Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

TRINH SKKN đổi mới tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.8 MB, 49 trang )

Mục lục
Trang
I. Đặt vấn đề.
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích của đề tài
3. Phương pháp nguyên cứu
II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lý luận của đề tài
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng tình hình về vấn đề
2.2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
3. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài
3.1. Tác dụng giáo dục của giờ sinh hoạt lớp
3.2. Một số lưu ý khi làm việc với học sinh trong các tiết sinh

5
9
9
11
11
11
12

hoạt lớp cuối tuần
Các biện pháp đổi mới tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, phát

13

huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho hoc sinh
4. 4. Hiệu quả.
5. 5. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng



22
47

1.
2.
3.
1.
2.
3.

3.3.

sáng kiến kinh nghiệm, giải pháp của bản thân.
6. Kết luận.
7. Tài liệu tham khảo.

2
4
4

47
49

I. Đặt vấn đề
1. Lý do chọn đề tài

Giáo dục là dạy dỗ, quá trình giáo dục bao gồm hoạt động dạy học và
hoạt động giáo dục. Hai hoạt động này được tiến hành một cách song song, đồng
thời và không thể tách rời nhau. Muốn dạy học có hiệu quả thì ngồi việc người

dạy phải có kiến thức, phương pháp thì người học cũng cần phải có ý thức tập
1


trung chú ý, tư duy và hợp tác. Hay nói cách khác thì muốn q trình dạy học có
hiệu quả cao thì cần phải xây dựng nề nếp, phẩm cách, ý thức của người học.
Nếu người dạy có trình độ uyên bác, có phương pháp sáng tạo, vận dụng linh
hoạt nhưng người học khơng tập trung, khơng hợp tác thì q trình dạy học ắt sẽ
khơng có kết quả. Như vậy, ngoài việc cung cấp cho học sinh những kiến thức
đầy đủ, chính xác theo quy định của chương trình thì người giáo viên cịn phải
quan tâm giúp các em từng bước hình thành, điều chỉnh, hồn thiện những hành
vi đạo đức phù hợp với đặc điểm tâm lí lứa tuổi. Nói một cách sát thực hơn,
muốn học sinh học tập có chất lượng thì cần tiến hành tốt và có hiệu quả việc
dạy học và cơng tác chủ nhiệm lớp. Một trong những hoạt động chính của cơng
tác chủ nhiệm lớp là tổ chức tiết sinh hoạt lớp cuối tuần cho học sinh.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội trong điều kiện đất nước mở
rộng giao lưu và hội nhập là những hạn chế, yếu kém, tệ nạn, … gây ảnh hưởng
lớn đến xã hội, đến giáo dục,…. tác động khơng ít đến tư tưởng, tình cảm, hành
vi đạo đức của học sinh. Thực hiện tốt giờ sinh hoạt lớp cuối tuần là điều kiện
giáo viên kịp thời giúp học sinh thực hiện nội quy, quy định, điều chỉnh ý thức,
thái độ, tình cảm trong rèn luyện đạo đức, trong quá trình học tập, ngăn chặn
tình trạng suy thoái đạo đức, tệ nạn xã hội, lười và bỏ học,…..
Trong giai đoạn hiện nay, dư luận xã hội thường quy cho ngành Giáo dục
quá chú trọng việc truyền thụ kiến thức mà ít quan tâm đến việc giáo dục đạo
đức cho học sinh, dẫn đến một bộ phận học sinh hư hỏng, mất đạo đức, thậm chí
vi phạm các nội quy, quy định của nhà trường, Pháp luật Nhà nước,…. thì việc
thực hiện tốt tất cả các giờ sinh hoạt lớp cuối tuần sẽ góp phần hết sức to lớn
trong việc hạn chế và chấm dứt thiếu sót này.
Tiết sinh hoạt lớp cuối tuần là hoạt động tập thể của học sinh sau một tuần
học tập, do các em tự tổ chức và điều khiển. Trong tiết này, giáo viên chủ nhiệm

lớp giữ vai trò cố vấn giúp học sinh, cùng các em tham gia vào những hoạt động
cụ thể.
Tiết sinh hoạt lớp cuối tuần là một trong những biện pháp cơ bản có ý
nghĩa trực tiếp trong việc góp phần xây dựng tập thể học sinh đoàn kết, kỉ luật,
2


phát huy được tác dụng đối với từng thành viên. Tiết này nhằm đánh giá các
hoạt động của lớp diễn ra trong tuần, định hướng cho các hoạt động sẽ phải thực
hiện ở tuần tới. Tiết sinh hoạt lớp cuối tuần chiếm vị trí hết sức quan trọng trong
việc biến các yêu cầu của nhà trường thành nhiệm vụ mà lớp phải thực hiện. Ở
đó sẽ hiển thị tồn bộ những hoạt động, những kết quả, những thành tích mà các
em đã đạt được để được bạn bè, thầy cô tun dương, khích lệ ; ở đó cũng sẽ
giúp các em nhận ra những thiếu sót mà các em mắc phải trong một tuần học tập
và rèn luyện để được bạn bè, thầy cơ sẻ chia, giúp đỡ tìm ra biện pháp để các em
sửa chữa, tiến bộ hơn. Ở đó, cịn là nơi để các em thể hiện tài năng của mình
thơng qua những tiết mục văn nghệ để bạn bè, thầy cô tán thưởng, hoan nghênh,
… Như vậy, tiết sinh hoạt lớp cuối tuần cũng góp phần quan trọng giúp học sinh
phát triển trí tuệ và nhân cách để có thể dễ dàng hịa nhập trong cuộc sống của
xã hội hiện đại.
Trải qua 10 năm cơng tác, ít nhất cũng chừng ấy năm làm công tác chủ
nhiệm lớp. Có nhiều lớp học sinh chăm ngoan, lễ phép, biết vâng lời nhưng
cũng khơng thể khơng có những lớp có một vài học sinh vì q hiếu động dẫn
đến khó bảo, khó rèn. Song với niềm say mê, sự trăn trở, nghĩ suy, chắt chiu qua
từng giờ sinh hoạt lớp của bản thân cũng như sự chia sẻ của bạn bè đồng nghiệp,
sự phối hợp của các đoàn thể và sự quan tâm sâu sát của lãnh đạo nhà trường, đã
giúp cho bản thân tích lũy được một số kinh nghiệm về tổ chức sinh hoạt lớp
cho học sinh. Thêm nữa, đổi mới tiết sinh hoạt lớp cuối tuần còn là thiết thực
hưởng ứng cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc góp phần nâng cao chất

lượng giáo dục tồn diện cho học sinh, tơi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“Đổi mới tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo cho học sinh”.
2. Mục đích của đề tài
Mục tiêu của đề tài này là tìm ra cách thức tổ chức một tiết sinh hoạt lớp
cuối tuần nhẹ nhàng, thoải mái nhưng đạt hiệu quả cao. Trên cơ sở những theo
3


dõi, đánh giá của đội ngũ cán bộ lớp, học sinh có những hiểu biết cần thiết về
tập thể, về vai trò và nhiệm vụ của bản thân trong việc đóng góp xây dựng tập
thể. Phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh trong các hoạt
động tập thể. Nâng cao tính tự giác, có ý thức tổ chức kỉ luật, tinh trần trách
nhiệm trước tập thể, có ý thức hợp tác, phê bình và tự phê bình.
Mặt khác, mục tiêu của đề tài này cịn tạo ra một sân chơi gần gũi, thiết
thực và hữu ích để cho các em thể hiện năng khiếu của mình. Qua đó, giúp các
em thẩm thấu sâu hơn về cái hay, cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày thông qua
biểu diễn các tiết mục văn nghệ, các câu chuyện kể,… Cũng từ đó, giúp cho tâm
hồn các em bay bổng hơn, hồn nhiên hơn, có niềm tin vào cuộc sống nói chung
và trong học tập nói riêng. Song hành với sự phát triển về tâm hồn, các kỹ năng
sống về xây dựng tập thể, về tự quản, kĩ năng tổ chức, kĩ năng điều khiển và
tham gia các hoạt động tập thể, kĩ năng đánh giá và tự đánh giá của các em cũng
được hình thành và phát triển một cách tự nhiên, phong phú và bền vững hơn,
giúp các em phát triển một cách toàn diện hơn.
3. Phương pháp nghiên cứu
a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng cơ sở
lý luận của đề tài như:
- Phương pháp thu thập thông tin lý luận của vai trị của người giáo viên chủ
nhiệm lớp trong cơng tác giáo dục đạo đức học sinh trên các tập san giáo dục,

các bài tham luận trên Internet.
- Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình.
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây dựng cơ
sở thực tiễn của đề tài như:
- Phương pháp điều tra thực tế về thực trạng tổ chức giờ sinh hoạt lớp ở nhà
trường trong thời gian qua. Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn, học
sinh, hội cha mẹ học sinh, bạn bè của học sinh.
4


- Phương pháp quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học sinh.
- Phương pháp tổng hợp các văn bản chỉ đạo có liên quan đến giờ sinh hoạt lớp
và công tác chủ nhiệm lớp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của giáo viên trong nhà trường về
công tác tổ chức giờ sinh hoạt lớp đạt hiệu quả tốt.
c. Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm.
Thử áp dụng các giải pháp đổi mới tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh 12C4, Trường THPT Tô Văn Ơn, năm
học 2019 – 2020.
II. Giải quyết vấn đề
1. Cơ sở lý luận của đề tài :

Dựa trên tinh thần đổi mới của phương pháp dạy học: dựa vào hoạt động
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp
của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo góp phần hình thành
phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo niềm
tin, niềm vui trong học tập, trong sinh hoạt tập thể. Và thực sự tạo được môi
trường “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Học sinh cũng nhận thức

đúng đắn được giờ sinh hoạt lớp rất thú vị. Đây là sự chuyển biến từ giờ sinh
hoạt nhàm chán, thụ động sang tích cực, chủ động và sáng tạo. Giáo viên chủ
nhiệm không cịn đơn thuần đóng vai trị là người chủ trì mà chỉ giữ vai trò cố
vấn giúp học sinh, cùng các em tham gia vào những hoạt động cụ thể.
Các văn bản chỉ đạo có liên quan đến cơng tác chủ nhiệm và giảng dạy
giờ sinh hoạt lớp:
LUẬT GIÁO DỤC VÀ NGHỊ ĐỊNH CHI TIẾT HƯỚNG DẪN THI HÀNH: (Số
43/2019/QH14)
Điều 2. Mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển tồn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri
thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý
thức cơng dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của
5


mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Điều 29. Mục tiêu của giáo dục phổ thơng
1. Giáo dục phổ thơng nhằm phát triển tồn diện cho người học về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng
động và sáng tạo; hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa
và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho người học tiếp tục học chương trình
giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia lao động, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
2. Giáo dục tiểu học nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, năng lực của học sinh; chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học trung học cơ sở.
3. Giáo dục trung học cơ sở nhằm củng cố và phát triển kết quả của giáo dục
tiểu học; bảo đảm cho học sinh có học vấn phổ thơng nền tảng, hiểu biết cần

thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thơng
hoặc chương trình giáo dục nghề nghiệp.
4. Giáo dục trung học phổ thông nhằm trang bị kiến thức công dân; bảo đảm
cho học sinh củng cố, phát triển kết quả của giáo dục trung học cơ sở, hồn
thiện học vấn phổ thơng và có hiểu biết thơng thường về kỹ thuật, hướng
nghiệp; có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển,
tiếp tục học chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp hoặc tham gia
lao động, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 30. Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông
1. Nội dung giáo dục phổ thơng phải bảo đảm tính phổ thơng, cơ bản, tồn diện,
hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh
lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học.
2. Yêu cầu về nội dung giáo dục phổ thông ở các cấp học được quy định như
sau:
6


a) Giáo dục tiểu học phải bảo đảm cho học sinh nền tảng phát triển tồn diện về
thể chất, tình cảm, kỹ năng xã hội; có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên,
xã hội và con người; có nhận thức đạo đức xã hội; có kỹ năng cơ bản về nghe,
nói, đọc, viết và tính tốn; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có
hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật;
b) Giáo dục trung học cơ sở củng cố, phát triển nội dung đã học ở tiểu học, bảo
đảm cho học sinh có hiểu biết phổ thơng cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử dân
tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học,
ngoại ngữ; có hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp;
c) Giáo dục trung học phổ thông củng cố, phát triển nội dung đã học ở trung
học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thơng; bảo đảm chuẩn kiến thức
phổ thơng cơ bản, tồn diện và hướng nghiệp cho học sinh, có nội dung nâng
cao ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học

sinh.
3. Phương pháp giáo dục phổ thơng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc trưng từng môn học, lớp học và đặc điểm
đối tượng học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng
hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực
của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thơng vào
q trình giáo dục.
Nội dung cuộc vận động “Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích
cực”:
a) Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an tồn
- Bảo đảm trường an tồn, sạch sẽ, có cây xanh, thoáng mát và ngày càng đẹp
hơn, lớp học đủ ánh sáng, bàn ghế hợp lứa tuổi học sinh.
- Tổ chức để học sinh trồng cây vào dịp đầu xuân và chăm sóc cây thường
xuyên.
- Có đủ nhà vệ sinh được đặt ở vị trí phù hợp với cảnh quan trường học, được
giữ gìn vệ sinh sạch sẽ.
7


- Học sinh tích cực tham gia bảo vệ cảnh quan mơi trường, giữ vệ sinh các cơng
trình cơng cộng, nhà trường, lớp học và cá nhân.
b) Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi
địa phương, giúp các em tự tin trong học tập.
- Thầy, cơ giáo tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng
tự học của học sinh.
- Học sinh được khuyến khích đề xuất sáng kiến và cùng các thầy cô giáo thực
hiện các giải pháp để việc dạy và học có hiệu quả ngày càng cao.
c) Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói

quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.
- Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phịng, chống tai nạn
giao thơng, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hịa bình, phịng ngừa bạo lực
và các tệ nạn xã hội.
d) Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh
- Tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự
tham gia chủ động, tự giác của học sinh.
- Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác
phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
đ) Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch sử,
văn hóa, cách mạng ở địa phương
- Mỗi trường đều nhận chăm sóc một di tích lịch sử, văn hóa hoặc di tích cách
mạng ở địa phương, góp phần làm cho di tích ngày một sạch đẹp hơn, hấp dẫn
hơn; tuyên truyền, giới thiệu các cơng trình, di tích của địa phương với bạn bè.
- Mỗi trường có kế hoạch và tổ chức giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc và
tinh thần cách mạng một cách hiệu quả cho tất cả học sinh; phối hợp với chính
quyền, đồn thể và nhân dân địa phương phát huy giá trị của các di tích lịch sử,
8


văn hóa và cách mạng cho cuộc sống của cộng đồng ở địa phương và khách du
lịch.
2. Cơ sở thực tiễn (thực trạng trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài)
a. Thuận lợi:
Cũng như nhiều giáo viên khác, từ lúc vào nghề đến nay, tôi luôn được
làm công tác chủ nhiệm cũng đồng nghĩa với việc đó là hàng tuần tôi đã hướng
dẫn học sinh tổ chức tiết sinh hoạt lớp. Bên cạnh đó, hầu như năm nào, tơi đều
có những em học sinh có năng lực quản lí lớp tốt. Có thể nói rằng những em đó
là cánh tay phải của tơi trong suốt q trình dạy - học nói chung và trong khâu

chủ nhiệm lớp nói riêng.
b. Khó khăn:
Các lớp mà tơi chủ nhiệm đa số là các lớp cơ bản, nên ít có học sinh
điển hình về mọi mặt để nêu gương. Cịn nhiều học sinh vi phạm trong quá trình
học tập. Ý thức sửa chữa khuyết điểm của học sinh còn rất kém. Và học sinh
chưa nhận thức đúng về tiết sinh hoạt lớp cuối tuần. Nhiều học sinh chưa chủ
động tham gia các hoạt động tập thể, các em cịn nhút nhát, khơng tự tin vào bản
thân.
2.1. Thực trạng tình hình về vấn đề:
Tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, trong thực tế vẫn là nỗi ám ảnh của học sinh
nhiều lớp. Có hai kịch bản về tiết sinh hoạt lớp hay được học sinh mô tả:
Kịch bản 1: Lớp học im phăng phắc, học sinh căng thẳng, len lét ngồi nghe
thầy cô chủ nhiệm “ca cải lương” cả tiết hoặc “nổi da gà” khi đến “giờ xử án”.
Tiết sinh hoạt đã biến thành chuỗi thời gian nặng nề, học sinh thụ động vì chẳng
biết được nội dung tiết sinh hoạt lớp hôm nay có nội dung gì (nội dung đó có khi
cịn phụ thuộc trạng thái tâm lý của giáo viên chủ nhiệm). Và tiết sinh hoạt lớp
chẳng có tác dụng gì nhiều với những vấn đề cần cả lớp cùng quan tâm bởi học
sinh không được sinh hoạt theo đúng nghĩa.
Kịch bản 2: Lớp học nhốn nháo, tiết sinh hoạt lớp là tiết “thoải mái” vì
khơng phải là tiết học mơn gì cả. Giáo viên chủ nhiệm giao cho cán bộ lớp điều
9


hành. Học sinh tha hồ xả hơi, tranh thủ chép bài tập về nhà cho kịp các tiết sau.
Mọi “thủ tục” được tiến hành qua loa, chiếu lệ.
Cả hai trạng thái trên đều làm cho tiết sinh hoạt lớp cuối tuần khơng phát
huy được tác dụng giáo dục. Vì vậy cần phải nhận thức được những tác dụng đó
là quan trọng để có thể xây dựng một nề nếp tổ chức giờ sinh hoạt lớp cuối tuần
sao cho hiệu quả.
Nguyên nhân chính làm cho học sinh khơng thích tiết sinh hoạt lớp

cuối tuần:
Thứ nhất, học sinh không được cùng nhau tổ chức, tham gia vào giờ sinh
hoạt lớp.
Thứ hai, giáo viên thực hiện tiết sinh hoạt lớp không theo quy định cụ thể,
gặp hoạt động nào thì giáo viên phổ biến nội dung của hoạt động đó. Cịn mang
tính chất chung chung, nội dung khô cứng, lặp đi lặp lai, hình thức tổ chức đơn
điệu, nhàm chán, khơng hứng thú với học sinh, không thực sự gắn với nhu cầu
của các em. Nhiều giáo viên khơng hình dung được tiết sinh hoạt lớp là phải tiến
hành như thế nào? Mục tiêu của tiết sinh hoạt lớp là gì? Khơng có giải pháp cụ
thể cho từng nội dung, các em không thực sự cảm nhận được vấn đề trong chủ
đề sinh hoạt. Có trường hợp giáo viên khơng gần gũi, thân thiện, khơng đặt mình
vào vị trí của học sinh để hiểu các em và đôi khi biến giờ sinh hoạt lớp thành giờ
phê bình kiểm điểm chỉ trích học sinh. Với cách làm như vậy, một bộ phận học
sinh cá biệt, học tập yếu thường mặc cảm, tự ti, trầm cảm, xa lánh bạn bè, thầy
cô, sợ sệt cha mẹ, … dẫn đến chán học, bỏ học và có những phản ứng tiêu cực
khác.
Thứ ba, thời gian dành cho tiết sinh hoạt lớp phần lớn chưa đảm bảo. Đa số
giáo viên dành thời gian của tiết sinh hoạt lớp để bồi dưỡng thêm kiến thức cho
các em, thậm chí có giáo viên cịn bỏ ln tiết sinh hoạt lớp hoặc có tổ chức
cũng qua loa khơng đi vào chiều sâu.
2.2.

Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:

10


a) Cụ thể hố các văn bản chỉ đạo có liên quan đến giờ sinh hoạt lớp và công tác
chủ nhiệm lớp. Vận dụng kinh nghiệm thực tiễn của giáo viên trong nhà trường
về công tác tổ chức giờ sinh hoạt lớp đạt hiệu quả tốt.

b) Giải pháp thay thế để giải quyết vấn đề:
- Đa dạng hoá về nội dung và hình thức, phương pháp và cách thức tổ chức tiết
sinh hoạt lớp.
- Liên hệ thực tế rút ra bài học giáo dục.
- Tăng cường hoạt động thảo luận, ngoại khóa.
c) Quy trình đưa ra giải pháp:
- Nghiên cứu sách tham khảo.
- Tìm hiểu tâm lí, thắc mắc của học sinh.
- Tìm hiểu tài liệu, sách báo, rút ra phương pháp đổi mới.
3. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
3.1. Tác dụng giáo dục của giờ sinh hoạt lớp:
Đây là dạng hoạt động giáo dục tập thể, là một hình thức tổ chức tự
quản cho học sinh và là một trong những biện pháp cơ bản góp phần xây dựng
tập thể học sinh đồn kết. Chính thơng qua các giờ sinh hoạt lớp, các em bày tỏ,
chia sẻ tâm tư, tình cảm và tự đánh giá nhận xét nhau thẳng thắn, tích cực. Các
học sinh trong lớp được liên kết lại với nhau, giáo viên gắn bó với học sinh trong
tập thể để giải quyết những vấn đề của cuộc sống hàng ngày ở nhà trường, ở lớp
học. Học sinh được mở rộng các mối liên hệ, tăng cường sự hiểu biết, giúp đỡ
lẫn nhau, khắc phục xu hướng hẹp hòi, cục bộ, bè phái trong đời sống tập thể
hàng ngày của lớp học.
Đây cũng là dịp để học sinh làm quen với nhiều loại hình hoạt động
khác nhau, giúp các em phát triển các kỹ năng cơ bản và cần thiết cho bản thân.
Từ đây các em sẽ lĩnh hội được rất nhiều điều bổ ích, góp phần phát triển nhân
cách tồn diện của học sinh, tức là phát triển mọi mặt cả trí tuệ, tình cảm, đạo
đức, thẩm mĩ và sức khoẻ, thể chất… của học sinh.
3.2 Một số lưu ý khi làm việc với học sinh trong các tiết sinh hoạt lớp
cuối tuần:
11



Thứ nhất, thực tế hiện nay trong các tiết sinh hoạt lớp, các thầy cơ thường chê
học trị nhiều hơn là khen ngợi (60 - 70% là “chê” học sinh, đáng ra phải là ngược
lại). Thầy cô biết khen - chê đúng mực sẽ khiến học trò hứng thú trong học tập.
Về nguyên tắc, khen phải nhiều hơn chê để tạo tâm lý tích cực vì ai cũng
thích khen. Khi khen chê học sinh cần lưu ý một số vấn đề sau:
- Khen ngợi phải cụ thể, gọi tên các phẩm chất.
- Khen ngợi phải chân thật, gây được cảm xúc tích cực nơi người khen.
- Đối với những hành vi tích cực mới cần khen ngay khi nó vừa xuất hiện
nhất là với những em hay mắc khuyết điểm, những em học yếu, nhút nhát…
- Khi phê bình học sinh cũng cần lưu ý là phê bình hành vi cụ thể chứ
khơng khái qt hóa thành phẩm chất nhân cách.
- Khi phê bình khơng được chì chiết, nhắc đi nhắc lại những khuyết điểm
đã xảy ra từ lâu.
Thứ hai, giao lưu giữa học sinh có ý nghĩa rất quan trọng đối với q trình
giáo dục. Chính thơng qua giao lưu với bạn mà các em hiểu bạn, tự khám phá bản
thân mình, qua đó sự tự ý thức, cơ sở của tự giáo dục được phát triển. Trong quá
trình giao lưu, các em trao đổi với nhau những quan điểm, tư tưởng, hứng thú,
tâm trạng, xúc cảm... và từ đó có tác động lẫn nhau. Trên cơ sở của những hiểu
biết về nhau, học sinh mới dễ dàng cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau, tạo
nên bầu khơng khí lớp học đồn kết, cởi mở và thân thiện.
Trong q trình bàn bạc các cơng việc chung của lớp trong tiết sinh hoạt tập
thể dưới hình thức giao lưu - đối thoại sẽ phát triển được bầu không khí thuận lợi
cần thiết cho giáo dục, giúp mọi học sinh tin tưởng và không sợ hãi về mặt tâm lí.
Các em sẵn sàng đưa ra những quan điểm, chính kiến của mình, sẵn sàng nghe và
tiếp nhận những ý kiến của người khác một cách tôn trọng... Giao lưu - đối thoại
sẽ phát triển ở mọi học sinh lòng tin vào khả năng của bản thân, phát triển thái độ
tự đánh giá bản thân, sự tôn trọng đối với các bạn, tính sẵn sàng giải quyết có
sáng tạo các vấn đề đặt ra và niềm tin vào khả năng giải quyết chúng.
3.3. Các biện pháp đổi mới tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, phát huy tính tích
cực, chủ động và sáng tạo cho học sinh:

12


3.2.1. Đổi mới nội dung:
Mỗi lứa tuổi học sinh có những yêu cầu riêng, hứng thú riêng đối với hoạt
động. Vì vậy, sự thay đổi nội dung giờ sinh hoạt lớp cho phù hợp với lứa tuổi học
sinh khác nhau là đòi hỏi tất yếu đối với giáo viên chủ nhiệm. Sức hấp dẫn học
sinh, sự lôi cuốn các em tham gia tích cực vào hoạt động này phụ thuộc nhiều vào
sự thay đổi nội dung sinh hoạt lớp. Do đó, nội dung tiết sinh hoạt cuối tuần phải cụ
thể, bổ ích; gắn với nhu cầu và hứng thú của học sinh; phù hợp với kinh nghiệm và
trình độ hiểu biết của các em; huy động đến mức cao nhất trí tuệ và tình cảm tập
thể của học sinh ….
Mỗi lớp, mỗi tập thể đều có những cơng việc chung cần giải quyết, ví dụ
như xây dựng các quy định riêng của lớp, xác định chỉ tiêu thi đua, xử lí các tình
huống nảy sinh trong tập thể lớp… Vì thế cần để cho học sinh tự thảo luận, trao
đổi và quyết định. Mục đích là nhằm nâng cao bầu khơng khí đồn kết, tinh thần
trách nhiệm... của mỗi học sinh trong lớp. Ngoài ra việc thường xuyên thu hút
các em vào quá trình bàn bạc chung sẽ dần dần tạo ra ở các em lịng tin rằng
chúng có vị trí nhất định trong lớp và chúng sẽ cố gắng nỗ lực và hợp tác với
mọi thành viên khác để hồn thành cơng việc được giao.
Giáo viên chủ nhiệm cần lựa chọn nội dung sinh hoạt một cách linh hoạt,
đạt hiệu quả. Vừa bám sát vào nhiệm vụ dạy – học của nhà trường, vừa vận
dụng tình hình của địa phương, vừa căn cứ vào nhiệm vụ và đặc điểm của lớp,
của các đối tượng học sinh để có thể lựa chọn nội dung trong tiết sinh hoạt lớp
cuối tuần một cách phù hợp nhất. Tăng cường những nội dung sinh hoạt có liên
quan đến các cơng việc chung của lớp, phù hợp với nhu cầu và sở thích của học
sinh, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh.
Tài liệu gợi ý để giáo viên chủ nhiệm tham khảo, vận dụng trong việc lựa
chọn nội dung là Chương trình hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp do Bộ Giáo
Dục và Đào Tạo ban hành cho các khối lớp ở trường THPT và Nội dung của

phong trào thi đua « Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực » (Số:
40/2008/CT-BGDĐT) .
Sau đây là một số nội dung chủ yếu trong tiết sinh hoạt lớp cuối tuần:
13


+ Sơ kết, tổng kết công tác trong tuần vừa qua (nhận xét, đánh giá, bình
chọn, kiểm điểm ...)
+ Phổ biến cơng tác (của trường, lớp, đồn trường ...) Thảo luận, bàn bạc
về kế hoạch và biện pháp thực hiện nhiệm vụ.
+ Vui chơi, giải trí (trị chơi, văn nghệ, thể thao ...)
+ Lao động (vệ sinh trường lớp, tôn tạo, bảo quản cơ sở vật chất trường
lớp).
+ Bổ sung, củng cố kiến thức, kĩ năng (kiến thức học đường, kiến thức xã
hội, kĩ năng học tập, kĩ năng sống ...)
+ Hoạt động từ thiện, cơng ích ...
Có thể linh hoạt lồng ghép các nội dung trên sao cho tiết sinh hoạt ln
phong phú, mới mẻ, hấp dẫn và có tác dụng giáo dục cao.
3.2.2. Đổi mới phương pháp:
Phương pháp tổ chức tiết sinh hoạt lớp cuối tuần ở THPT rất đa dạng và
phong phú. Ở đây có sự phối hợp giữa phương pháp giáo dục với phương pháp
dạy học, trên cơ sở đó giáo viên vận dụng cho phù hợp với nội dung và hình
thức hoạt động đã lựa chọn. Dựa theo Tài liệu tập huấn hoạt động giáo dục
ngồi giờ lên lớp, có thể vận dụng một vài phương pháp cơ bản sau đây :
1. Phương pháp thảo luận nhóm
2. Phương pháp đóng vai
3. Phương pháp giải quyết vấn đề
4. Phương pháp tình huống
5. Phương pháp giao nhiệm vụ
6. Phương pháp trò chơi

7. Phương pháp tổ chức hoạt động giao lưu
8. Phương pháp diễn đàn
Mục đích của đổi mới phương pháp là để thu hút, lôi cuốn tối đa sự tham
gia của mọi học sinh.
Thu hút sự tham gia của mọi học sinh dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ, cố vấn
của giáo viên nhằm tăng cường vai trò tự quản của học sinh. Sự tham gia của học
14


sinh vào các hoạt động, công việc của lớp, của trường vừa là nhu cầu, vừa là quyền
của mỗi học sinh. Việc tất cả học sinh tham gia vào giờ sinh hoạt lớp sẽ tạo ra môi
trường chung để học sinh cùng trải nghiệm những xúc cảm tích cực, tăng cường
giao lưu giữa các em, tạo ra môi trường lớp học mang bầu khơng khí tin tưởng,
thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ và lắng nghe ý kiến của nhau. Từ đó tình cảm
gắn bó, chia sẻ giữa các em được hình thành và củng cố.
Nói cách khác, học sinh phải là chủ thể của giờ sinh hoạt lớp, phải được tham
gia vào giờ sinh hoạt lớp từ những vai trò và nhiệm vụ khác nhau như người thực thi
nhiệm vụ được giao, người tổ chức, người khám phá và đánh giá hoạt động của học
sinh, tập thể của họ.
Hai lý do cơ bản để thu hút, lôi cuốn sự tham gia của học sinh vào giờ sinh
hoạt lớp:
Một là, nhu cầu là thành viên của nhóm, của lớp học: Nhu cầu được là
thành viên của một nhóm đối với lứa tuổi học sinh trung học là rất quan trọng.
Khi các em có lịng tin vững chắc rằng chúng là thành viên của lớp và có vị trí
nhất định trong đó, chúng sẽ nỗ lực cố gắng và hợp tác vì một mục đích chung.
Nếu chúng thấy rằng mình chưa đủ tốt hay vì một lí do nào đó mà khơng được
các bạn chấp nhận, khơng có một vị trí nào trong lớp, các em sẽ đi tìm những
người bạn mới ở bên ngồi lớp, ngồi trường và có thể bị lơi cuốn vào các nhóm
tự phát, khơng lành mạnh, khơng loại trừ khả năng những tình huống xấu sẽ đến
với các em. Điều quan trọng đối với các em lúc này khơng phải là hành động

của mình có được xã hội chấp nhận, có đáp ứng yêu cầu của giáo viên hay
khơng mà là hành động đó giúp các em thỏa mãn được nhu cầu trở thành thành
viên của nhóm nào đó, được nhóm đó cơng nhận. Đó có thể là những hành động
vơ kỷ luật, hành động phá phách, không thể chấp nhận hoặc hành động ngu ngốc
từ cách nhìn của nhà giáo dục. Chính vì thế, giáo viên cần phải làm thế nào để
mọi học sinh trong lớp đều có một vị trí nhất định, được tham gia vào các hoạt
động chung của lớp, được bạn bè thừa nhận, đặc biệt là đối với những học sinh
có vị thế thấp trong tập thể lớp.
15


Thứ hai, quyền được tham gia của trẻ em vào các cơng việc có liên quan
tới chúng: Điều 12 và 13 trong Cơng ước về Quyền Trẻ em có ghi: “Tôn trọng ý
kiến trẻ em và quyền tự do bày tỏ ý kiến”.
Tham gia không chỉ mang nghĩa tham dự mà còn nhằm giảm mối quan hệ
quyền lực giữa giáo viên và học sinh, thể hiện sự tôn trọng con người vì khi
tham gia, những hành động, ý kiến của học sinh được ghi nhận. Giáo viên cần
lắng nghe ý kiến học sinh, điều đó làm cho các em ý thức về suy nghĩ và trình
bày của mình, đồng thời cần phát triển các kỹ năng để các em tham gia một cách
có ý nghĩa. Có sự khác biệt lớn giữa hoạt động học tập và hoạt động giáo dục.
Hoạt động giáo dục cần phải thoải mái và cần phải thay đổi thái độ và hành vi của
học sinh. Cần sử dụng các phương pháp tạo sự tương tác giữa giáo viên và học
sinh và giữa học sinh với nhau. Đồng thời cần quan tâm đến vai trò tham gia của
học sinh trong các hoạt động cụ thể. Trong mối quan hệ và các hoạt động cụ thể,
giáo viên và học sinh đều có vài trị tích cực. Để tăng cường sự tham gia cịn cần
tạo bầu khơng khí sinh hoạt học tập vui vẻ, thoải mái, khơng có sự chỉ trách phê
phán.
3.3.3. Đổi mới vai trò nhân sự:
Vai trò của giáo viên chủ nhiệm và học sinh trong tiết sinh hoạt lớp cuối tuần:
Về học sinh:

Trong tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, người hoạt động chủ yếu là học sinh.
Học sinh phải là những chủ nhân thực sự, chiếm lĩnh hầu hết các hoạt động
trong tiết học. Các em khơng những là diễn viên hồn tồn làm chủ sân khấu với
những hình thức phong phú, đa dạng mà cịn cùng hợp tác với giáo viên chủ
nhiệm trong khâu dựng kịch bản cũng như làm đạo diễn.
Về giáo viên:
Nói chung, đối với tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, giáo viên chủ nhiệm nên
tránh hai khuynh hướng sau:
Thứ nhất, cho rằng giờ sinh hoạt là của học sinh, dành cho học sinh hoạt
động là chính; từ đó học sinh khơng làm gì cả, khốn trắng, phó mặc cho học
sinh muốn làm thế nào cũng được dẫn đến sự đơn điệu, buồn tẻ, mất tác dụng.
16


Thứ hai, quá chuyên quyền nên không cho học sinh được trình bày, được
bộc lộ ý kiến, hoặc chỉ cứng nhắc tập trung vào việc diễn giảng, thuyết lý về đạo
đức, thậm chí tiết sinh hoạt nào cũng rầy la, trách mắng không ngớt về những sai
phạm của học sinh.
Trong tiết tiết sinh hoạt lớp cuối tuần, giáo viên chủ nhiệm chỉ cần làm
việc rất ít để trao quyền ưu tiên cho học sinh hoạt động với thời lượng tối đa có
thể được, thậm chí hầu như giáo viên chủ nhiệm khơng làm gì cả. Nhưng ở đây,
khơng làm gì cả khơng có nghĩa là khốn trắng, phó mặc học sinh kiểu như đã
nói ở trên, mà giáo viên chủ nhiệm vẫn là người bao quát, chỉ đạo sát sao để
đảm bảo cho hoạt động của học sinh đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
Nói chung cả giáo viên chủ nhiệm và học sinh cùng hợp tác đồng tổ
chức để tạo ra những hoạt động sơi nổi, tích cực trong tiết sinh hoạt lớp cuối
tuần. Nhưng quan trọng hơn cả là đồng tổ chức theo phương châm : Trò tự thiết
kế - Trị tự thi cơng. Giáo viên chủ nhiệm tư vấn, giám sát, động viên.
3.3.4. Đổi mới hình thức:
- Đổi mới không gian, địa điểm sinh hoạt :

+ Thay đổi, sắp xếp lại bàn ghế để tạo những kiểu khơng gian khác nhau.
+ Trang trí phịng học theo những kiểu khác nhau.
+ Chọn những địa điểm ngồi phịng học một cách thích hợp như sân trường,
hành lang, khu lao động, bãi cỏ gần trường ...
- Đổi mới vị trí của học sinh trong tiết sinh hoạt : Thay đổi chỗ ngồi.
+ Tự chọn theo sở thích của học sinh.
+ Theo sự phân công của người điều khiển cho phù hợp với hoạt động.
- Đổi mới cách thức triển khai nội dung hoạt động : vơ cùng biến hóa.
+ Hình thức thưởng, phạt được thay đổi thường xuyên.
+ Cách tổ chức các hoạt động ln mới mẻ.
+ Các trị chơi đa dạng.
+ Hình thức diễn đàn, tọa đàm, giao lưu ... phong phú.
Cụ thể, các hình thức tổ chức tiết sinh hoạt lớp cuối tuần có thể linh
hoạt thay đổi theo tuần, phù hợp với kế hoạch dạy và học của nhà trường, hoạt
17


động của đoàn trường, … sao cho tiết sinh hoạt ln phong phú, mới mẻ, hấp
dẫn và có tác dụng giáo dục cao.
Hình thức 1: Tổng kết, đánh giá thi đua và xây dựng kế hoạch
- Đánh giá lại những hoạt động trong tuần:
+ Từng tổ trưởng lần lượt báo cáo tình hình học tập cũng như việc thực
hiện nội quy trường lớp của các thành viên trong tổ.
+ Lớp trưởng nhận xét ưu điểm, khuyết điểm về các họat động của lớp
trong tuần vừa qua: nề nếp, học tập, đạo đức...
+ Lớp phó phụ trách văn thể, lao động: nhận xét từng mảng hoạt động do
mình phụ trách.
+ Giáo viên tuyên dương những em học tập tốt, tham gia tốt các phong trào
của lớp mà nhà trường đề ra; phê bình những em khơng học bài, làm bài tập ở nhà;
nhắc nhở và có hình thức kỷ luật thích đáng với những em thường xuyên vi phạm.

+ ............
- Lập kế hoạch tuần tiếp theo.
Hình thức 2: Hình thức hỗn hợp
Tổng kết thi đua và sinh hoạt theo chủ đề:
- Đánh giá tình hình chung của lớp trong tuần: lớp trưởng đánh giá chung sau
khi đã có sự thống nhất của các tổ. Giáo viên chủ nhiệm và học sinh bổ sung nếu
thấy cần thiết.
- Thông báo những công việc chính trong tuần tới
Hai nội dung trên nên tiến hành nhanh gọn khoảng 10 phút
- Sinh hoạt theo chủ đề (thời gian khoảng 35 phút): Nội dung sinh hoạt nên
gắn với các hoạt động chủ điểm tháng, gắn với những ngày kỉ niệm lớn, gắn với
các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra ở địa phương, trong nước
và trên thế giới,... (chủ đề về: Tình thầy trị nhân ngày 20/11; Tìm hiểu về danh
nhân mà trường mang tên; Truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam nhân
ngày 22/12; Chủ quyền và biển đảo; An toàn giao thơng và trách nhiệm của học
sinh…) Hình thức sinh hoạt cũng đa dạng: có thể là thi thuyết trình về từng chủ
18


đề, thi văn nghệ giữa các tổ, có thể chỉ là đố vui khoa học; có thể là sự giao lưu
với người trong cuộc...
Hình thức 3: Thảo luận chuyên đề, chủ điểm
Khi tiến hành thảo luận chuyên đề cần lưu ý:
- Vấn đề hay chủ đề thảo luận phải phù hợp với hứng thú, nhu cầu và trình độ
nhận thức chung của học sinh, có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau. Vấn đề đưa ra
thảo luận đòi hỏi sử dụng nhiều kiến thức và kinh nghiệm để đánh giá, kết luận, hay
sáng tạo ý tưởng mới.
- Môi trường thảo luận phải thuận lợi, an toàn, thoải mái để tất cả học sinh đều có
cơ hội bày tỏ những ý kiến, quan điểm và chính kiến của mình.
-


Người dẫn chương trình phải khéo léo dẫn dắt, khêu gợi sự

mạnh dạn, tự tin, tích cực của mọi học sinh trong lớp để thảo luận sơi nổi và có
hiệu quả. Cần tơn trọng ý kiến của các thành viên trong thảo luận.
-

Nếu gặp khó khăn (trường hợp khơng thống nhất ý kiến…) cần

mời người cố vấn hay giáo viên giải đáp (người cố vấn hay giáo viên đóng vai
trị là người trọng tài khoa học cho học sinh trong quá trình thảo luận).
Ví dụ: chuyên đề về tác hại của ma túy đối với học đường, tình bạn khác giới,
tình yêu ở lứa tuổi học sinh,...
Nên giao lần lượt cho các tổ học sinh chủ trì thảo luận, các tổ khác hỗ trợ,
tham gia.
Hình thức 4: Giao lưu - đối thoại với người trong cuộc
Là hình thức tổ chức hoạt động giáo dục nhằm tạo ra các điều kiện để học
sinh được tiếp xúc, trị chuyện và trao đổi thơng tin với những nhân vật điển
hình, với người thật, việc thật trong các lĩnh vực hoạt động nào đó. Sinh hoạt lớp
dưới hình thức giao lưu có thể tổ chức nhân các ngày lễ lớn của dân tộc hay của
lứa tuổi học sinh... Khi tiến hành tổ chức hoạt động giao lưu cần lưu ý:
- Những vấn đề trao đổi, giao lưu phải thiết thực, liên quan đến lợi ích và hứng
thú của học sinh, đáp ứng nhu cầu của các em. Thu hút đông đảo học sinh tham gia.
- Người chủ trì cần có buổi làm việc trước với chun gia về mục tiêu, nội
dung buổi nói chuyện, đặc điểm của đối tượng giao lưu như tuổi, lớp, những vấn đề
19


được học sinh quan tâm nhất hoặc đang vướng mắc; quy mô tổ chức, phương thức
tiến hành…

- Khi tiến hành giao lưu, cần kết hợp trò chuyện giữa người dẫn chương
trình với khách mời giao lưu và trao đổi, trị chuyện giữa khách mời với người
tham dự buổi giao lưu…
Ví dụ: Gặp gỡ giao lưu với bà mẹ Việt Nam anh hùng hay các anh hùng
nhân ngày Quốc Khánh, ngày giải phóng miền Nam; Với chuyên gia nói chuyện
về tác hại của ma túy hay tư vấn hướng nghiệp; Với các học sinh là thủ khoa các
năm học trước; Với thầy cơ giáo cũ nhân ngày 20/11…
Hình thức 5: Tổ chức các cuộc thi (văn nghệ, hiểu biết khoa học, học sinh
thanh lịch...)
Các cuộc thi là một hình thức tổ chức họat động giáo dục, trong đó tạo ra
sân chơi hấp dẫn, mang tính thi đua, cạnh tranh giữa học sinh hoặc các nhóm
học sinh để các em có cơ hội thể hiện tài năng, vẻ đẹp, cùng nhau chia sẻ, tiếp
nhận những kiến thức có liên quan đến chủ đề đã được lựa chọn.
Đây là hình thức tổ chức họat động tổng hợp nhiều loại hình, địi hỏi thời gian
chuẩn bị công phu... Công tác chuẩn bị phải tiến hành.
Một số điều lưu ý
- Công tác chuẩn bị phải tiến hành trước khi diễn ra cuộc thi từ 10 – 15 ngày.
- Trước khi tiến hành hội thi 1 ngày, cần kiểm tra lần cuối công tác chuẩn bị.
- Tạo khơng khí sơi nổi, phấn khởi cho hội thi thông qua chỉnh trang lớp học và
nơi diễn ra hội thi, âm nhạc và các phương tiện âm thanh…
- Họp ban giám khảo (BGK) để phổ biến biểu điểm, quy cách chấm và tính
điểm, xác định các yêu cầu đối với BGK và quy trình hoạt động của BGK hội thi.
3.3.5: Đổi mới trong các bước thực hiện tiết sinh hoạt lớp cuối tuần:
* Bước chuẩn bị :
Thực hiện khâu chuẩn bị trước khi tiến hành tiết sinh hoạt lớp cuối tuần:
Trước hết, xin được nhấn mạnh tầm quan trọng của khâu chuẩn bị trước khi tiến
hành tiết sinh hoạt trên lớp. Có thể nói yếu tố quyết định thành công hay thất bại

20



của giờ sinh hoạt lớp cuối tuần theo hướng đổi mới chính là ở khâu này. Cả giáo
viên chủ nhiệm và học sinh cùng hợp tác để làm tốt khâu chuẩn bị.
Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp (tìm kiếm nhân sự, phương pháp làm việc,
hệ thống sổ sách ...)
Xây dựng kế hoạch chung cho việc thực hiện các tiết sinh hoạt lớp cuối
tuần trong cả năm học: chuẩn bị về các nội dung hoạt động, phương pháp và
hình thức thực hiện các hoạt động ...
Chuẩn bị nguồn tài chính hỗ trợ cho các hoạt động ở tiết sinh hoạt lớp
cuối tuần.
Thiết lập các mối quan hệ mật thiết với phụ huynh học sinh.
Chú ý: Những việc trên cần được giáo viên chủ nhiệm và học sinh thảo luận rồi
nhất thiết phải được trình bày một cách khéo léo, cụ thể ở cuộc họp đầu năm để
phụ huynh học sinh cùng thống nhất, chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ.
Kế hoạch thực hiện các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần trong từng tháng,
từng tuần: Giáo viên chủ nhiệm cần định hướng cho học sinh trong việc chuẩn
bị về cả nội dung và cách thức (Chuẩn bị cái gì? Chuẩn bị như thế nào, bằng
cách nào?) nhưng cần phát huy tối đa sự sáng tạo, tích cực của học sinh; có thể
để các em tự lựa chọn những nội dung, cách thức cụ thể, phù hợp. Cũng cần
phân công cụ thể cho các đối tượng học sinh, nhưng chủ yếu là chỉ đạo thông
qua đội ngũ cán bộ lớp.
* Bước tiến hành tiết sinh hoạt lớp cuối tuần (theo giờ phân công ở thời
khóa biểu): Học sinh được chủ động thực hiện tất cả những hoạt động trong tiết
sinh hoạt theo hướng đổi mới nội dung, đổi mới phương pháp, đổi mới hình thức
… như đã nêu ở trên.
* Bước kết thúc, rút kinh nghiệm:
Giáo viên cần thăm dò ý kiến của học sinh về các hoạt động trong tiết
sinh hoạt lớp cuối tuần để điều chỉnh, đáp ứng nhu cầu chính đáng của các em.
Có nhiều cách để nhận được thơng tin phản hồi từ phía học sinh: Giáo viên trực
tiếp trò chuyện với học sinh, yêu cầu học sinh điền phiếu, nhờ cán bộ lớp trao

đổi với các bạn ...
21


Giáo viên chủ nhiệm cùng cán bộ lớp, cùng tập thể học sinh thảo luận
tìm kiếm những cách thức để tiết sinh hoạt lớp cuối tuần luôn luôn mới mẻ, hấp
dẫn ...
4. Hiệu quả:
Tôi áp dụng tiết sinh hoạt lớp cuối tuần theo hướng đổi mới với nhiều
đối tượng trong trường THPT Tô Văn Ơn suốt từ những năm đầu chủ nhiệm đến
nay. Đã từ lâu, tôi cảm thấy mỗi tiết sinh hoạt lớp cuối tuần thật nặng nề, đơn
điệu đối với cả cơ và trị. Vì thế, từ năm đầu chủ nhiệm, tôi bắt đầu thử nghiệm
để làm mới nội dung cũng như hình thức cho tiết sinh hoạt vốn khô khan, nhàm
chán. Năm học ấy, tôi cùng với tập thể lớp 11B3 đã trải nghiệm những giây phút
thú vị, tuy nhiên cịn khá hiếm hoi vì cơ trị chưa mạnh dạn, hơn nữa cũng chưa
có nhiều kinh nghiệm để đều đặn đổi mới những tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.
Những năm học tiếp theo, tôi lần lượt chủ nhiệm lớp 10B6, 11B6, 10A7, 10A8,
11B8 và số lượng tiết sinh hoạt lớp cuối tuần được đổi mới đã xuất hiện nhiều
hơn. Minh chứng cụ thể là những lớp mà tơi đã chủ nhiệm ln đạt thành tích
cao trong học tập cũng như thi đua. Ln là những chi đồn vững mạnh, thuộc
tốp 3 trong các hoạt động phong trào mà nhà trường và Đoàn thanh niên tổ chức.
Các lớp ở những năm học nêu trên thuộc nhiều đối tượng học sinh, có lớp
nhiều học sinh khá giỏi, có lớp nhiều học sinh yếu kém, thậm chí là nhiều học
sinh cá biệt, quậy phá ... nhưng qua thực tế trải nghiệm, tơi nhận thấy đều có thể
áp dụng đổi mới tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.
Năm học này (2019 - 2020), tôi chủ nhiệm lớp 12C4. Những tiết sinh
hoạt lớp cuối tuần tiếp tục được đổi mới, ngày càng phong phú hơn, hấp dẫn, bổ
ích hơn. Và đến thời điểm hiện tại, tơi nhận thấy rằng, lớp 12C4 đã có những
tiến bộ vượt bậc so với đầu năm.


Học lực và hạnh kiểm đầu năm:
Học lực

Hạnh kiểm
22


G
0
0%

K
Tb
15
19
44,12% 55,88%

Y
0
0%

Kém
0
0%

T
K
Tb
25
8

1
73,53% 23,53% 2,94%

Y
0
0%

Học lực và hạnh kiểm học kỳ I:
G
0
0%

Học lực
K
Tb
15
19
44,12% 55,88%

Y
0
0%

Kém
0
0%

Hạnh kiểm
T
K

Tb
27
7
0
79,41% 20,59% 0%

Y
0
0%

Học lực và hạnh kiểm cuối học kỳ II (dự kiến):
G
0
0%

Học lực
K
Tb
24
10
70,59% 29,41%

Y
0
0%

Kém
0
0%


Hạnh kiểm
T
K
Tb
31
3
0
91,18% 8,82% 0%

Y
0
0%

Đây là một kết quả đáng mừng, thể hiện rằng đa số các em đều ngoan
ngỗn, khơng có em nào vi phạm về chuẩn mực hành vi đạo đức.
Đối với học tập, các em tiến bộ rõ rệt, nhất là các em yếu (cuối năm lớp
11 thi lại) thì ở học kỳ I lớp 12 đã vươn lên trung bình như: N.T.N; N.M.D;
N.C.H; P.A.V, L.N.T.N. Hoặc các em trung bình thì vươn lên khá như: P.N.S;
L.T.P; H.D.H; T.T.Đ.K;
Về thực hiện nội quy nhà trường: Đồng phục đầu tóc được nhắc nhở ngay
nên các em thực hiện khá tốt. Đầu năm, bạn N.C.H và H.D.H có vi phạm nhiều
nội quy, như tham gia gây gỗ, nghỉ học nhiều,... nhưng đã chấn chỉnh kịp thời và
khơng tái phạm.
Về thực hiện an tồn giao thông so với đầu năm các em đã thực hiện tốt
hơn, khơng cịn tình trạng đi xe máy đến trường, hoặc đi xe đạp điện không đội
mũ bảo hiểm, đi hàng hai, hàng ba trên đường ….
Về các hoạt động thi đua: Từ đầu năm lớp thường xuyên nhận xếp loại thi
đua thấp nhất, nhưng đến nay đã vươn lên tốp đẫn đầu.
Về nhiều hoạt động phong trào do Đoàn trường tổ chức bước đầu các em
tham gia đã có kết quả như thi văn nghệ, viết thư pháp, bóng chuyền, bóng đá,...

23


Tôi xin mô tả một số hoạt động đã được tổ chức trong tiết sinh hoạt lớp
cuối tuần theo hướng đổi mới mà tôi và các em học sinh đã thực hiện trong năm
học 2019 -2020. Đây chỉ là những gợi ý để quý đồng nghiệp và các em học sinh
tham khảo, vận dụng một cách linh hoạt.
 Sinh hoạt học tập:
- Mục đích: giúp học sinh củng cố kiến thức các môn được học trong nhà
trường; mở rộng kiến thức xã hội, rèn luyện kỹ năng sống.
- Cách thức:
+ Phân cơng cơng việc, vai trị đảm nhiệm cho các đối tượng học sinh trong lớp.
Thường xuyên luân phiên để học sinh được trải nghiệm trong các vai trò khác
nhau.
+ Phân công biên soạn, tuyển chọn nội dung kiến thức cần củng cố, ôn tập.
Giáo viên chủ nhiệm chỉ dạy và am hiểu sâu một mơn mà mình giảng
dạy cho nên khó bao quát nội dung do các em biên soạn. Do đó, tơi đã hướng
dẫn các em rất kĩ lưỡng về quy trình biên soạn, thẩm định câu hỏi, bài tập và đáp
án để giảm thiểu tối đa những sai sót. Ví dụ như cần dựa vào những nguồn tài
liệu đáng tin cậy, tham khảo giáo viên bộ môn khi cần thiết.
Không nhất thiết lúc nào cũng phân công học sinh khá, giỏi biên soạn
mà có thể huy động cả lớp tham gia, kể cả học sinh trung bình, yếu kém để
nguồn đề và đáp án phong phú cũng như không quá dồn việc vào một số em.
Tất nhiên khâu tuyển chọn thì phải có học sinh khá, giỏi làm nịng cốt để
đảm bảo độ chính xác và chất lượng của chương trình sinh hoạt học tập.
+ Ban tổ chức chọn những hình thức tổ chức vừa vui vừa học để tránh làm cho
học sinh thêm quá tải, căng thẳng sau cả tuần học như đố vui, hội thi, trị chơi,...
Phần này tơi phát huy cao độ tính tích cực, tinh thần chủ động, sáng tạo
của học sinh bởi thực ra tuổi trẻ vô cùng nhanh nhạy với cái mới nên các em
nghĩ được khá nhiều hình thức mới mẻ, hấp dẫn.

+ Phân công chuẩn bị những vật dụng cần thiết như bảng phụ, phiếu học tập,
bảng con, bảng chấm điểm, bàn ghế, đồ trang trí...(Tập hợp sức mạnh tập thể,
mỗi em mỗi việc)
24


+ Về thời lượng: tùy thời điểm trong năm học, tùy đối tượng học sinh và tình
hình lớp mà chọn thời lượng cho hoạt động này một cách phù hợp. Có khi thực
hiện trong cả tiết, cũng có khi chỉ xen kẽ với các hoạt động khác trong một thời
lượng ngắn ...
- Kết quả: Học sinh rất hào hứng tham gia với nhiều vai trò khác nhau như cố
vấn chương trình, giám khảo, ban tổ chức, MC, thí sinh, nhà tài trợ, khán giả ...
Tôi xin giới thiệu một số hoạt động học tập đã thực hiện cụ thể trong
các tiết sinh hoạt lớp cuối tuần như: Đố vui Toán học, Vui cùng Tiếng Anh,
Cùng học ngữ văn,...
- Chỉ đạo chung và giữ vai trò nòng cốt là em Nguyễn Văn Hồn (lớp phó học
tập) và Nguyễn Nhật Thiên (lớp trưởng). Bên cạnh đó, có sự tham gia tích cực
của cả lớp.
- Lớp 12C4 thường tổ chức theo hình thức Hái hoa dân chủ, Đố vui để học,...
+ Đối với mơn Tốn, các em hay chuẩn bị các câu hỏi liên quan đến tốn, hoặc
các câu đố vui ( có sự cố vấn của giáo viên chủ nhiệm). Lớp chia thành 4 đội (4
tổ). Đội nào trả lời đúng 1 câu sẽ được 1 điểm. Đội nào có số điểm cao nhất sẽ
chiến thắng.
Ví dụ một số câu đố vui Toán học sau:
Câu 1: Thiện được nghỉ học, ở nhà rủ Vũ giải các bài tốn xếp hình bằng
que diêm. Sau vài câu khá dễ, Thiện chỉ một câu mới cho Vũ: – Em xem, câu
này cũng thú vị đấy chứ. Vũ ghé mắt vào nhìn rồi đọc to: – Hãy dùng 3 que
diêm để xếp thành một số lớn hơn 3 nhưng nhỏ hơn 4. Vũ loay hoay một lúc vẫn
chưa tìm ra, đành nhờ anh giải giúp. Vậy Thiện đã làm thế nào nhỉ?
Đáp án: Bạn dùng 3 que để xếp thành số pi (3 < 3.14 < 4).

Câu 2: Lan đến nhà Thanh chơi gặp lúc mẹ Thanh đang chuẩn bị làm cỗ
cúng rằm. Biết mẹ Thanh nấu ăn rất giỏi, nên Lan tò mò xuống bếp xem. Lan
thấy bác bày biện bao nhiêu là rau quả, thịt cá… trên bàn, để chuẩn nấu nướng.
Lan chợt chú ý tới 5 chiếc bát thủy tinh đựng nước để trên cái bàn nhỏ. Thấy
Lan tỏ rõ sự tò mò, mẹ Thanh mỉm cười: – Đây là 5 bát gia vị: rượu trắng, nước
muối, dấm, nước đường, nước sôi. Chúng đều trong suốt, khơng màu và có thể
uống được. Mỗi bát này, cháu chỉ được thử một lần duy nhất, thì liệu cháu có
25


×