẫn
nhau có tính chất biện chứng của cái chung và
<i>cái riêng. Lê nin viết: “Bất cứ cái riêng nào cũng </i>


<i>là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là (một </i>
<i>bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất) của </i>
<i>cái riêng” (1, tr.381).</i>


Như vậy, khái niệm trong tư duy biện


chứng không phải là “tổng cộng những đặc
điểm giống nhau” mà cần phải hiểu nó là sự
thống nhất cụ thể của cái chung và cái riêng.
Sự thống nhất của cái chung với cái riêng
trong các khái niệm giải thích ý nghĩa của các
khái niệm với tính cách là những điểm nút để
tái sản sinh trong tư duy những mối quan hệ
và quan hệ căn bản của các hiện tượng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>V</b>

<b>A</b>



mâu thuẫn với việc cho rằng cái phổ biến thể
hiện tính chất phong phú của cái riêng lẻ, tính
mn vẻ của cái đơn nhất khơng tồn tại ở
ngồi cái phổ biến.


Nói cái phổ biến và cái đơn nhất là những
mặt đối lập thống nhất với nhau trong khái
niệm nhưng không thể không nhắc tới mâu
thuẫn của chúng. Việc thừa nhận điều đó có ý
nghĩa rất quan trọng đối với nhận thức. Khái
niệm là biểu hiện tập trung của bản chất của
cái đơn nhất trong tư duy. Vì cái phổ biến là
khái quát cái đơn nhất, cho nên cần phải chú
ý đến nhân tố mâu thuẫn giữa cái phổ biến và
cái đơn nhất.


Như vậy, khái niệm được sử dụng trong tư
duy biện chứng là sự thống nhất của những
mặt đối lập, giữa cái phổ biến với cái đơn nhất


và cũng bao hàm mâu thuẫn giữa chúng. Nếu
là cái phổ biến thì khái niệm biểu hiện bản chất
của cái đơn nhất, cái riêng lẻ và theo ý nghĩa đó
cái chung là biểu hiện bản chất của cái riêng.
Nếu khái niệm thể hiện tính chất phong phú
của cái đơn nhất, đi từ đơn nhất đến phổ biến
thì khái niệm khơng phải chỉ biểu hiện những
đặc điểm chung của cái đơn nhất mà còn biểu
hiện cái bản chất, quy luật của cái đơn nhất và
theo ý nghĩa đó, cái đơn nhất thống nhất với
cái phổ biến.


<b>2. Chúng ta thấy rằng tư duy chính xác sử </b>


dụng khái niệm một cách cố định, còn tư duy
biện chứng sử dụng khái niệm một cách mềm
dẻo. Tư duy chính xác sử dụng những khái
niệm có nội dung xác định, chặt chẽ, đặt khái
niệm này bên cạnh khái niệm kia và không chú
ý đến các vấn đề về nguồn gốc và sự phát triển
của các khái niệm, về sự chuyển hóa từ khái
niệm này sang khái niệm khác. Tư duy chính
xác là đối tượng nghiên cứu của logic học
hình thức, do đó trong logic hình thức, đã hình
thành một số nguyên tắc về định nghĩa khái
niệm, phân chia khái niệm, thu hẹp, mở rộng
khái niệm, về mối quan hệ giữa nội hàm và


không thể phân chia, sắp xếp khái niệm, giải
thích mối quan hệ giữa chúng với nhau... và


do đó khơng thể sử dụng một cách dễ dàng
các khái niệm. Mặt khác các thao tác logic xử
lý khái niệm có một ý nghĩa quan trọng với
ngành khoa học nào có nhiệm vụ sắp xếp các
hiện tượng khác nhau, ví dụ như thực vật học,
động vật học v.v... Bất cứ một khoa học nào, dù
có sử dụng những khái niệm phức tạp đến đâu
cũng không thể bỏ qua được những khái niệm
cơ bản nhưng rất cần thiết cho việc nhận thức.
Theo Lênin, trong quá trình nhận thức thế giới
khách quan, các phạm trù là những bậc thang
<i>của quá trình nhận thức. Người viết: “Trước con </i>


<i>người có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. </i>
<i>Người có ý thức tự tách khỏi giới tự nhiên, những </i>
<i>phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, </i>
<i>tức là của sự nhận thức thế giới, chúng là những </i>
<i>điểm nút của màng lưới giúp ta nhận thức và </i>
<i>nắm vững được màng lưới” (1, tr.102). Là kết quả </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>V</b>

Ă N HĨ

<b>A</b>



tạo nên những điểm nút đó có nội dung xác
định, đồng thời nối liền tất cả những phán
đoán và kết luận khoa học thành một khối, làm
cho bản thân khoa học có khả năng tồn tại và
giúp cho con người có thể nhận thức được thế
giới khách quan. Vật lý học hiện đại sẽ ra sao
nếu khơng có những khái niệm cơ bản như
vật chất, khối lượng, năng lượng, nguyên tử,


hạt, nguyên tố và nhiều khái niệm khác nữa.
Do những khái niệm được tư duy chính xác
sử dụng có một nội dung xác định nên tư duy
chính xác chỉ chú trọng đến số lượng dấu hiệu
bao gồm trong khái niệm, ngoại diên của khái
niệm (rộng hay hẹp), mối tương quan giữa
những khái niệm (thuộc giống hay loài) về mặt
số lượng đặc điểm mà chúng phản ánh. Mỗi
một khái niệm đúng đắn trong tư duy chính
xác bao gồm có hai mặt: nội hàm và ngoại
diên. Mối tương quan giữa hai mặt đó là mối
tương quan nghịch biến. Khi nội hàm của khái
niệm càng sâu, những dấu hiệu hiểu biết chứa
trong khái niệm đó càng nhiều thì ngoại diên
của khái niệm càng hẹp, những đối tượng có
chứa dấu hiệu đó càng ít đi và ngược lại. Mối
quan hệ nghịch biến giữa nội hàm và ngoại
diên của một khái niệm chỉ có trong các khái
niệm mà tư duy chính xác sử dụng, khái niệm
trong tư duy biện chứng không tuân theo quy
luật nghịch biến này.


Tư duy biện chứng vận dụng những khái
niệm trong quá trình vận động, phát triển
của chúng. Dựa vào một số khái niệm đã có,
tư duy nhờ những phán đốn, suy lý và những
phương tiện khác, có thể tạo ra những khái
niệm và quy luật mới, vạch ra những mặt và
những thuộc tính mới của sự vật, hiện tượng.
Tính mềm dẻo của khái niệm trong tư duy biện


chứng thể hiện ở sự liên hệ, quy định lẫn nhau
giữa các khái niệm. Nội dung của các khái
niệm có thể thay đổi, nó có thể bị gạt bỏ đi
những phần khơng cịn phù hợp, khơng cịn
phản ánh đúng thế giới khách quan, đồng
thời nó có thể được bổ sung những nội dung
mới đáp ứng yêu cần phản ánh đúng đắn hơn,
đầy đủ hơn về thế giới. Sự gạt bỏ và bổ sung


này liên quan đến tính lịch sử cụ thể của đối
tượng. Tư duy biện chứng sử dụng khái niệm
không phải theo cách siêu hình. Nó khơng coi
khái niệm là cái gì chết cứng, không biến đổi.
Lê nin đã vạch ra rằng khái niệm cần phải linh
hoạt, mềm dẻo, tương đối, thống nhất trong
các mặt đối lập, bởi vì có như vậy, nó mới có
thể bao quát được thế giới, phản ánh đúng
<i>đắn thế giới. Người viết: “Những khái niệm này </i>


<i>cũng phải được mài sắc, gọt giũa, mềm dẻo, </i>
<i>năng động, tương đối, liên hệ với nhau, thống </i>
<i>nhất trong những mặt đối lập để có thể bao </i>
<i>quát vũ trụ” (1, tr.267). Các khái niệm khoa học </i>


là sự phản ánh (đúng đắn ít nhiều) bản chất
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật
chất. Do bản chất của nó, những khái niệm ấy
có tính chất mâu thuẫn biện chứng bao hàm
trong nó sự thống nhất của những mặt đối lập.
Những sự vật và hiện tượng của thế giới vật


chất ln trong q trình vận động, phát triển
khơng ngừng. Trong quá trình đấu tranh giữa
các mặt đối lập ở bên trong, cuối cùng chúng
có thể biến đổi, trở thành mặt đối lập với chính
mình, các mặt đối lập mới có thể xuất hiện
thay thế cho các mặt đối lập đã lỗi thời. Tính
mềm dẻo của khái niệm còn được quy định
ở chỗ, trong khi khơng ngừng làm cho nhận
thức của mình thêm sâu sắc và hoàn thiện,
con người hoàn thiện cả những khái niệm
khoa học, làm cho nó phù hợp với những hiểu
biết mới về sự vật, hiện tượng hoặc làm cho nó
phù hợp với những biến đổi xảy ra đối với các
sự vật trong quá trình phát triển hơn nữa của
nó. Khi áp dụng tính mềm dẻo biện chứng của
khái niệm, phải xem xét đến nội dung khách
quan của nó. Nếu áp dụng một cách chủ quan
tùy tiện sẽ rơi vào ngụy biện, chiết trung. V.I.Lê
<i>nin viết: “Những khái niệm của con người là chủ </i>


<i>quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự </i>
<i>tách rời của chúng, nhưng là khách quan trong </i>
<i>chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong </i>
<i>khuynh hướng, trong nguồn gốc” (1, tr.223).</i>


<b>3. Khái niệm trong tư duy chính xác được </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>V</b>

<b>A</b>



Khái niệm trong tư duy chính xác được xem


như là tổng số các đặc điểm (dấu hiệu) của sự
vật hiện tượng. Vì vậy tư duy chính xác sử dụng
các khái niệm có tính chất ổn định, bền vững.
Tư duy chính xác sử dụng các khái niệm có nội
dung xác định, nghĩa là các khái niệm đó phản
ánh sự vật trong trạng thái đứng im tương đối,
khi sự vật vẫn còn là nó mà chưa chuyển thành
cái khác.


Trái lại, tư duy biện chứng sử dụng các khái
niệm trong mối liên hệ mật thiết giữa tính ổn
định và tính biến đổi. Khái niệm trong tư duy
biện chứng có tính chất động vì nó là hình
ảnh, là sự phản ánh thế giới khách quan. Mà
thế giới khách quan nằm trong q trình vận
động, biến đổi khơng ngừng, do đó khái niệm
cũng phải có sự vận động, phát triển để có thể
phản ánh đúng đắn thế giới khách quan. Khi
nghiên cứu “khoa học logic” của Hêghen, Lênin
đã đặt nó trên quan điểm của chủ nghĩa duy
<i>vật. Người viết: “Trong sự thay thế phụ thuộc </i>


<i>lẫn nhau của tất cả các khái niệm, trong tính </i>
<i>đồng nhất của các mặt đối lập của chúng, trong </i>
<i>những chuyển hóa của một khái niệm này sang </i>
<i>khái niệm khác trong sự thay thế, sự vận động </i>
<i>vĩnh viễn của những khái niệm, Hê ghen đã đốn </i>
<i>được một cách tài tình chính mối quan hệ như </i>
<i>vậy của sự vật, của giới tự nhiên” (1, tr.210). Để </i>



thấy được khái niệm trong tư duy biện chứng
có mối liên hệ giữa tính ổn định và tính biến
hóa cần phải chú ý những điểm sau đây:


- Các sự vật, hiện tượng của thế giới khách
quan vừa có tính biến hóa, vừa có tính ổn định,
nằm trong sự thống nhất giữa tính ổn định và
tính biến hóa. Vì vậy khái niệm, để phản ánh
được hiện thực, cũng phải vừa có tính ổn định
vừa có tính biến hóa.


- Tính ổn định và tính biến hóa là những
mặt đối lập của sự vật hiện tượng, có sự đấu
tranh với nhau. Mâu thuẫn được giải quyết,
chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Các khái niệm
cũng phải phản ánh được tính mâu thuẫn đó.


- Khái niệm là cái phổ biến, là biểu hiện bản
chất của các sự vật riêng lẻ, nên nó có sự ổn


vì cái đơn nhất, không phải là cái phổ biến trực
tiếp và cũng vì cái phổ biến tồn tại dưới hình
thức phát triển, dưới hình thức thay đổi của
những hiện tượng riêng lẻ, đa dạng.


- Việc coi khái niệm là sự thống nhất của
những mặt đối lập, có tính ổn định và tính biến
hóa cịn có ý nghĩa khác sâu sắc hơn.


Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng đều


có hai mặt nội dung và hình thức thống nhất
biện chứng với nhau. Tư duy là hiện tượng đặc
biệt cũng phải tuân theo quy luật của phép
biện chứng. Một mặt khơng thể có tư tưởng tri
thức nếu nó khơng được diễn tả một cách xác
định (có tính ổn định) trong khái niệm, phán
đốn hay trong một hình thức tư duy khác.
Mặt khác, những hình thức của tư duy khơng
<i>thể khơng có nội dung. “Những hình thức logic </i>


<i>và những quy luật logic không phải là cái vỏ </i>
<i>trống rỗng mà là phản ánh của thế giới khách </i>
<i>quan” (1, tr.191). Sự thống nhất giữa nội dung </i>


và hình thức của tư duy, có tính mâu thuẫn. Khi
nội dung thay đổi địi hỏi hình thức cũng phải
thay đổi cho phù hợp với nội dung mới. Nhận
thức là quá trình biểu hiện nội dung khách
quan của các sự vật hiện tượng. Nội dung
tri thức của chúng ta về thế giới khách quan
không ngừng thay đổi và hồn thiện thêm.
Trong q trình của sự phát triển đó, một số
khái niệm mâu thuẫn với nội dung mới của tri
thức. Để giải quyết những mâu thuẫn này, khái
niệm cũng phải phát triển để phù hợp với nội
dung mới đó.


<b>4. Khái niệm trong tư duy chính xác mang </b>


tính phi lịch sử. Khái niệm trong tư duy biện


chứng mang tính lịch sử-cụ thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>V</b>

Ă N HÓ

<b>A</b>



thể của sự vật mà nó phản ánh. Ví dụ, tư duy
chính xác sử dụng khái niệm “ khối lượng”
thì khối lượng của một vật không bị thay đổi
trong mọi trường hợp, nhưng thực chất là nói
khối lượng của vật đó trong trạng thái đứng im
tương đối hoặc chuyển động với vận tốc nhỏ,
không đáng kể so với vận tốc của ánh sáng
(tức trong hệ quy chiếu cơ học cổ điển). Thực
ra khi chuyển động với vận tốc nhỏ không
đáng kể so với vận tốc ánh sáng, khối lượng
của vật thay đổi nhưng rất nhỏ nên có thể bỏ
qua. Khi vật chuyển động với vận tốc lớn thì
lúc đó khối lượng của vật sẽ lớn hơn rất nhiều
so với khối lượng ban đầu của nó. Khối lượng
của vật tăng tỷ lệ thuận với vận tốc chuyển
động của vật đó. Nếu vẫn quan niệm rằng khối
lượng của vật không thay đổi, tư duy phản ánh
sự vật khơng cịn đúng nữa.


Tư duy biện chứng sử dụng khái niệm
mang tính lịch sử- cụ thể. Chúng ta biết rằng,
để phản ánh được đúng đắn đối tượng, cần
phải nhận thức nó trong điều kiện lịch sử- cụ
thể. Chính vì vậy, khái niệm cũng có tính lịch
sử- cụ thể. Ta hãy lấy một ví dụ: khái niệm “nhà
nước”. Có thể nêu hàng loạt các đặc điểm mà


vẫn khơng thể giải thích được bản chất của
hiện tượng đó. Những đặc điểm như giữ gìn
trật tự, đảm bảo an tồn cho cơng dân... qui
định nhà nước là một cơ quan giữ gìn trật tự và
đảm bảo an tồn cho cơng dân. Mặc dù những
đặc điểm ấy là đặc trưng cho nhà nước nhưng
khơng giải thích đúng đắn bản chất nhà nước.
Nhà nước là một bộ máy quyền dùng để trấn
áp của một giai cấp này đối với một giai cấp
khác, nhà nước là biểu hiện của mâu thuẫn
giai cấp khơng thể điều hịa được... Muốn hiểu
được những đặc điểm nói trên của khái niệm
nhà nước, xem cái nào là căn bản, cái nào là
không căn bản thì cần phải xem xét nhà nước
theo quan điểm lịch sử: Nghiên cứu xem nó
xuất hiện từ bao giờ? Khi nào chúng ta thấy rõ
nhà nước không bao giờ cũng tồn tại? Trong
xã hội nguyên thủy khơng có nhà nước, nhà
nước chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
giai cấp. Khi sự phân chia giai cấp trong xã hội
khơng cịn nữa thì nhà nước cũng mất đi.


Tư duy biện chứng sử dụng các khái niệm
cùng phản ánh một sự vật, hiện tượng song
có thể có nội dung khác nhau tùy vào hoàn
ảnh lịch sử-cụ thể mà sự vật hiện tượng được
nghiên cứu, tùy vào sự thay đổi của những mối
quan hệ của sự vật, hiện tượng đương nghiên
cứu với những sự vật, hiện tượng khác. Với ý
nghĩa đó, khái niệm có tính chất lịch sử- cụ


thể là do nó chứa đựng những nội dụng khác
nhau của sự phản ánh sự vật, hiện tượng trong
những hoàn cảnh khác nhau.


Mỗi sự vật nằm trong mối liên hệ với những
sự vật khác. Trong những mối liên hệ và quan
hệ đó, sự vật được thể hiện ở từng hoàn cảnh
khác nhau. Các khái niệm phản ánh sự vật
cũng phải có nội dung thay đổi tùy theo sự
thay đổi của những mối liên hệ và quan hệ
giữa sự vật đó với những sự vật khác để có thể
phản ánh đúng đắn nó. Nhờ có những khái
niệm mang tính lịch sử- cụ thể như vậy, tư duy
mới có khả năng phản ánh những thuộc tính
phức tạp và vơ tận của các hiện tượng và q
trình nhận thức.


<i>N.M.C</i>
<i>(ThS, Khoa LLCT & KHCB)</i>


<b>Tài liệu tham khảo</b>


<i>1. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 29. Nxb Tiến </i>
bộ Mátxcơva.


<i>2. V.I.Lênin, Bàn về sự nhất trí giữa phép biện </i>


<i>chứng, logic và lý luận nhận thức trong chủ nghĩa </i>
<i>duy vật biện chứng, Tài liệu dịch, Phịng Thơng tin </i>



– tư liệu – thư viện Viện Triết học, 888 TL.


<i>3. Hồng Long (1983), Logic biện chứng, Nxb </i>
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.


<i>4. Lê Hữu Nghĩa (1987), Lịch sử và logic, Nxb </i>
sách giáo khoa Mác – Lênin, Hà Nội.


<i>5. G.I.Rudavin (1983), Các phương pháp nghiên </i>


<i>cứu khoa học. Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.</i>


<i>6. Sự đồng nhất của phép biện chứng, logic học </i>


<i>và lý luận nhận thức, Tài liệu dịch, Phịng Thơng </i>


tin – tư liệu – thư viện Viện Triết học, 425 TL


<b> Ngày nhận bài: 12- 4- 2013</b>


</div>

<!--links-->

×