Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Giải pháp phát triển kinh tế tập thể ở Việt Nam thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.59 KB, 8 trang )

NGÀNH KINH TẾ

Giải pháp phát triển kinh tế tập thể ở Việt Nam
thời kỳ hội nhập
Development solutions for collective economic in Vietnam
period of integration
Trần Thị Hằng
Email:
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 18/12/2019
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 5/3/2020
Ngày chấp nhận đăng: 30/3/2020

Thị Hằng

Tóm tắt
Hội nhập kinh tế quốc tế với sự hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN và các hiệp định tự do thương mại
đã tạo áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi các khu vực kinh tế, trong đó có khu vực Kinh tế tập
thể phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, phát triển Kinh tế tập thể cịn gặp nhiều khó
khăn, cản trở lớn do quy mơ vốn nhỏ, quy mô sản xuất nhỏ, sức tiêu thụ của thị trường giảm. Nghiên cứu
này nhằm đánh giá thực trạng phát triển Kinh tế tập thể tại Việt Nam qua đó đưa ra một vài giải pháp hữu
ích giúp nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi thế cạnh tranh nhằm phát triển khu vực kinh tế này.
Từ khóa: Kinh tế tập thể; hợp tác xã; thời kỳ hội nhập.
Abstract
International economic integration with the formation of the ASEAN Economic Community and free trade
agreements has created increasing pressure on competition to require economic sectors, including
the collective economic sector must improve our competitiveness. However, the development of the
collective economy still faces many difficulties and major obstacles due to small capital size, small scale
of production, and reduced consumption of the market. This study aims to assess the current situation of
collective economic development in Vietnam, thereby offering some useful solutions to improve operational
efficiency and competitive advantage to develop this economic sector.


Keywords: Collective economic; cooperation; period of integration.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kinh tế tập thể (KTTT) được khẳng định là một bộ
phận không thể thiếu trong nền kinh tế, hiện đang
đóng góp 10% GDP của cả nước và đặc biệt có vai
trị quan trọng trong mục tiêu kinh tế tăng trưởng
bền vững, xây dựng nông thơn mới, giảm nghèo
và cải thiện mơi trường. KTTT có vai trò quan trọng
với nền kinh tế - xã hội. Thực tế đã chứng minh,
trong mỗi giai đoạn phát triển, KTTT ln ln có
đóng góp quan trọng. Bước sang thời kỳ đổi mới,
KTTT mặc dù cịn nhiều khó khăn nhưng vẫn luôn
nỗ lực, tự đổi mới vươn lên và ngày càng thể hiện
đúng vai trò, bản chất HTX, đặc biệt là từ khi có

Luật HTX năm 2012 đã thể hiện được tư duy mơ
hình HTX kiểu mới, hạt nhân là hợp tác, góp phần
hồn thiện quan hệ sản xuất, phù hợp với nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh
ngày càng gay gắt. Đến nay, KTTT có nhiều chuyển
biến, nhiều loại hình phát triển đa dạng trên các lĩnh
vực, từng bước phát huy hiệu quả, góp phần xây
dựng nông thôn mới, giảm nghèo, nâng cao đời
sống nhân dân và phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, điều đó khẳng định Nghị quyết 13 là một chủ
trương đúng đắn đã giúp các HTX từng bước thốt
khỏi tình trạng yếu kém.

Người phản biện: 1. PGS.TS. Lưu Ngọc Trịnh

2. TS. Nguyễn Minh Tuấn

Theo đánh giá của ông Đào Xuân Cần, Chủ tịch
Liên minh HTX Việt Nam, 10 năm qua, khu vực
KTTT đã và đang tiếp tục phát triển cả về số lượng,

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020

61


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
chất lượng và hiệu quả. Kinh tế tập thể đã phát
triển trên tất cả các lĩnh vực nông - lâm - ngư diêm nghiệp, giao thông vận tải, quản lý chợ, dịch
vụ thương mại, vệ sinh môi trường, HTX trường
học, y tế, du lịch trên khắp các tỉnh, thành, địa bàn
của cả nước. Khu vực này đã góp phần quan trọng
trong giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội,
xố đói, giảm nghèo, bảo vệ mơi trường, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nông thôn mới thời
kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Năm 2019, cả nước có khoảng 1.500 HTX sản
xuất, kinh doanh gắn với chuỗi giá trị thị trường
trong nước và nước ngồi, áp dụng cơng nghệ cao,
tiêu chuẩn vệ sinh an toàn sản phẩm, ký kết hoạt
động tiêu thụ sản phẩm dài hạn với doanh nghiệp.
Các HTX đã giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau, trao đổi
kinh nghiệm sản xuất, hỗ trợ giống, vốn, kỹ thuật,
thông tin và tiêu thụ sản phẩm,… góp phần chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập,
giảm nghèo cho người dân địa phương.
Từng bước trưởng thành và khẳng định được hiệu
quả của mơ hình kinh tế, trong số hơn 19.500 HTX
và 369.000 tổ hợp tác, đến nay, số HTX hoạt động
hiệu quả thuộc loại khá, giỏi chiếm 55% trở lên, hầu
như không cịn HTX tồn tại hình thức, khơng hoạt
động. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực HTX
đạt mức 6,5 - 7,5%/năm. Trong đó có khoảng 100
HTX được coi là có quy mơ lớn. Tổng giá trị tài sản
của những HTX này khoảng 5.873 tỷ đồng, bình
qn mỗi HTX có 58 tỷ đồng, thu hút sự tham gia
của 133.000 xã viên, trực tiếp giải quyết việc làm
cho 43.568 lao động [6]. Để đạt được kết quả sản
xuất kinh doanh khả quan, các HTX phải vượt qua
nhiều khó khăn, cản trở lớn do quy mô vốn nhỏ, quy
mô sản xuất nhỏ, sức tiêu thụ của thị trường giảm.
2. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TẬP THỂ Ở VIỆT NAM
2.1. Chủ trương, pháp luật về phát triển Kinh tế
tập thể
KTTT là một trong 5 thành phần kinh tế nước ta,
KTTT với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà
nịng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các
thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những
người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần
kinh tế, không giới hạn qui mô, lĩnh vực và địa bàn
(trừ một số lĩnh vực có quy định riêng); phân phối
theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia

dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu
trách nhiệm [2].

Phát triển KTTT là một chủ trương lớn của Ðảng
và Nhà nước, đồng thời đây cũng là sự nghiệp hết
sức khó khăn, phức tạp địi hỏi phải kiên trì. Nghị
quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Hội nghị
lần thứ 5 Trung ương khóa IX nêu rõ quan điểm cơ
bản cho phát triển mơ hình tổ chức HTX ở nước ta
là: “KTTT với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà
nịng cốt là HTX, dựa trên sở hữu của các thành
viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những
người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần
kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa
bàn”. Mục tiêu là “đưa kinh tế tập thể thoát khỏi
những yếu kém hiện nay, phấn đấu đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn, tiến tới có tỷ trọng ngày càng lớn
hơn trong GDP của nền kinh tế” [4]. Sau 15 năm
triển khai Nghị quyết, Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách nhằm
củng cố và nâng cao hiệu quả của HTX.
Luật Hợp tác xã 2003, được Quốc hội thông qua tại
kỳ họp thứ IV - khóa XI ngày 26/11/2003 và có hiệu
lực kể từ ngày 01/7/2004, đã xây dựng khung khổ
pháp luật cho HTX phát triển, tạo môi trường pháp
lý thuận lợi cho sự thành lập và phát triển HTX phù
hợp với cơ chế thị trường và quá trình hội nhập
quốc tế. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đã ban
hành 12 nghị định, quyết định thi hành Luật HTX;

các bộ ngành đã ra 39 thông tư, văn bản hướng
dẫn thực hiện các nghị định, quyết định của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Luật Hợp tác xã 2012, được Quốc hội thông qua vào
ngày 20/11/2012, chính thức có hiệu lực từ ngày
01/7/2013, tiếp tục làm rõ bản chất, nguyên tắc, tổ
chức hoạt động của HTX, tạo hành lang pháp lý
quan trọng, hoàn chỉnh hơn, tạo điều kiện thuận lợi
cho HTX hoạt động và phát triển. Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 193/2013/NĐ-CP về hướng dẫn
thi hành Luật HTX, Nghị định 107/2017/NĐ-CP sửa
đổi Nghị định 193/2013/NĐ-CP. Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày
15/12/2014 về Chương trình hỗ trợ phát triển HTX
giai đoạn 2015 - 2020. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
ban hành Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT hướng
dẫn triển khai thi hành Luật. Ngồi ra, Chính phủ,
các bộ, ngành cịn ban hành các chính sách có liên
quan đến phát triển kinh tế tập thể như: Quyết định
số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 về khuyến
khích hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ
nông sản, xây dựng cánh đồng lớn; Quyết định số
710/QĐ-BNN-KTHT ngày 10/4/2014 phê duyệt Kế
hoạch đổi mới, phát triển các hình thức tổ chức
kinh tế hợp tác trong nơng nghiệp.

62 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020


NGÀNH KINH TẾ

Trên cơ sở Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị
quyết số 13-NQ/TW (khóa IX) Ban Bí thư đã ra Chỉ
thị số 20-CT/TW ngày 02/01/2008 về tăng cường
lãnh đạo, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa
IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả KTTT. Để triển khai thực hiện Chỉ thị số 20-CT/
TW ngày 02/1/2008, Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 1252/QĐ-TTg ngày 18/9/2007 về việc hỗ
trợ từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa
phương để thực hiện xóa nợ đọng của các HTX.
Và Nghị định số 151/2007NĐ-CP ngày 10/10/2007
về tổ chức và hoạt động của tổ hợp tác, ban hành
12 Nghị định và Quyết định về thi hành pháp luật
đối với KTTT.
Phát triển KTTT là đường lối chiến lược nhất quán
trong mọi giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà
nước ta. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã đề ra
nhiều quan điểm và chủ trương về đổi mới tổ chức
hợp tác xã.
Tính đến nay, liên quan trực tiếp tới việc triển khai
thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012, Chính phủ đã
ban hành 05 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban
hành 05 quyết định và 02 chỉ thị, các bộ, ngành ban
hành 13 thông tư, 03 quyết định, 01 chỉ thị. Ngồi
ra, Chính phủ đã ban hành 08 Nghị định, Thủ tướng
Chính phủ ban hành 09 quyết định, các bộ, ngành
ban hành 06 thông tư, 03 quyết định và 01 chỉ thị
theo lĩnh vực được phân công quản lý, trong đó có
các nội dung liên quan hỗ trợ triển khai Luật Hợp
tác xã năm 2012. Mặc dù một số văn bản còn ban

hành chậm so với yêu cầu nhưng đến nay, về cơ
bản hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng
dẫn thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012 đã được
ban hành theo các nhiệm vụ chính được phân
công tại Luật Hợp tác xã năm 2012, Nghị định số
193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định chi tiết
một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012 [6].
Ở các địa phương, tỉnh ủy, HĐND, UBND các cấp
cũng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai
thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012 trên địa bàn
dưới nhiều hình thức. Đã có 53/63 tỉnh, thành phố
ban hành nghị quyết, kết luận, chỉ thị của tỉnh ủy,
HĐND tỉnh, toàn bộ 63/63 tỉnh, thành phố có quyết
định, chỉ thị, văn bản của UBND tỉnh về triển khai
thi hành Luật Hợp tác xã 2012. Tại 61/63 tỉnh có kế
hoạch, chương trình, đề án nhằm phát triển kinh
tế tập thể, hợp tác xã và 42/63 tỉnh, thành phố có
chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể theo đặc
thù của địa phương. Qua đó cho thấy sự quan tâm
chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong
việc đẩy mạnh cơng tác thực thi Luật Hợp tác xã
năm 2012 và các văn bản hướng dẫn, góp phần

khuyến khích khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã
phát triển.
2.2. Chính sách hỗ trợ phát triển Kinh tế tập thể
Theo quy định của Luật Hợp tác xã năm 2012, Nhà
nước có 6 chính sách hỗ trợ đối với hợp tác xã,
Liên hiệp Hợp tác xã (Đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực; Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường;

Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới;
Tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã;
Tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu,
chương trình phát triển kinh tế - xã hội; Thành lập
mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã), 2 chính sách
ưu đãi (Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp và các
loại thuế khác theo quy định của pháp luật về thuế;
Ưu đãi lệ phí đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí).
Riêng đối với hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã hoạt
động trong lĩnh vực nơng nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, diêm nghiệp, ngồi việc được hưởng chính
sách hỗ trợ, ưu đãi quy định nêu trên, cịn được
hưởng 5 chính sách hỗ trợ, ưu đãi khác (Đầu tư
phát triển kết cấu hạ tầng; Giao đất, cho thuê đất
để phục vụ hoạt động của hợp tác xã, Liên hiệp
hợp tác xã theo quy định của pháp luật về đất đai;
Ưu đãi về tín dụng; Vốn, giống khi gặp khó khăn do
thiên tai, dịch bệnh; Chế biến sản phẩm).
Các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể
được ban hành khá tồn diện, có tác động tích cực
đến phát triển KTTT. Các tỉnh, thành phố đã ban
hành quyết định, kế hoạch, đề án đổi mới, phát triển
các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác, vận dụng các
chủ trương, chính sách của Nhà nước về phát triển
HTX, phù hợp với điều kiện của địa phương.
Luật Hợp tác xã năm 2012 và các văn bản pháp
luật có liên quan đã tạo ra sự thay đổi trong tư duy
về bản chất HTX và cách thức tổ chức hoạt động
của HTX theo nguyên tắc thị trường. Khuyến khích

phát triển HTX kiểu mới, đúng bản chất HTX, mở
rộng phạm vi, đối tượng tham gia, tạo cơ chế chính
sách phù hợp cho HTX, liên hiệp HTX phát triển,
bước đầu đã có những tác động tích cực. Các HTX
đang dần tự đổi mới, hỗ trợ thành viên tổ chức sản
xuất kinh doanh, là chỗ dựa vững chắc cho các
thành viên, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần của thành viên, góp phần phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước [1].
Tuy nhiên, hệ thống cơ chế, chính sách ban hành
nhiều, nhưng nguồn lực HTX thiếu, khó tiếp cận.
Chỉ có 8 - 10% số HTX tiếp cận được chính sách
và được hỗ trợ đất đai làm trụ sở, nhà xưởng;
18% các HTX có nhu cầu vay vốn tín dụng được

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020

63


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
vay vốn, trung bình với mức vay là 326 triệu đồng/
HTX [6]. Nguồn kinh phí đầu tư hỗ trợ phát triển
HTX cịn thấp, chưa bố trí đủ theo yêu cầu. Sự hỗ
trợ, giúp đỡ của Nhà nước chưa đủ mạnh, chưa
có tác động tích cực thúc đẩy kinh tế tập thể phát
triển. Những địa phương nghèo, ngân sách do
Trung ương cân đối, nguồn ngân sách thực hiện
các quy định pháp luật, chính sách hỗ trợ đối với
KTHT hết sức khó khăn.

3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP
THỂ Ở VIỆT NAM
3.1. Tình hình phát triển Kinh tế tập thể
Theo báo cáo của Liên minh HTX Việt Nam, tại

thời điểm 31/12/2018, cả nước có 103.435 tổ hợp
tác. Trong đó, có 69.520 tổ hợp tác hoạt động trên
lĩnh vực nông nghiệp (chiếm 67,2%/tổng số tổ hợp
tác), 33.915 tổ hợp tác hoạt động trên lĩnh vực phi
nông nghiệp (chiếm 32,8%/tổng số tổ hợp tác cả
nước). Tới năm 2019 số lượng các tổ hợp tác,
HTX tăng cao so với năm 2018. Cụ thể, cả nước
thành lập 9.500 tổ hợp tác, tăng 11% so với năm
2018, đạt 136% so với kế hoạch. So với thời điểm
31/12/2003, số tổ hợp tác tăng 17.840 tổ hợp tác.
Trong đó, tổ hợp tác trong nơng nghiệp tăng 6.126
tổ, phi nông nghiệp tăng 1.714 tổ. Trong 15 năm
qua đã có khoảng 1.200 tổ hợp tác chuyển thành
HTX [5].

Biểu đồ 1. Số lượng tổ hợp tác giai đoạn 2003-2020
Có thể thấy, năm 2019, khu vực KTTT phát triển
nhanh cả về số lượng và chất lượng. Sự phát triển
của KTTT đã góp phần vừa đạt mục tiêu đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT, vừa góp
phần hồn thành tiêu chí số 13 xây dựng nơng thơn
mới. Dự kiến tới năm 2020, Liên minh HTX Việt
Nam đạt mục tiêu thành lập mới ít nhất 5.000 tổ
hợp tác, trên 2.500 HTX, 20 liên minh HTX; tổng
số HTX hoạt động có hiệu quả đạt trên 60% tổng

số HTX;…
Hiện nay khu vực tổ hợp tác thu hút 1.285.106 thành
viên, tạo việc làm thường xuyên cho 1.091.015 lao
động, doanh thu bình quân của một tổ hợp tác năm
2018 là 230 triệu đồng/năm, lãi bình quân là 35
triệu đồng/năm, thu nhập bình quân cho một lao
động thường xuyên trong tổ hợp tác là 26 triệu
đồng/năm. So với thời điểm năm 2003 tỷ lệ tăng
tương ứng là: Số lượng thành viên tăng 8,1%, số
lao động làm việc cho tổ hợp tác tăng 11,2%, doanh
thu bình quân tăng 5,1%, lãi bình quân tăng 3,1%
và thu nhập bình quân của người lao động làm việc
trong tổ hợp tác tăng 21% so với năm 2003.
Tổ hợp tác đa dạng về tên gọi và hình thức hoạt
động, như: tổ dịch vụ, tổ chị em vay vốn, hội quán
(Đồng Tháp), câu lạc bộ ngành nghề, sản phẩm,

hội trang trại,… để tương trợ nhau khuyến nông,
khuyến công,... Tổ hợp tác chủ yếu hoạt động theo
mùa vụ (giúp nhau làm đất, thu hoạch,...) hoặc theo
vụ việc (vay vốn). Có khoảng 30% tổ hợp tác có lao
động làm việc thường xuyên trong tổ hợp tác và
có hưởng tiền cơng, tiền lương theo hợp đồng lao
động từ tổ hợp tác.
Cơ chế tổ chức quản lý tổ hợp tác từng bước được
hoàn thiện và chặt chẽ hơn; số tổ hợp tác có tài sản
dùng chung, thành viên tham gia góp vốn, góp sức,
có quy chế nội dung hoạt động, có sự chứng thực
của chính quyền địa phương ngày càng tăng, đã có
nhiều tổ hợp tác phát triển lên thành hợp tác xã. Tổ

hợp tác với tư cách là tổ chức trung gian, kết nối
giữa các hộ gia đình, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ trước
khi phát triển thành hợp tác xã hoặc doanh nghiệp,
là hình thức sản xuất rất phù hợp với tình hình và
điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, đặc biệt là khu
vực nơng nghiệp, nơng thơn. Đây là mơ hình kinh tế
hợp tác không quá phức tạp, quy mô không lớn; là
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh và dịch vụ
tự nguyện; được hình thành trên cơ sở nhu cầu của
các hộ kinh doanh và người lao động; thuận tiện
trong việc liên kết, hợp tác với các thành viên và đủ
điều kiện để áp dụng sản xuất theo chuỗi giá trị sản

64 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020


NGÀNH KINH TẾ
phẩm; phù hợp với xu hướng phát triển chung; là
tiền đề và cơ sở cho phát triển doanh nghiệp quy
mô lớn, ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao.
Tuy nhiên, q trình phát triển THT cịn một số hạn
chế như số tổ hợp tác có đăng ký với chính quyền
địa phương hiện nay chỉ chiếm khoảng 39% tổng
số tổ hợp tác cả nước, THT hoạt động mà khơng
có điều lệ (chỉ có hợp đồng hợp tác) do đó thiếu tính
bền vững. Hoạt động THT chủ yếu theo mùa vụ, vụ
việc, nên hiệu quả kinh tế chưa cao (chỉ có khoảng
30% tổ hợp tác có lao động làm việc thường xuyên,
thu nhập của tổ hợp tác rất thấp, bình quân khoảng
230 triệu đồng/THT/năm; thu nhập bình quân của

người lao động khoảng 26 triệu đồng/người/năm,
thấp hơn nhiều so với mặt bằng xã hội hiện tại).

Tính liên kết, hợp tác trong tổ hợp tác (giữa tổ viên
với tổ viên, giữa tổ hợp tác với tổ viên) và giữa tổ
hợp tác với tổ hợp tác khác và với các thành phần
kinh tế khác hạn chế dẫn đến năng lực cạnh tranh
của tổ hợp tác rất yếu.
3.2. Tình hình phát triển HTX
Đến cuối năm 2018, cả nước có 22.568 HTX (tăng
7.641 HTX, tương ứng 34% so với năm 2003).
Trong đó, có 13.712 HTX nơng nghiệp (trồng trọt,
chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp),
7.563 HTX phi nông nghiệp (công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, thương mại - dịch vụ, vận tải, xây
dựng, nhà ở, dược, trường học, tin học,...), 1.183
quỹ tín dụng nhân dân [6].

Biểu đồ 2. Số lượng phát triển ở các khu vực, vùng miền năm 2018
Trong năm 2019, cả nước thành lập mới 2.640
HTX, tăng 12% so với năm 2018, vượt 6% so với
kế hoạch. Đưa tổng số HTX cả nước lên 24.618
HTX, trong đó có 15.495 HTX nơng nghiệp, chiếm
64,1%; 2.435 HTX công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, chiếm 9,9%.
Số HTX thành lập mới chủ yếu trong các lĩnh vực
nông nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
thương mại, dịch vụ và tập trung chủ yếu ở các
thành phố lớn, các tỉnh Nam Bộ, Bắc Trung Bộ
và một số tỉnh trung du miền núi phía Bắc, Tây

Nguyên; xuất hiện một số hợp tác xã được thành
lập trong các ngành nghề, lĩnh vực mà trước đây
chưa có, như: hợp tác xã vệ sinh môi trường, kinh
doanh, khai thác và quản lý chợ; một số hợp tác
xã mới được thành lập với xã viên thuộc nhóm đối
tượng xã hội khác nhau, của phụ nữ, thanh niên,
những người tàn tật, cựu chiến binh,...
Quy mô, vốn và loại hình HTX mới phát triển nhiều
hơn. Quy mô tổ chức và hoạt động của HTX hiện
nay được mở rộng hơn, nhiều hợp tác xã nhỏ
cấp thôn được hợp nhất thành HTX quy mơ tồn
xã (khu vực đồng bằng sông Hồng và sông Cửu
Long). Vốn hoạt động của HTX tăng đáng kể, hiện

nay bình qn 1 HTX có vốn hoạt động là khoảng
2,6 tỷ đồng/1HTX (so với 470 triệu đồng/HTX năm
2003). Các loại hình hợp tác xã mới được thành
lập nhiều hơn, tại thời điểm 31/12/2018 cả nước
có khoảng 600 hợp tác xã môi trường, 317 hợp
tác xã kinh doanh quản lý chợ, 7 hợp tác xã nhà
ở, 11 hợp tác xã trường học,... Số lao động làm
việc thường xuyên trong các hợp tác xã tăng. Tại
thời điểm 31/12/2018 có khoảng 2.400.000 lao
động làm việc thường xuyên trong các HTX (tăng
khoảng 400.000 người so với 31/12/2003).
Tổ chức quản lý và điều hành hoạt động của hợp
tác xã từng bước được cải thiện. Tại thời điểm
31/12/2018, hầu hết các HTX được thành lập trước
khi Luật Hợp tác xã năm 2012 có hiệu lực nay cơ
bản được tổ chức lại hoặc chuyển đổi theo quy định

của Luật Hợp tác xã năm 2012. Theo đó, tất cả các
HTX được tổ chức thống nhất 2 bộ máy, gồm quản
lý HTX là Hội đồng quản trị và ban kiểm soát hoặc
kiểm soát viên; điều hành hoạt động hợp tác xã là
giám đốc/tổng giám đốc. Người đại diện theo pháp
luật của HTX là Chủ tịch Hội đồng quản trị (trước
là Trưởng Ban quản trị - chủ nhiệm HTX). Bộ máy
quản lý và điều hành hoạt động của hợp tác xã được

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020

65


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
tách bạch, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực và
tính cơng khai, minh bạch trong HTX. Một số HTX
đã hình thành doanh nghiệp của HTX (Hợp tác xã
kinh doanh tổng hợp Dương Liễu, Hà Nội, Hợp tác

xã Rạch Gầm ở Tiền Giang,...) nhằm mở rộng hoạt
động của HTX theo hướng chuyên nghiệp và từng
bước đáp ứng mọi nhu cầu của thành viên và của
thị trường.

Biểu đồ 3. Số lượng HTX hoạt động có hiệu quả
Số HTX hoạt động có hiệu quả tăng dần qua từng
năm. Năm 2003 có 5.615 HTX hoạt động hiệu
quả (chiếm 35%), năm 2013 có 6.723 HTX, chiếm
36% tổng số HTX, năm 2018 có 9.891 HTX (chiếm

44,1% tổng số HTX), hoạt động trung bình chiếm
45%, HTX hoạt động yếu kém chiếm 11%). Nhờ
triển khai đồng bộ các giải pháp, số lượng HTX
hoạt động theo luật và dần thích nghi với cơ chế
thị trường nên thống kê cho thấy, năm 2019 có trên
60% tổng số HTX hoạt động hiệu quả. Hiện nay, có
34/63 tỉnh, thành phố có tỷ lệ HTX hoạt động hiệu
quả chiếm từ 50% trở lên. Tỷ lệ HTX hoạt động
hiệu quả của vùng Tây Bắc chiếm 50%, Đông Bắc
36,2%, Đồng bằng sông Hồng 50,8%, Bắc Trung
Bộ 30,2%, Duyên Hải Nam Trung Bộ 72,3%, Tây
Nguyên 46,7%, Đông Nam Bộ 25,4%, Đồng bằng
sông Cửu Long 69,9%.
Sau khi HTX được tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã
năm 2012, HTX cung ứng nhiều dịch vụ đầu vào,
đầu ra cho thành viên với qui mô lớn hơn, đảm bảo
chất lượng vật tư, dịch vụ, giá cả thấp hơn 8% so
với hộ tư nhân. Các HTX nơng nghiệp cung ứng ít
nhất 3 dịch vụ (vật tư, tưới tiêu, khuyến nông) và
nhiều nhất 16 dịch vụ đầu vào và đầu ra cho thành
viên như giống, vật tư, tưới tiêu, khai thác cơ sở
hạ tầng, làm đất, thu hoạch, bảo quản, chế biến,...
Các HTX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp cung
ứng nguyên liệu, kỹ thuật chế biến tập trung hoặc
phân tán theo hộ gia đình và tiêu thụ sản phẩm;
HTX vận tải chủ yếu cung ứng dịch vụ làm thủ tục
hành chính cho phương tiện giao thơng của thành
viên, một số HTX vận tải đường thủy, đường bộ có
tài sản sở hữu chung lớn cung ứng đầy đủ dịch vụ
cho các thành viên; các loại hình HTX khác cung

ứng dịch vụ đầu vào, đầu ra cho thành viên, đồng
thời là người lao động.
Tuy nhiên, từ khi thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW

ngày 18/3/2002 đến nay đã có khoảng hơn 7.000
HTX giải thể, chuyển đổi sang loại hình tổ chức kinh
tế khác (doanh nghiệp, tổ hợp tác). Một số HTX
được tổ chức lại hoạt động theo Luật Hợp tác xã
nhưng chất lượng, hiệu quả hoạt động chưa được
nâng cao đáng kể (tập trung ở khu vực Đồng bằng
sông Hồng và khu vực Bắc miền Trung). Đặc biệt,
số hợp tác xã hoạt động thực sự hiệu quả, đúng
bản chất chưa nhiều (tính chung trên cả nước,
số HTX hoạt động hiệu quả là 49%, nhưng trong
nông nghiệp tỷ lệ này thấp hơn nhiều, chỉ khoảng
25-30%). Một nguyên nhân lớn dẫn tới việc hoạt
động thiếu hiệu quả của các HTX là do thiếu nguồn
vốn. Tồn quốc hiện có gần 20.000 HTX nhưng
chỉ khoảng 2% số HTX tiếp cận được vốn vay, còn
phần lớn tự xoay xở. Lý do khiến các HTX, nhất là
HTX nơng nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay được
cho là xuất phát từ cả hai phía. Về phía HTX, phổ
biến là thiếu phương án, thiếu dự án vay vốn khả
thi, cịn tài sản thế chấp khơng có, HTX quy mô
nhỏ lại nghèo cho nên thiếu vốn đối ứng,… Về phía
ngân hàng, nguyên nhân rõ nhất là sự định kiến với
các HTX kiểu cũ, thiếu niềm tin đối với HTX, mục
tiêu chủ yếu là hoạt động nhưng phải bảo tồn vốn
cho vay.
3.3. Tình hình phát triển Liên hiệp Hợp tác xã

Tại thời điểm 31/12/2018, cả nước có 74 liên hiệp
hợp tác xã (tăng 51,2% so với năm 2003). Số liên
hiệp hợp tác xã được thành lập mới bắt đầu từ năm
2017 trở lại đây (có 36 liên hiệp hợp tác xã được
thành lập trong 2 năm 2017-2018). Các liên hiệp
hợp tác xã thành lập chủ yếu ở vùng Đồng bằng
sông Hồng (18 LHHTX), Đông Nam Bộ (14 LHHTX)
và Đồng bằng sông Cửu Long (10 LHHTX),... [6].
Các LHHTX thành lập mới chủ yếu trong lĩnh vực
nông nghiệp. Các LHHTX thu hút khá nhiều thành
viên và tạo việc làm, thu nhập cho người lao động

66 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020


NGÀNH KINH TẾ
làm việc thường xuyên trong LHHTX. 74 liên hiệp
HTX thu hút 555 thành viên, tạo việc làm thường
xuyên cho khoảng 18.000 lao động với thu nhập
bình quân khoảng 5-7 triệu đồng/người/tháng.
Doanh thu bình quân 1 LHHTX đạt khoảng 15 tỷ
đồng/năm. Trong nơng nghiệp, doanh thu bình
qn khoảng 150 - 350 triệu đồng/năm. Năm 2019,
cả nước thành lập mới 16 liên hiệp HTX nhưng các
liên hiệp HTX mới thành lập gặp khơng ít khó khăn
về cơ sở vật chất (nhà làm việc, kho, nhà xưởng,
máy móc, trang thiết bị,…) do thiếu nguồn vốn góp
hoặc khơng tiếp cận được nguồn vốn vay hợp lý.
Ngồi ra, vai trị của liên hiệp HTX đối với HTX
thành viên còn mờ nhạt. Bộ máy quản lý, điều hành

hoạt động của liên hiệp HTX được tổ chức đúng
theo quy định của Luật Hợp tác xã. Hầu hết các
LHHTX đều tổ chức 2 bộ máy, gồm: Quản lý (Đại
hội thành viên - Hội đồng quản trị - Ban kiểm soát/
kiểm soát viên) và Điều hành hoạt động (Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc LH HTX).

dụng công nghệ cao. Trong thời gian tới cần tập
trung tư vấn, hỗ trợ các tổ hợp tác, HTX, LHHTX xã
ứng dụng công nghệ mới nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm. Xây dựng và nhân rộng các HTX
kiểu mới, dựa trên nhu cầu hợp tác tự nguyện của
các thành viên, vì lợi ích của thành viên, HTX và
cộng đồng. Chú trọng xây dựng các HTX kiểu mới
trong nông nghiệp ở các vùng có các sản phẩm có
lợi thế cạnh tranh. Qua đó giúp hạn chế rủi ro về mùa
vụ cho các HTX.

4. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ

Thứ ba, đẩy mạnh mơ hình liên doanh, liên kết,
hình thành các chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp và
HTX. Xây dựng mơ hình liên kết sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm: Doanh nghiệp - Hợp tác xã - Nơng
dân. Trong đó, HTX và nông dân liên kết xây dựng
vùng nguyên liệu, doanh nghiệp đầu tư nguồn vốn
cho hệ thống sản xuất và tìm kiếm thị trường tiêu
thụ sản phẩm đầu ra. Xây dựng kênh tiêu thụ mới
trong chuỗi giá trị thông qua loại bỏ bớt tác nhân
trung gian giữa người sản xuất và doanh nghiệp,

rút ngắn độ dài của kênh tiêu thụ.

Nhìn ra bối cảnh chung, Việt Nam ngày càng phát
triển không ngừng, hội nhập kinh tế quốc tế đã và
đang ngày càng sâu rộng, với sự hình thành Cộng
đồng kinh tế ASEAN và các hiệp định tự do thương
mại thế hệ mới đã tạo áp lực cạnh tranh ngày càng
gay gắt đòi hỏi các khu vực kinh tế, trong đó có khu
vực KTTT phải không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình. KTTT mặc dù đã có thành
cơng bước đầu nhưng sự phát triển còn chưa
tương xứng tiềm năng, đặc biệt trong bối cảnh hội
nhập kinh tế sâu rộng. Do đó, trong thời gian tới
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ tư, tăng khả năng tiếp cận tín dụng và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn cho LHHTX, HTX. Trong
đó, trước hết phải nâng cao năng lực các HTX tiếp
cận vốn vay, đẩy mạnh xây dựng mơ hình HTX kiểu
mới gắn với chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của địa
phương và của vùng miền. Mặt khác, cần tranh thủ
các nguồn lực tài chính từ hệ thống các quỹ Hỗ
trợ phát triển HTX ở Trung ương và hệ thống các
quỹ này ở các địa phương, một kênh vốn rất quan
trọng cung cấp nguồn vốn ưu đãi cho HTX, cũng
như tranh thủ vốn giá rẻ từ hệ thống ngân hàng
thương mại.

Thứ nhất, hồn thiện hệ thống chính sách hỗ trợ
kinh tế tập thể, hợp tác xã theo hướng rà soát chính

sách hiện đang được ban hành phân tán tại nhiều
văn bản quy phạm pháp luật, cịn thiếu tính khả thi
để sửa đổi, bổ sung, đồng bộ hóa và cụ thể hóa
trong Luật HTX, nhằm cải thiện hiệu lực của Luật
và các chính sách hỗ trợ phát triển KTTT khi sửa
đổi, bổ sung Luật HTX năm 2012. Bên cạnh đó,
từng địa phương cần nghiên cứu, vận dụng tối đa
các cơ chế chính sách của Chính phủ và trên cơ sở
thực tiễn địa phương, ngành, lĩnh vực để kịp thời rà
soát, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, hoặc thay thế những
cơ chế, chính sách trước đây khơng cịn phù hợp,
khơng hiệu quả tạo điều kiện để KTTT phát triển
mạnh hơn nữa.

5. KẾT LUẬN

Thứ hai, xây dựng và nhân rộng mơ hình hợp tác xã
kiểu mới, ưu tiên phát triển HTX nông nghiệp ứng

Kết quả nghiên cứu cho thấy, KTTT có vai trị quan
trọng với nền kinh tế - xã hội, góp phần giải quyết
việc làm, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói, giảm
nghèo, bảo vệ mơi trường, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, củng cố khối đại đồn kết
tồn dân tộc, xây dựng nơng thơn mới thời kỳ CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, mặc dù KTTT
đã có thành cơng bước đầu, nhưng sự phát triển
còn chưa tương xứng tiềm năng, đặc biệt trong bối
cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng. Quy mô nhỏ, công
nghệ lạc hậu, cơ sở vật chất còn nghèo nàn do

thiếu vốn hoạt động và tính liên kết với các thành
phần kinh tế khác cịn hạn chế là những ngun
nhân chính dẫn đến năng lực cạnh tranh còn yếu.
Trên cơ sở đó, giải pháp đặt ra trong thời gian tới
là tăng cường xây dựng và nhân rộng mơ hình hợp

Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020

67


NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
tác xã kiểu mới, ưu tiên phát triển HTX nông nghiệp
ứng dụng công nghệ cao. Đồng thời, cần đẩy mạnh
mơ hình liên doanh, liên kết, hình thành các chuỗi
giá trị giữa doanh nghiệp và HTX để có thể nâng
cao hiệu quả hoạt động và lợi thế cạnh tranh của
khu vực kinh tế này.

[3]

Hồ Văn Vĩnh (2015), Phát triển Hợp tác xã
nông nghiệp trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta, Tạp chí Cộng sản,
số 8 - 2015.

[4]

Liên minh HTX Việt Nam (2016), Phát triển
kinh tế tập thể trong điều kiện Việt Nam đổi

mới và hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[5]

Liên minh HTX Việt Nam (2019), Báo cáo
thường niên 2018, tháng 3/2019.

[6]

Liên minh HTX Việt Nam (2019), Báo cáo
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13NQ/TW ngày 18/3/2002, Hội nghị lần thứ 5,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao kinh
tế tập thể.

[1]

Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật
Hợp tác xã năm 2012.

[2]

Vương Đình Huệ (2015), Tiếp tục đẩy mạnh,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 5 khóa IX, Tạp chí Cộng sản
điện tử.


THƠNG TIN TÁC GIẢ
Trần Thị Hằng
- Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo,
nghiên cứu):
+ Năm 2010: Tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế
quốc dân
+ Năm 2014: Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế, Đại học
Quốc gia Hà Nội
- Tóm tắt cơng việc hiện tại: Giảng viên khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ
- Lĩnh vực quan tâm: Trách nhiệm xã hội, phát triển bền vững, chất lượng lao động
- Email:
- Điện thoại: 0984696418

68 Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (68) 2020



×