Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

BÀN VỀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN DI NGÔN NGỮ TRONG QUÁ TRÌNH THỤ ĐẮC NGÔN NGỮ THỨ HAI THÔNG QUA CÁCH SỬ DỤNG TỪ BIỂU THỊ MỤC ĐÍCH “为了” TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.06 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>BÀN VỀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN DI NGÔN NGỮ TRONG Q TRÌNH </b>


<b>THỤ ĐẮC NGƠN NGỮ THỨ HAI THÔNG QUA CÁCH SỬ DỤNG </b>


<b>TỪ BIỂU THỊ MỤC ĐÍCH “为了” TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI </b>



<b>Đỗ Thị Thúy Hà* </b>


<i>Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên</i>


TÓM TẮT


Nghiên cứu về chuyển di ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng của nghiên cứu thụ đắc ngôn ngữ
thứ hai. Các nhà ngôn ngữ học đã sớm phát hiện ra rằng, việc học tập và nắm vững một loại ngơn
ngữ nào đó sẽ có tác dụng bổ trợ cho việc thụ đắc một loại ngôn ngữ khác. Trong q trình thụ đắc
ngơn ngữ thứ hai, người học sẽ lợi dụng tất cả những kiến thức đã có về ngơn ngữ (ngơn ngữ thứ
nhất) để phát triển ngơn ngữ đích (ngơn ngữ thứ hai). Điều đó có nghĩa là hiện tượng chuyển di
ngơn ngữ là không thể tránh khỏi. Nhưng chuyển di ngôn ngữ có mặt tích cực và mặt tiêu cực của
nó, do vậy, trong dạy học không thể coi nhẹ hiện tượng này. Bài viết trên cơ sở quan sát thực trạng
sử dụng từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng Hán hiện đại của sinh viên, đi sâu tìm hiểu ảnh
hưởng của sự chuyển di ngôn ngữ trong q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai và từ đó đưa ra một số
gợi ý trong dạy học ngôn ngữ thứ hai (cụ thể là tiếng Hán) cho người Việt Nam.


<i><b>Từ khóa: thụ đắc ngơn ngữ, chuyển di ngôn ngữ, </b></i>为了<i>, tiếng Hán, tiếng Việt</i>


ĐẶT VẤN ĐỀ**


Từ đầu những năm 60, 70 của thế kỷ 21,
nghiên cứu q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai
đã là một môn khoa học độc lập, hệ thống lý
luận của nó được xây dựng dựa trên mục tiêu
là miêu tả q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai
và giải thích đặc trưng của việc thụ đắc ngơn


ngữ thứ hai. Khơng thể phủ nhận vai trị của
việc nghiên cứu quá trình thụ đắc, trong đó
nhấn mạnh nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình này đối với cơng việc giảng dạy
tiếng nước ngồi. Trước sự phát triển như vũ
bão của ngành giảng dạy tiếng Hán hiện nay,
công việc nghiên cứu này ngày càng được coi
trọng. Phạm trù mục đích là một phạm trù
được sử dụng khá phổ biến trong giao tiếp
của con người. Trong tiếng Hán để biểu thị
mục đích ta có thể sử dụng các từ ngữ, kết
cấu như “为了”,
“为”,“以”,“以便”,“好”,“免得”,“为的是”,“
是为了”. Trong đó “为了” có tần suất sử dụng
nhiều hơn cả. Trong tiếng Việt cũng có khơng
ít các chỉ tố chỉ mục đích như “để”, “để mà”,
“nhằm”, “hịng”, “cốt”… Người Việt nam khi
học tiếng Hán sẽ có xu hướng đem hiểu biết
về kiến thức tiếng mẹ đẻ vận dụng vào sử
dụng ngơn ngữ đích, hay chính là ở đây đã
xuất hiện một sự chuyển di, điều này đem đến



*


<i>Tel: 0914 598599; Email: </i>


cho người học nhiều thuận lợi nhưng cũng
không thể khơng bàn đến những khó khăn.
Dưới đây chúng tôi tập trung bàn về sự


chuyển di này thơng qua tình hình sử dụng từ
chỉ mục đích “为了” của sinh viên chuyên
ngành tiếng Trung.


HIỆN TƯỢNG CHUYỂN DI NGƠN NGỮ
Q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai là một quá
trình gây dựng giả thiết và thử nghiệm giả
thiết mang tính sáng tạo. Trong q trình này,
người học sẽ vận dụng những kiến thức đã có,
bao gồm cả kiến thức về ngôn ngữ mẹ đẻ để
phát triển ngôn ngữ trung gian của mình.
Hiểu theo nghĩa này thì sự xuất hiện của hiện
tượng chuyển di ngơn ngữ là không thể tránh
khỏi, hiện tượng này là một trong những nhân
tố quan trọng ảnh hưởng tới q trình thụ đắc
ngơn ngữ thứ hai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

loại hiện tượng như là chuyển di, rào cản,
tránh né, vay mượn, lỗi liên quan đến ngôn
ngữ thứ hai... Điều này cũng đem đến tiềm
năng cho việc nghiên cứu sự khác biệt và
tương đồng giữa các hiện tượng trên.


<b>Một vài quan điểm có ảnh hưởng đến hiện </b>
<b>tượng chuyển di ngơn ngữ </b>


Chuyển di ngơn ngữ có ảnh hưởng đến việc
thụ đắc ngôn ngữ thứ hai hay không, mức độ
ảnh hưởng thế nào và ảnh hưởng ra sao đã trở
thành những vấn đề cơ bản mà các nhà nghiên


cứu cần giải đáp. Trong quá trình phát triển
của mình, chuyển di ngơn ngữ đã trải qua hai
giai đoạn lịch sử quan trọng, đó là giai đoạn
nghiên cứu dựa theo khung lý thuyết của chủ
nghĩa hành vi lấy giả thiết phân tích đối chiếu
là chủ đạo và giai đoạn nghiên cứu dựa theo
khung lý thuyết của lý luận tri nhận lấy giả
thiết ngôn ngữ trung gian là chủ đạo.


Chuyển di ngôn ngữ được phát triển sớm nhất
từ trong lĩnh vực phân tích đối chiếu. Từ
những năm 50, phân tích đối chiếu bắt đầu
xuất hiện và từ đó nhanh chóng chiếm vị trí
đầu tiên trong nghiên cứu giảng dạy ngơn ngữ
thứ hai. Lado (1957) dưới sự ảnh hưởng của
chủ nghĩa hành vi và chủ nghĩa cấu trúc đã
đưa ra giả thuyết phân tích đối chiếu, trong đó
ơng đã cho rằng, hiện tượng chuyển di ngôn
ngữ là một trở ngại đáng kể trong việc thụ đắc
ngôn ngữ thứ hai, thông qua việc so sánh, đối
chiếu ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngơn ngữ đích
có thể dự đốn trước được lỗi mà người học
ngơn ngữ thứ hai dễ mắc phải cũng như
những điểm khó trong quá trình học. Trong
giai đoạn này, người ta đã thừa nhận tác dụng
của tiếng mẹ đẻ trong việc thụ đắc ngôn ngữ
thứ hai. Sự tương đồng giữa ngôn ngữ tiếng
mẹ đẻ và ngơn ngữ đích đem đến sự “chuyển
di tích cực” và sự khác biệt giữa chúng sẽ
đem đến “sự chuyển di tiêu cực”. Từ đó, Lado


và các nhà nghiên cứu đã có kết luận rằng,
“phần giống nhau giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ
và ngơn ngữ đích thì dễ học, phần khác nhau
thì khó học”. Quan điểm này đã được khái
quát hóa giản đơn thành công thức “khoảng
cách = độ khó”, tức là khoảng cách lớn nhỏ
giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngơn ngữ đích
tỉ lệ thuận với độ khó của việc học [1]. Tới
những năm 70, cùng với sự phát triển của lĩnh


vực nghiên cứu lỗi, phân tích đối chiếu dần
không được coi trọng, nhưng nghiên cứu hiện
tượng chuyển di ngôn ngữ vẫn không dừng
lại, nhiều cơng trình nghiên cứu trên cơ sở
của phân tích đối chiếu, từ nhiều góc độ như
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đã đi sâu tìm hiểu
mối quan hệ “khoảng cách = độ khó” đã nói ở
trên, trong đó một vài nghiên cứu đã chứng
minh được lý luận của Lado.


Những vấn đề cần được nghiên cứu tiếp mà
lĩnh vực nghiên cứu đối chiếu để lại khiến cho
các nhà nghiên cứu nhận ra rằng chuyển di
ngôn ngữ không phải là hiện tượng đơn giản
như Lado và các nhà nghiên cứu đã nghĩ và
họ đã đem lý luận tiêu chí ngơn ngữ vào việc
nghiên cứu hiện tượng này. Lý luận tiêu chí
với nền tảng cơ sở là khái niệm tiêu chí, là
nguyên tắc quan trọng để phân tích hệ thống
ngơn ngữ. Mục đích chính của lý luận này là


thơng qua phân tích hiện tượng tiêu chí trong
các hệ thống ngơn ngữ nhỏ để xây dựng nên
những mơ hình tiêu chí ngơn ngữ. Những khó
khăn của người học ngơn ngữ thứ hai có thể
dựa vào lý luận này để dự đốn vì lý luận tiêu
chí ngơn ngữ đã trả lời được câu hỏi chuyển
di ngôn ngữ xuất hiện ở đâu và bằng những
phương thức nào.


<b>Các hình thức biểu hiện chính của chuyển </b>
<b>di ngôn ngữ (liên hệ từ biểu thị mục đích </b>
<b>trong tiếng Hán và tiếng Việt) </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b>Bảng 1. Tình hình sử dụng từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng Hán hiện đại của sinh viên chuyên </b></i>
<i>ngành tiếng Trung Quốc</i>


<b>Nội dung </b>


<b>Đối tượng </b>


<b>Số bài khảo sát </b> <b>Tần suất sử dụng </b> <b>Tỷ lệ sử dụng </b>
<b>chính xác </b>


<b>Tỷ lệ sử dụng </b>
<b>khơng chính xác </b>
<b>Số bài </b> <b>Tỷ lệ </b> <b>Số bài </b> <b>Tỷ lệ </b> <b>Số bài </b> <b>Tỷ lệ </b>
Sinh viên năm


thứ 3



108 23 21,2 % 13 56,5 % 10 43,5 %


Theo số liệu trong bảng trên cho thấy, tỷ lệ
bài viết có sử dụng các từ ngữ chỉ mục đích
“为了” là rất thấp (chiếm 18%), trong đó, số
bài sử dụng chính xác và khơng chính xác có
tỷ lệ khá cao và độ chênh lệch khơng lớn.
Ngồi ra, ngữ liệu của bài viết cịn được thu
thập từ nguồn bài tập mơn dịch 1 (Dịch Trung
– Việt) của sinh năm thứ 3 chuyên ngành
tiếng Trung Quốc. Kết quả thu được là các
câu có sử dụng từ ngữ chỉ mục đích “为了”
trong tiếng Hán, bao gồm cả câu chính xác và
khơng chính xác.


1) Chuyển di tiêu cực: Chuyển di tiêu cực chỉ
việc mượn tiếng mẹ đẻ để biểu đạt ngôn ngữ
thứ hai nhưng lại không phù hợp với thói
quen biểu đạt của ngơn ngữ thứ hai đó , hoặc
khơng được người bản địa dùng ngơn ngữ đó
chấp nhận, do đó kết quả là đã sinh ra lỗi. Khi
giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ
hai có sự khác nhau về điểm nào đó thì sự
khác nhau này luôn là nội dung khó đối với
người học, lúc này rất dễ xảy ra hiện tượng
chuyển di tiêu cực. Chuyển di tiêu cực chỉ
một loại “rào cản” mà kiến thức tiếng mẹ đẻ
hoặc kiến thức ngôn ngữ đích mang đến cho
người học. Nếu “rào cản” do ngôn ngữ tiếng
mẹ đẻ mang đến thì được gọi là “chuyển di


giao ngơn ngữ”, cịn nếu “rào cản” đó đến từ
ngơn ngữ đích thì được gọi là “chuyển di nội
ngơn ngữ”[2].


Có thể thấy rằng chuyển di tiêu cực trong q
trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai ảnh hưởng tới
(đem rào cản tới) các bình diện của ngơn ngữ,
từ ngữ âm, từ vựng đến ngữ pháp, ngữ dụng
và văn hóa. Đối với hiện tượng khách quan
này, chúng ta một mặt cần nhìn ra sự tồn tại
của nó, thừa nhận ảnh hưởng của nó tới việc
thụ đắc ngơn ngữ thứ hai; mặt khác, cần phải
nhận thức được rằng, lỗi mà do rào cản này
đem đến là khó tránh khỏi, người học ngoại
ngữ cần phải thoát khỏi trở ngại tâm lý sợ
mắc lỗi, như thế lại có lợi cho người học


ngoại ngữ phát huy tính năng động chủ quan,
đạt được hiệu quả học tập cao. Dù gì thì sự
xuất hiện của lỗi khơng phải là một việc xấu,
trong q trình trải qua sự chuyển di tiêu cực,
người học thực tình cũng đã là trải qua quá
trình học tập không ngừng nghỉ, chúng ta
cũng có thể coi chuyển di tiêu cực như là một
loại sách lược học tập, sách lược giao tiếp.
<i>Ví dụ 1: Để luyện tốt khí cơng</i>

<i>anh ấy đã </i>
<i>phải chịu bao khó khăn mà khơng hề ốn thán </i>
<i>một câu nào.</i>


Với câu mang chỉ tố chỉ mục đích “để” ở trên,


có người học đã dịch sang tiếng Hán


là:

以便

练好气功,他受了不少苦,却没有半点怨言。

<i>* </i>


“Để” trong tiếng Việt có thể đứng ở đầu câu
hoặc ở đầu phân câu sau, còn “以便” cũng là
từ chỉ quan hệ mục đích, chuyển dịch sang
tiếng Việt cũng có nghĩa là “để”, nhưng nó
chỉ có vị trí duy nhất là đứng ở đầu phân câu
sau. Người học không để ý đến sự khác biệt
này nên đã sinh ra lỗi trong khi vận dụng. Câu
trên cách biểu đạt chính xác nên là:


为了练好气功,他受了不少苦,却没有半点怨言。



Ta tiếp tục quan sát các ví dụ dưới đây:
<i>Ví dụ 2: *</i>

为我没带伞,妈妈要来接我。



<i>Ví dụ 3: *</i>

为了想想好久,我睡一个觉到下午。



<i>Ví </i> <i>dụ </i> <i>4:* </i>


他也说过,大家可以生活在一起是为了缘分,所以我


们要互相帮助,互相尊敬。



Nguyên nhân gây lỗi của các ví dụ trên là do

” và “

为了

” ngồi nghĩa chỉ mục đích ra
cịn có thể biểu thị nguyên nhân, người học
do trong quá trình sử dụng đã vận dụng kiến
thức một cách máy móc, hay nói cách khác là

họ đã liên hệ vận dụng những gì đã học được
sang một kiến thức mới, do vậy đã xảy ra sự
nhầm lẫn. Các câu trên nên biểu đạt như sau:


因为我没带伞,妈妈要来接我。



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

因为想想好久,我睡一个觉到下午。



<i>Dịch nghĩa: Vì suy nghĩ quá nhiều nên tôi đã </i>
<i>ngủ một giấc đến tận chiều. </i>


他也说过,大家可以生活在一起是因为缘分,所以我


们要互相帮助,互相尊敬。



<i>Dịch nghĩa: Anh ta đã từng nói, mọi người có </i>
<i>thể sống được cùng nhau là do duyên phận, </i>
<i>cho nên chúng ta phải giúp đỡ nhau, tôn </i>
<i>trọng lẫn nhau. </i>


Ta quan sát tiếp ví dụ dưới đây:
<i>Ví dụ 5: </i>


<i>*</i>

他很喜欢唱歌直到他妈妈为了他找个辅导老师教他唱



歌。



Vì “为” vừa có thể biểu thị mục đích của động
tác hành vi, lại vừa có thể biểu thị đối tượng tiếp
nhận của động tác, nên câu này phải thay “

为了


bằng “

”, cách diễn đạt chính xác nên là:


他很喜欢唱歌直到他妈妈为他找个辅导老


师教他唱歌。



2) Chuyển di tích cực. Tiếng mẹ đẻ mặc dù có
khả năng sẽ gây ra trở ngại trong quá trình
tiếp thu ngơn ngữ thứ hai, nhưng vẫn có khả
năng mang đến tác dụng tích cực. Hiện tượng
này được gọi là chuyển di tích cực trong học
tập ngơn ngữ. Các nhà nghiên cứu đã phát
hiện ra rằng, trong quá trình học ngơn ngữ thứ
hai, trong đó ở giai đoạn đầu của sự phát triển
ngôn ngữ, người học sẽ luôn dựa theo các quy
tắc ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ. Khi các quy tắc
của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ đó hồn tồn giống
với quy tắc của ngôn ngữ thứ hai thì người
học sẽ sử dụng một cách chính xác ngơn ngữ
thứ hai. Tiếp theo đó, người học sẽ dần hình
thành một loạt các quy tắc liên quan đến ngôn
ngữ thứ hai, những quy tắc này có khả năng là
lỗi trong ngơn ngữ thứ hai, nhưng chúng vẫn
là những tiêu chí của sự phát triển ngôn ngữ
của người học. Tiếp đến, người học sẽ phát
hiện ra quy tắc mà mình tự sáng tạo ra có chỗ
khơng phù hợp với quy tắc chính thống của
ngôn ngữ thứ hai, từ đó người học dần dần
loại bỏ những quy tắc khơng chính xác và
cuối cùng sẽ học được các quy tắc chuẩn xác
nhất. Trong quá trình học kiểu dạng này, ở
giai đoạn sơ cấp, khi ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ


của người học có các quy tắc đồng nhất với
ngôn ngữ thứ hai, thì ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ


đem đến tác dụng thúc đẩy việc học ngôn ngữ
thứ hai này.


Nói một cách khác thì chuyển di tích cực chỉ
một vài hình thức mà trong bối cảnh ngơn
ngữ thứ hai, người học vì chịu ảnh hưởng của
ngôn ngữ mẹ đẻ một cách vô thức đã lợi dụng
tiếng mẹ đẻ để biểu đạt, vừa hay kiểu lợi dụng
này lại phù hợp với thói quen biểu đạt của
ngôn ngữ thứ hai, kết quả là có được những
biểu đạt chính xác. Sự chuyển di tích cực
ngơn ngữ mẹ đẻ chủ yếu biểu hiện ở hai cấp
độ từ và câu.


Ta cùng quan sát một vài ví dụ của sinh viên
khi sử dụng từ chỉ mục đích trong tiếng Hán
hiện đại vào viết bài dịch.


<i>Ví dụ 6: Để bạn đọc hiểu rõ sự việc, chúng tôi </i>
<i>xin cung cấp thêm một số tư liệu. </i>


<i>Dịch </i>


<i>câu</i>

:“为了让读者把事件弄清,我们就加



给一些新信息。”




Từ “để” trong tiếng Việt có thể dịch sang
tiếng Hán là “为了”, trong câu trên được dịch
thành “为了” là rất hợp lý, cả hai từ đều dùng
để biểu thị mục đích và đều có thể đứng ở đầu
câu, ngay trước phân câu biểu thị mục đích.
Điều này thuộc về sự chuyển di tích cực,
trong đó giữa ngơn ngữ thứ nhất và ngơn ngữ
thứ hai có một vài điểm ngơn ngữ khơng có
sự khác biệt, người học khi nắm bắt những từ
ngữ kiểu như thế sẽ không gặp vấn đề khó
khăn gì.


<i>Ví dụ 7: Để đứng vững được trên con đường </i>
<i>sự nghiệp, tơi đã đi khắp nơi tìm kiếm những </i>
<i><b>đột phá mới. </b></i>


<i>Dịch câu: </i>


<i> “</i>

为了在事业上站住脚,我四处寻找新的突破点。

<i>” </i>


Một trong những kiểu kết cấu của từ “để”
biểu thị mục đích là theo sau nó là cụm động
từ hoặc một phân câu nhỏ, trong tiếng Hán
cũng vậy, theo sau “为了” cũng có thể là cụm
động từ hoặc một kết cấu chủ vị, người học
có thể dựa vào điểm giống nhau này để vận
dụng vào học tập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

học, họ sẽ cố gắng không sử dụng các quy tắc
này. Đây chính là hiện tượng tránh né trong


q trình thụ đắc ngơn ngữ thứ hai. Tránh né
và chuyển di tiêu cực đều có điểm chung là
được sản sinh trên cơ sở giữa ngôn ngữ tiếng
mẹ đẻ và ngôn ngữ đích có sự khác biệt.
Nhưng ở “tránh né”, người học tránh sử dụng
những quy tắc tương đồng, bao gồm cả việc
không làm theo quy tắc của ngơn ngữ tiếng
mẹ đẻ, cịn ở “chuyển di tiêu cực”, người học
có sử dụng nhưng lại làm theo những quy tắc
của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, do đó sinh ra lỗi.
Từ đó, ta có thể thấy rằng, kiến thức về ngơn
ngữ tiếng mẹ đẻ, mức độ nắm kiến thức ngôn
ngữ đích và thái độ của người học với văn
hóa nước nhà cũng như văn hóa của quốc gia
sử dụng ngơn ngữ đích đều có ảnh hưởng tới
sự sản sinh của hành vi “tránh né”. Ta cùng
quan sát một số ví dụ nằm trong nguồn ngữ
liệu chúng tôi đã thu thập được:


<i>Ví dụ 8: </i>


因为我生病,妈妈请了几天假一直在我的身


边照顾我。



<i>Dịch nghĩa:Vì tơi bị ốm, mẹ đã xin nghỉ làm </i>
<i>mấy ngày ở bên cạnh chăm sóc tơi. </i>


Trong ví dụ trên, nếu người học sử dụng liên
từ “

为了

<i>”để nối giữa các phân câu thì câu văn </i>
sẽ có được lối diễn đạt phù hợp với văn

phong viết hơn:


我生病了,为了能在我身边照顾我,妈妈请了几天假

<i>. </i>


<i>Dịch nghĩa:Tôi bị ốm, để có thể ở bên cạnh </i>
<i>chăm sóc tơi, mẹ đã xin nghỉ làm mấy ngày. </i>
4) Lạm dụng. Trong quá trình thụ đắc ngơn
ngữ thứ hai, sẽ có hiện tượng người học lạm
dụng sử dụng một số hình thức quy tắc ngơn
ngữ, điều này có thể là do họ chưa có hiểu
biết sâu xa về quy tắc của ngơn ngữ đích.
<i>Ví dụ 9: Tơi đã giấu chìa khóa két sắt đi để </i>
<i>khỏi bị trộm lấy mất. </i>


Có người học đã dịch câu này sang tiếng Hán là:


我把保险柜的钥匙藏起来,为了免得被人偷去。

<i>*</i>


Câu trên có chứa chỉ tố chỉ mục đích “để”
nhưng lại kết hợp với “khỏi” tạo thành ý
nghĩa mong muốn khơng xảy ra việc nào đó,
trong tiếng Hán thì ta chỉ cần dùng một từ nối
chỉ quan hệ mục đích là được, ví dụ như là:


以免、免得,và cách biểu đạt chính xác của câu
này là:


我把保险柜的钥匙藏起来,免得被人偷去。



Trong ví dụ trên, chỉ cần dùng “

免得

<i>” </i>là đã đủ

biểu thị quan hệ mục đích rồi nhưng người
học đã lạm dụng dùng cả hai quan hệ từ chỉ
mục đích là为了và

省得

.


Qua khảo sát cho thấy, lạm dụng là một biểu
hiện của chuyển di ngôn ngữ xuất hiện nhiều
ở đối tượng người học có trình độ cao hơn, vì
theo thời gian, người học được tiếp cận nhiều
kiến thức mới hơn, khó hơn, lúc này, người
học rất dễ áp dụng những kiến thức chưa đầy
đủ, vẹn tồn (vì vừa được truyền thụ) của nội
dung ngơn ngữ đích đã được tiếp thu vào nội
dung kiến thức mới mẻ, từ đó gây ra lỗi. Ví
dụ khác nằm trong nguồn ngữ liệu mà chúng
tơi đã thu thập được như sau:


<i>Ví dụ 10: *</i>

学了三年汉语以后我来中国为了留学。



<i>Dịch nghĩa: Sau 3 năm học tiếng Hán, tôi đến </i>
<i>Trung Quốc để du học. </i>


Từ ví dụ trên cho ta thấy, bản thân cụm
“来中国留学” thông qua kết cấu liên động đã đủ
nói lên quan hệ mục đích, không cần phải dùng
thêm “为了” để chỉ quan hệ mục đích nữa.
<i>Ví dụ 11: </i>


<i>*</i>

我喝一点儿水吃一点儿自己做的早饭以后打开电视机



为了看接连换电视台但没找到好玩儿的东西看。




Trong ví dụ trên xuất hiện vài động tác xảy ra
theo tuần tự trước sau là “

打开电视机

”,

看电视

”, “

换台

” , đây là mối quan hệ liên tiếp
nên giữa các động tác không thể tồn tại quan
hệ mục đích, vì vậy cần bỏ “

为了

” đi, và câu
trên có thể sửa lại là:


我喝一点儿水吃一点儿自己做的早饭以后打开电视看


节目,然后连接换电视台但没找到好玩儿的东西看。



ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

1) Tận dụng hợp lý sự chuyển di tích cực.
Chúng ta có thể tận dụng những điểm tương
đồng giữa hai loại ngôn ngữ (Tiếng Việt và
tiếng Hán), tích cực phát huy những ảnh
hưởng tốt của ngôn ngữ thứ nhất đối với ngôn
ngữ thứ hai. Như vậy, sẽ giúp người học có
hứng thú hơn và hiệu quả học tập ngôn ngữ
thứ hai cũng sẽ được nâng cao. Do vậy trên
thực tế là không thể nhấn mạnh việc từ bỏ tư
duy bằng tiếng mẹ đẻ trong khi học ngơn ngữ
thứ hai, bởi vì người học đều học ngoại ngữ
từ nền tảng ban đầu là tiếng mẹ đẻ. Vì thế
trong quá trình giảng dạy và học tập cần có
thái độ nhìn nhận đúng đắn về sự ảnh hưởng
ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ. Trong q trình giảng
dạy có thể dạy theo phương thức dạy đối
chiếu, tức là tìm ra điểm tương đồng giữa hai


nội dung kiến thức để dạy. Ví dụ, khi giảng


về “

为了

<i>” có thể đối chiếu với “để” , “nhằm”, </i>


tập trung vào điểm giống nhau như vị trí của
chúng trong câu hay thành phần theo sau của
chúng để vận dụng vào giao tiếp bởi vì những
điểm giống nhau sẽ thường là nội dung dễ
tiếp thu hơn.


2) Tích cực cố gắng khắc phục sự chuyển di
tiêu cực. Đối với sự chuyển di tiêu cực, trong
quá trình dạy học cần chú trọng nhấn mạnh để
người học nhận biết được chúng, người dạy
học có thể thơng qua “phân tích đối chiếu”,
“phân tích lỗi” để so sánh ngơn ngữ tiếng mẹ
đẻ và ngôn ngữ đích, dự đốn những hiện
tượng chuyển di tiêu cực có thể xảy ra khi
người học học tiếng Hán, đồng thời thông qua
liên tục luyện tập sẽ đem đến cho người học
sự nhạy bén với những điểm khác nhau giữa
ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích.
Trong q trình giảng dạy nên chú trọng đến
sự đa dạng của loại hình bài tập luyện tập.
Các loại bài tập có thể sử dụng như là dạng
bài tập thay thế, trong đó tập trung vào những
từ gần nghĩa (ví dụ như “为” và “为了”) hoặc
dạng bài tập dịch với yêu cầu bắt buộc sử
dụng nội dung kiến thức cụ thể (ví dụ như yêu
cầu dùng “để”, “để mà”, “nhằm”...). Ngoài ra


cũng có thể áp dụng bài tập phán đoán câu
đúng sai nhằm mục đích cho người học tự


nhận biết lỗi mà mình có thể dễ mắc phải. Ta
xem hai ví dụ dưới đây:


<i>Ví dụ 12: *</i>

为了钱,他变得这么坏。



Cách diễn đạt chính xác nên là:


因为钱,他变得这么坏。



<i>Ví dụ 13: *</i>

以便开会而开会。



Cách diễn đạt chính xác nên là:


为了开会而开会。



KẾT LUẬN


Sự chuyển di ngôn ngữ trong quá trình thụ
đắc ngơn ngữ thứ hai luôn là vấn đề đáng
được quan tâm bởi lẽ nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc vận dụng những kiến thức đã
học vào giao tiếp, nó đem đến cho cả người
dạy và người học ngôn ngữ thứ hai ngồi
ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ cả thuận lợi cũng như
khó khăn. Đặc biệt với hai ngôn ngữ tiếng
Việt và tiếng Hán, giữa chúng có rất nhiều nét
tương đồng cũng như sự khác biệt, vì thế sự


chuyển di ngôn ngữ ở đây đóng vai trị rất
quan trọng, người Việt Nam khi dạy tiếng
Hán cần nắm bắt những kiến thức về chuyển
di nhằm tận dụng nó cũng như giảm thiểu bớt
những trở ngại mà nó đem đến để cuối cùng
đạt được mục đích chung nhất là có những
giờ giảng thực sự là hiệu quả.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


周静(2007)《对外汉语教学与母语习得原则》,天中学
刊。


2.夏洋(2005)《第二语言习得过程中语言迁移现象研究
》,黑龙江大学硕士论文。


3.


温晓虹(2012)《汉语作为第二语言的习得与教学》,
北京大学出版社。


<i>4. Diệp Quang Ban (2012), Ngữ pháp tiếng Việt, </i>
Nxb Giáo dục Việt Nam.


5.白丽梅,黄友之(2011)《二语习得中的语法教学理论
述评》,基础英语教育,第13卷第一期。


6.



段轶娜(2005)《“为了”的用法分析》,常熟理工学院
学报。


7.王永娜(2004)《


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

SUMMARY


<b>DISCUSSION ABOUT LINGUISTIC TRANSFER PHENOMENON IN THE </b>
<b>PROCESS OF SECOND LANGUAGE ACQUIREMENT OF VIETNAMESE </b>
<b>STUDENTS WHEN STUDYING CHINESE AND TEACHING STRATE </b>


<b>Do Thi Thuy Ha*</b>


<i>School of Foreign Languages - TNU </i>


Reseach on linguistic transfer is one crucial part in studying second language acquirement. Many
linguists soon realized that learning and mastering one language would have a supplementary
effect on acquiring other languages. In that process, leraners would take advantage of all
knowledge about the first language to develope the target language (the second language). It
means that linguistic transfer is unavoidable. The process of acquiring Chinese of Vietnamese
people is not an exception and the linguistic transfer plays in important role in this process.
However, linguistic transfer also has its own advantages and drawbacks; therefore, in teaching
strate, it cannot be underestimated. The important thing with a teacher is to understand how to
apply it, innovating teaching methods and bringing effective learning hours.


<i><b>Keywords: language acquirement, linguistic transfer, Chinese, Vietnamese, teaching method </b></i>


<i><b>Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 16/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018</b></i>




*


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8></div>

<!--links-->

×