Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Đề cương nghiệp vụ sư phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.18 KB, 37 trang )

I. LÝ LUẬN DẠY HỌC ĐẠI HỌC
1) Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh: Khơng có phương pháp
dạy học tối ưu mà chỉ có sự tối ưu trong việc phối hợp các phương pháp?
2) Hãy đưa ra 1 ví dụ cụ thể về việc phối hợp các phương pháp trong 1
tiết dạy môn chuyên ngành của anh/chị?
Trả lời
1) Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh: Không có phương pháp
dạy học tối ưu mà chỉ có sự tối ưu trong việc phối hợp các phương pháp?
* Không có phương pháp dạy học tối ưu mà chỉ có sự tối ưu trong việc phối
hợp các phương pháp
- Trước hết, cần hiểu phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt
động phối hợp, tương tác giữa giảng viên và sinh viên , nhằm giúp sinh viên chiếm
lĩnh hệ thống kiến thức khoa học, hình thành hệ thống kĩ năng, kĩ xảo, thực hành
sáng tạo và thái độ chuẩn mực, theo mục tiêu của quá trình dạy học.
- Phương pháp dạy học là một thành tố hết sức quan trọng của quá trình dạy
học, khi đã xác định được mục tiêu, đã xây dựng được chương trình dạy học, khi
đã có đầy đủ phương tiện kĩ thuật, thì lúc này phương pháp dạy học có ý nghĩa
quyết định chất lượng q trình dạy học.
- Có rất nhiều phương pháp dạy học: Phương pháp diễn giảng, Phương pháp
vấn đáp, thảo luận, sử dụng sách giảng khoa, tài liệu và Internet; Phương pháp dạy
học nêu vấn đề, Phương pháp minh hoạ, Phương pháp quan sát thực tế, Phương
pháp bài tập, Phương pháp trò chơi…
Bất kỳ phương pháp dạy học nào, ln tồn tại song song cả ưu và nhược
điểm. Ví dụ, phương pháp diễn giảng giúp thực hiện một chương trình có khối
lượng kiến thức lớn, có thể dạy cho một lớp học đông sinh viên, nhưng dễ khiến
sinh viên rơi vào trạng thái thụ động, lắng nghe để hiểu, để ghi bài, ít phải động
não, nên dễ bị ức chế mỏi mệt. Hay phương pháp vấn đáp giúp tạo khơng khí sơi


nổi trong lớp học, sinh viên tích cực tư duy; Rèn sinh viên kĩ năng tư duy độc lập,
kĩ năng trình bày ý tưởng bằng ngơn ngữ, tạo nên sự tự tin, mạnh dạn trước nơi


đơng người nhưng có nhược điểm là kiến thức bị chia nhỏ, có thể làm giảm tính
lơgic của bài học, sinh viên khó ghi chép bài. Như vậy nếu chỉ sử dụng 1 phương
pháp dạy học sẽ ko ổn, và sự kết hợp sẽ giúp hạn chế nhược điểm của các phương
pháp.
- Xuất phát từ nhiệm vụ dạy học đại học, bên cạnh việc trang bị kiến thức
chun mơn, cịn cần phát triển cho người học trí tuệ, phương pháp nghiên cứu (kỹ
năng) và hình thành cho người học thái độ, lý tưởng đạo đức nghề nghiệp. Và mỗi
phương pháp chỉ tối ưu trong việc thực hiện 1 nhiệm vụ dạy học đại học. Ví dụ
phương pháp thuyết trình rất phù hợp trong nhiệm vụ trang bị kiến thức chuyên
môn. Việc phối kết hợp các phương pháp là cách tối ưu nhất trong việc thực hiện
các nhiệm vụ dạy học đại học.
* Sử dụng các phương pháp dạy học phụ thuộc yếu tố nào
- Xuất phát từ mục tiêu bài học, phần học
- Nội dung dạy học, nội dung sẽ quyết định phương pháp, nội dung ntn thì
sử dụng phương pháp như thế đấy.
- Đặc điểm đối tượng người học (trình độ nhận thức, hứng thú…)
- Điều kiện sử dụng các phương pháp (cơ sở vật chất…).
- Trình độ nghiệp vụ sư phạm của giảng viên.
2) Hãy đưa ra 1 ví dụ cụ thể về việc phối hợp các phương pháp trong 1
tiết dạy môn chuyên ngành của anh/chị?
Làm theo các nội dung sau:
* Tên bài/ tiết học, cho đối tượng sinh viên năm mấy
* Mục tiêu: về kiến thức, kỹ năng và thái độ
* Nội dung: Kể tên các đề mục/nội dung của tiết học đó


* Sẽ sử dụng những phương pháp dạy học nào, ý nghĩa của phương pháp đó
(tức sử dụng phương pháp đó sẽ giúp sinh viên đạt được mục tiêu nào đã đề ra).
Cụ thể
* Tên bài: Chức năng lập kế hoạch (thuộc học phần Cơ sở khoa học quản lý,

dành cho sinh viên năm thứ 2 ngành Quản lý biển).
* Mục tiêu bài học:
- Kiến thức:
+ Trình bày được khái niệm mục tiêu quản lý, kế hoạch, lập kế hoạch và vai
trị của lập kế hoạch.
+ Mơ tả được các loại kế hoạch
+ Phân tích được các bước lập kế hoạch
- Kỹ năng:
+ Lập hoàn chỉnh được kế hoạch thực hiện một cơng việc cụ thể.
+ Kỹ năng mềm: Có kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình.
- Thái độ:
+ Tích cực, sôi nổi tham gia bài học
+ Nghiêm túc, trách nhiệm, có ý thức lập kế hoạch tự học cho bản thân
* Nội dung bài học:
- Khái niệm chức năng kế hoạch
- Vị trí, vai trị của chức năng kế hoạch
- Các bước lập kế hoạch:
+ Xác định và phân tích các mục tiêu
Khái niệm mục tiêu quản lý
Tính chất của mục tiêu quản lý
Vai trò của mục tiêu quản lý
Yêu cầu của mục tiêu quản lý
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện mục tiêu


+ Triển khai thực hiện kế hoạch
+ Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch
- Các loại kế hoạch
+ Theo quy mô kế hoạch: Kế hoạch tác nghiệp, kế hoạch chiến lược
+ Theo thời gian thực hiện kế hoạch: Kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài.

* Phương pháp dạy học được sử dụng trong tiết học:
- Phương pháp thuyết trình : Được sử dụng với các nội dung của tiết học là:
Khái niệm chức năng kế hoạch
Vị trí, vai trò của chức năng kế hoạch
- Phương pháp vấn đáp
- Phương pháp sử dụng sách giáo khoa, tài liệu và internet
- Phương pháp thuyết trình
- Phương pháp thảo luận

TT

NỌI DUNG BÀI HỌC

PHƯƠNG PHÁP
DẠY HỌC

1

- Khái niệm chức năng kế hoạch Thuyết trình

2

- Vị trí, vai trị của chức năng kế Vấn đáp; sử dụng
hoạch
sách giáo khoa, tài
liệu và internet
(yêu cầu sinh viên
đọc và tìm hiểu
trước nội dung này
ở nhà)

Khi ở lớp, giảng
viên sẽ đặt câu hỏi
và sinh viên trả lời
- Các bước lập kế hoạch:
- Phương pháp

3

Ý NGHĨA CỦA
VIỆC SỬ DỤNG
PHƯƠNG PHÁP
Giúp sinh viên
hiểu và nắm được
kiến thức lý thuyết
- Giúp sinh viên
hiểu kiến thức lý
thuyết
- Tạo khơng khí
sơi nổi cho lớp học
- Góp phần giúp
sinh viên hình
thành sự tự tin khi
trình bày, thuyết
trình.
- việc học tập của


+ Xác định và phân tích các
mục tiêu
Khái niệm mục tiêu quản lý

Tính chất của mục tiêu quản lý
Vai trị của mục tiêu quản lý
Yêu cầu của mục tiêu quản lý
+ Xây dựng kế hoạch thực hiện
mục tiêu
+ Triển khai thực hiện kế hoạch
+ Kiểm tra, đánh giá việc thực
hiện kế hoạch

4

thảo luận (chung
cả lớp):
- giảng viên là
người nêu vấn đề ,
yêu cầu sinh viên
hãy thảo luận các
bước
lập
kế
hoạch; - hướng
dẫn, khích lệ sinh
viên trao đổi, tranh
luận,
- giảng viên làm cố
vấn cho các bên, là
trọng tài trong các
trường hợp gay
cấn và đưa ra các
kết luận cuối cùng


- Các loại kế hoạch
- Thuyết trình
+ Theo quy mơ kế hoạch: Kế
hoạch tác nghiệp, kế hoạch
chiến lược
+ Theo thời gian thực hiện kế
hoạch: Kế hoạch ngắn hạn,
trung hạn và dài.

sinh viên trở nên
nhẹ nhàng, lớp học
sôi nổi, hứng thú
- Qua thảo luận
vấn đề được trao
đổi kĩ, do đó kiến
thức nhớ lâu và có
thể vận dụng vào
thực tiễn.
- Góp phần giúp
sinh viên hình
thành kỹ năng làm
việc nhóm, và sự
tự tin khi trình bày,
thuyết trình.
Giúp sinh viên
hiểu và nắm được
kiến thức lý thuyết

Việc phối kết hợp các phương pháp này vừa giúp trang bị cho sinh viên

những kiến thức lý luận, giúp các em hiểu sâu; đồng thời rèn luyện một số kỹ năng.
Bên cạnh đó, giờ học trở nên sôi nổi, hào hứng hơn. Về cơ bản đã đảm bảo đạt
được các mục tiêu dạy học.
II. GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG
1) Anh chị phân tích vai trò của giáo dục trong việc thực hiện chức năng
kinh tế - sản xuất. Liên hệ thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay trong quá
trình thực hiện chức năng giáo dục này?


2) Qua việc phân tích các đặc điểm của quá trình giáo dục (theo nghĩa
hẹp), anh/chị hãy rút ra những kết luận sư phạm cần thiết trong việc tổ chức
thực hiện các hoạt động giáo dục
Trả lời
1) Anh chị phân tích vai trị của giáo dục trong việc thực hiện chức năng
kinh tế - sản xuất. Liên hệ thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay trong quá
trình thực hiện chức năng giáo dục này?
* Phân tích vai trị của giáo dục trong việc thực hiện chức năng kinh tế - sản
xuất
Trước hết cần hiểu Giáo dục (theo nghĩa rộng) là q trình tác động có mục
đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà
giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục, nhằm hình thành
nhân cách cho họ.
Giáo dục trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã thực hiện 3 chức năng xã hội của
mình: Chức năng kinh tế- sản xuất; chức năng chính trị- xã hội và chức năng tư
tưởng- văn hóa.
- Với chức năng kinh tế- sản xuất, giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội,
tạo nên sức lao động mới có chất lượng cao hơn, thay thế sức lao động cũ đã lạc
hậu, đã già cỗi hoặc đã mất đi bằng cách phát triển những năng lực chung và năng
lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo ra một năng suất lao động cao hơn, thúc
đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.

+ Trước hết giáo dục đào tạo nguồn nhân lực có tri thức, kỹ năng và phẩm
chất. Để có thể tham gia lao động sản xuất, bất kỳ 1 ngành nghề cơng việc nào dù
ít hay nhiều đều địi hỏi người lao động phải có tri thức, kỹ năng và phẩm chất nhất
định. Những yếu tố này ko phải tự nhiên sinh ra mà có, nó địi hỏi phải trải qua q
trình giáo dục, đào tạo. Ví dụ trường đại học Xây dựng đào tạo nên những kỹ sư
xây dựng, trường sư phạm đào tạo nên các nhà giáo…


+ Bên cạnh đó, giáo dục cịn có vai trị giáo dục, trang bị lại hay nâng cao
những kiến thức, kỹ năng và phẩm chất nghề nghiệp thông qua các hình thức bồi
dưỡng…
Ngày nay, nhân loại đang sống trong thời kì văn minh hậu cơng nghiệp cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Đặc điểm này đã đặt ra những
yêu cầu cao đối với chất lượng nguồn nhân lực: có trình độ học vấn cao, có tay
nghề vững vàng, năng động, sáng tạo, linh hoạt để thích nghi, đáp ứng được những
u cầu của tiến trình phát triển xã hội. Dạy học theo tiếp cận năng lực là một
trong giải pháp quan trọng để phát triển năng lực hành động cho người học trong
các nhà trường, đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động hiện nay.
* Liên hệ thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay trong quá trình thực
hiện chức năng giáo dục này?
- Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những
thành tựu to lớn trong quá trình phát triển nhờ sớm coi trọng vai trị của giáo dục
và đào tạo như Nhật Bản với quan điểm coi “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng
đầu; cần kết hợp hài hồ giữa bản sắc văn hóa lâu đời phương Đông với những tri
thức Phương Tây hiện đại”; hay Singapore với phương châm “Thắng trong cuộc
đua về giáo dục sẽ thắng trong cuộc đua về phát triển kinh tế”;
- Ở Việt Nam, Nghị Quyết TW 3, khoá 7 năm 1993 khẳng định: “Khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu
tư cho phát triển”.

- Chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển con người nói
chung, trong giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nói riêng. Sự nghiệp
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong những năm qua, đặc biệt mấy
năm gần đây đã đạt được những thành tựu đáng kể và có bước phát triển tốt. Quy
mô giáo dục tiếp tục được phát triển, tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt


40% tổng số lao động đang làm việc…
- Tuy nhiên vẫn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục:
+ Chúng ta chưa làm tốt khâu dự báo. Hệ ĐH, CĐ tăng quy mô tuyển sinh khiến số
lượng người theo học hệ này ngày càng nhiều nhưng khơng cần tính đến nhu cầu
nhân lực thật sự mà xã hội đang cần, dẫn đến đào tạo tràn lan không gắn với sử
dụng nhân lực, dẫn đến nhiều ngành nghề đang dư thừa nguồn nhân lực. Hiện nay
nước ta đang có khoảng gần 200.000 cử nhân và thạc sỹ thất nghiệp
+ chất lượng nhân lực của nước ta còn thấp, nhiều SV tốt nghiệp khi được tuyển
dụng phải qua đào tạo lại từ 3 đến 6 tháng mới thực hiện được công việc sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp
+ Đào tạo mới chỉ chú trọng trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,
còn chưa thực sự quan tâm tới giáo dục lí tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin,
những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong
xã hội. Đào tạo phải thực sự gắn kết giữa nét truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc
với nét hiện đại.
- Để thực hiện tốt chức năng kinh tế - sản xuất, giáo dục phải tập trung thực hiện
những yêu cầu cơ bản sau đây:
+ Giáo dục luôn gắn kết với thực tiễn xã hội.
+ Tiếp tục thực hiện mục tiêu: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài.
+ Hệ thống giáo dục nhà trường không ngừng đổi mới nội dung, phương pháp,
phương tiện v.v., trong đó chú trọng phát triển các năng lực: năng lực cá thể; năng lực
xã hội; năng lực chuyên môn; năng lực phương pháp, nhằm phát triển năng lực hành

động cho người học, đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
2) Qua việc phân tích các đặc điểm của quá trình giáo dục (theo nghĩa
hẹp), anh/chị hãy rút ra những kết luận sư phạm cần thiết trong việc tổ chức
thực hiện các hoạt động giáo dục


* Các đặc điểm của quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp)
Q trình giáo dục là q trình trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà
giáo dục, người được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục.
- Có mục đích xuất phát từ yêu cầu xã hội và diễn ra lâu dài
+ Giáo dục có mục đích hình thành cho người được giáo dục lí tưởng, động cơ,
tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cư
xử đúng đắn trong xã hội, mà những yếu tố này luôn xuất phát từ yêu cầu xã hội,
mang tính lịch sử phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội. ví dụ thời
phong kiến, chuẩn mực người phụ nữ là tam tòng tứ đức… ngày nay người phụ nữ
chủ động hơn…
+ Quá trình giáo dục diễn ra lâu dài, từ thai giáo đến hết cuộc đời. Bên cạnh đó,
việc hình thành hay xóa bỏ 1 thói quen tốt/ xấu diễn ra cần thời gian lâu dài, địi
hỏi sự kiên trì và nỗ lực thường xuyên. Và kết quả của quá trình giáo dục đòi hỏi
thời gian lâu dài mới biết được.
=> kết luận sư phạm:
+ Nhà giáo dục phải ln nhìn nhận được yêu cầu xã hội để giáo dục, định hướng,
chuẩn bị cho người được giáo dục, giúp người được giáo dục đón đầu xu hướng,
đáp ứng các yêu cầu và chuẩn mực của xã hội.
+ Nhà giáo dục trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục phải
kiên trì, nhẫn nại, bền bỉ, ln nỗ lực lớn. biết áp dụng các phương pháp giáo dục
khác nhau cho phù hợp và linh hoạt để đảm bảo sự ổn định và bền vững.
- Phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố
+ Quá trình giáo dục ko chỉ diễn ra trong mơi trường nhà trường, mà cịn

trong mơi trường gia đình và xã hội, trong khi đó các mơi trường này luôn phức tạp
và thay đổi.


+ Giáo dục là tác động đến tâm hồn, lý tưởng niềm tin, mà những yếu tố này
ở mỗi cá nhân ln khác biệt và phức tạp.
+ Vì giáo dục là quá trình phức tạp, nên cần sự tác động của nhiều yếu tố, và
chịu sự tác động của nhiều yếu tố nên quá trình giáo dục diễn ra phức tạp.
=> kết luận sư phạm: Cần sự cộng hưởng, hợp tác và phối hợp chặt chẽ của
gia đình, nhà trường, xã hội trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục
- Q trình giáo dục mang tính cá biệt, cụ thể
Quá trình giáo dục diễn ra hàng ngày hàng giờ liên tục với các đối tượng khác
nhau. Mỗi đối tượng giáo dục đều là một cá nhân có tính độc lập tương đối của nó
về trình độ được giáo dục, về kinh nghiệm sống, về thái độ, tình cảm, thói quen,
đặc điểm tâm lý lứa tuổi, điều kiện hồn cảnh sống,…
Q trình giáo dục được diễn ra trong thời gian, thời điểm, khơng gian
với những điều kiện, hồn cảnh cụ thể. Kết quả giáo dục cũng mang tính cụ thể đối
với từng loại đối tượng giáo dục, đối với từng mặt, từng yêu cầu của một quá trình
giáo dục cho những đối tượng cụ thể.
=> kết luận sư phạm:
+ Tùy đối tượng, hồn cảnh, khơng gian cụ thể để có cách tác động, giáo dục khác
nhau.
+ Cùng 1 đối tượng nhưng trong các hồn cảnh, tình huống, ko gian khác nhau mà
lựa chọn các hoạt động và biện pháp giáo dục khác nhau cho phù hợp
+ Và trong cùng 1 hoàn cảnh, ko gian nhưng tùy từng đối tượng mà có cách tác
động giáo dục khác nhau.
- Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với quá trình dạy học
Q trình giáo dục được diễn ra thơng qua nhiều con đường, biện pháp và cách
thức khác nhau, nhưng hiệu quả nhất là thơng qua q trình dạy học. Hai hoạt động
dạy học và giáo dục không tách biệt mà có mối quan hệ biện chứng với nhau. Dạy

học là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất để giáo dục học sinh. Trên cơ sở thực
hiện các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các phẩm chất đạo đức của học sinh
được hình thành và phát triển, ngược lại, giáo dục tốt các phẩm chất sẽ thúc đẩy
hoạt động học tập đạt kết quả cao.


III. TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
Câu hỏi:
1) Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não
2) Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm
3) Các yếu tố chi phối đặc điểm tâm lý nhân cách sinh viên hiện nay
4) Nhân cách người giảng viên
Trả lời
1) Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan của não
- Tâm lí người khơng phải do một thế lực siêu nhiên nào sinh ra, tâm lí người
là sự phản ánh hiện thực khách quan của bộ não con người thơng qua "lăng kính
chủ quan" của mỗi con người.
Phản ánh tâm lí - là một dạng phản ánh của não người. Phản ánh tâm lí tạo ra
"hình ảnh" về thế giới nhưng rất sinh động và khơng cịn ngun si như bản thân
thế giới. Hình ảnh tâm lí là kết quả của quá trình phản ánh thế giới khách quan của
não, và khác về chất so với các hình ảnh cơ, vật lí, sinh vật ở chỗ:
+ Hình ảnh tâm lí mang tính sinh động, sáng tạo, thí dụ: hình ảnh tâm lí về
cuốn sách trong đầu một con người biết chữ, khác xa về vật chất với hình ảnh của
chính cuốn sách đó có ở trong gương.
+ Hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân người mang hình
ảnh tâm lí đó. Mỗi người sẽ có hình ảnh khác nhau về sự vật nên hình ảnh tâm lí
rất phong phú và đa dạng. Hay nói cách khác, hình ảnh tâm lí là hình ảnh chủ quan
về thế giới khách quan.
Từ cách quan niệm trên, có thể thấy: Tuy hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể
nhưng nội dung của hình ảnh tâm lí do thế giới khách quan quy định. Tâm lí người

có nguồn gốc bên ngồi và là chức năng của não. Não là cơ quan phản ánh, tiếp
nhận tác động của thế giới khách quan tạo ra hình ảnh tâm lí (hình ảnh của chính
thế giới khách quan đó).


- muốn có tâm lí người phải có hai điều kiện: Thứ nhất: Phải có thế giới khách
quan - nguồn gốc tạo nên hình ảnh tâm lí; Thứ hai: Phải có não người - Cơ quan
phản ánh để tạo ra hình ảnh tâm lí.
- Muốn nghiên cứu tâm lí người phải tìm hiểu thế giới khách quan xung quanh
con người, nơi con người sống và hoạt động. Đồng thời muốn hình thành, cải tạo,
thay đổi tâm lí con người phải thay đổi các tác động của thế giới khách quan xung
quanh con người, của hồn cảnh mà trong đó con người sống và hoạt động.
2) Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm
Có thể quan niệm: Giao tiếp là q trình tác động qua lại giữa con người với
con người thể hiện sự tiếp xúc tâm lí giữa người với người, thơng qua đó con
người trao đổi thơng tin, trao đổi cảm xúc, tác động và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù của con người. Nghĩa là chỉ có con người
mới có giao tiép thật sự. Khi con người sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện thực
hiện mối quan hệ người - người, con người thể hiện rõ nhất đặc trưng của xã hội
loài người.
Giao tiếp là cách thể hiện mối quan hệ của một ngưới với người khác hoặc
giữa một người với nhiều người khác.
* Các nguyên tắc giao tiếp sư phạm
Nguyên tắc giao tiếp là hệ thống những quy tắc cơ bản chỉ đạo, định hướng
thái độ và hành vi của con người khi tiếp xúc với nhau, đồng thời chỉ đạo việc lựa
chọn các phương thức và phương tiện giao tiếp của con người.
- Nguyên tắc mẫu mực:
Người dạy phải là nhân cách mẫu mực trong giao tiếp vì mọi thái độ, cử chỉ,
hành vi… của người dạy đều tác động đến người học.
Người dạy là đại diện của nền văn minh trong nhà trường, là “điểm sáng văn

hóa” của nhà trường
Biểu hiện:


+ Mẫu mực về trang phục, hành vi, ngôn ngữ.
+ Thái độ và phản ứng hành vi phải thống nhất với nhau và phải phù hợp,
nhất quán với nhân cách.
+ Ngôn ngữ và cách ứng xử phù hợp với nội dung, đối tượng giao tiếp.
+ Khoan dung.
- Nguyên tắc tôn trọng nhân cách:
Coi đối tượng giao tiếp là 1 nhân cach với đầy đủ các quyền được vui chơi,
học tập… và với những đặc trưng tâm lý riêng.
Biểu hiện:
+ Biết lắng nghe người học để họ được bộc lộ những nét tính cách riêng, ko
áp đặt ý muốn chủ quan.
+ Hành vi, ngôn ngữ ko được xúc phạm nhân cách người học.
+ Cách phản ứng biểu cảm chân thành, trung thực.
+ Hành vi, cử chỉ, điệu bộ … luôn ở trạng thái cân bằng, tránh cử chỉ bột phát,
ngẫu nhiên.
+ Tơn trọng nhân cách đồng nghiệp, nghề nghiệp của chính mình.
- Ngun tắc thiện chí:
Dành những điều kiện thuận lợi, tình cảm tốt đẹp nhất cho người học
Biểu hiện:
+ Đánh giá công bằng.
+ Tin tưởng vào người học (sự nỗ lực, tiềm năng, sự thay đổi…).
+ Chuẩn bị kỹ bài giảng với mong muốn người học nắm được bài.
+ Yêu cầu cao với người học nhưng lại bao dung độ lượng khi đánh giá.
- Nguyên tắc đồng cảm:
Biết đặt vị trí của mình vào vị trí đối tượng giao tiếp biết sống trong niềm vui
và nỗi buồn của họ để cùng rung cảm, cùng suy nghĩ với đối tượng giao tiếp nhằm

tạo ra sự đồng điệu trong giao tiếp.


Đồng cảm trong giao tiếp tạo ra sự gần gũi, thân mật, tạo ra cảm giác an toàn
khi giao tiếp với nhau. Đồng cảm là cơ sở hình thành mọi hành vi ứng xử nhân
hậu, khoan dung. Nhờ có sự đồng cảm mà chủ thể giao tiếp mới có hành vi ứng xử
phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng, mong muốn của đối tượng giao tiếp.
Sự đồng cảm trong giao tiếp giữ một vai trò quan trọng, giúp cho con người
hiểu biết lẫn nhau để từ đó có ảnh hưởng tới nhau, tạo nên sự đồng nhất xúc cảm
khiến cho giao tiếp đạt hiệu quả cao hơn-nói ít hiểu nhiều.
3) Các yếu tố chi phối đặc điểm tâm lý nhân cách sinh viên hiện nay
Ở Việt Nam, khái niệm sinh viên dùng để chỉ những người học cao đẳng, đại học.
Các yếu tố chi phối đặc điểm tâm lý nhân cách sinh viên hiện nay:
* Các đặc điểm của đời sống sinh viên
- Sinh viên phải tự lập trong mọi hoạt động sinh hoạt, học tập và các quan hệ
xã hội, trong điều kiện thiếu thốn. Đó là chưa kể áp lực của yêu cầu học tập, các
quan hệ xã hội và môi trường sống và học tập thay đổi. Điều đó đã chi phối làm
cho đời sống tâm lí của sinh viên có những thay đổi rất căn bản.
+ Thứ nhất, sinh viên phải tự biết sắp xếp thời gian để đảm bảo thời gian học
tập, vui chơi và tham gia các hoạt động xã hội khác.
+ Thứ hai, với lượng tiền hạn chế, sinh viên phải tự lo liệu tất cả các khoản
chi tiêu sao cho hợp lí.
+ Thứ ba, tự quyết định các bước đi để có thể học được nhiều nhất, đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động.
Sinh viên khơng có ai kiểm tra, nhắc nhở hành vi của mình mà hồn tồn tự
kiểm tra và tự điều chỉnh chính mình. Tính chủ động, tự giác được tăng lên.
- sinh viên phải rèn cho mình một số kĩ năng sống để có khả năng xử lí được
các tình huống mà cuộc sống đặt ra.
* Yêu cầu học tập



- Tự học, tự nghiên cứu là một trong những hoạt động chủ đạo của sinh viên.
Hoạt động tự học đòi hỏi sinh viên phải làm việc độc lập, tự nghiên cứu, tự thực
hành nhằm củng cố và ôn luyện tri thức, hình thành và rèn luyện các kĩ năng, kĩ
xảo đã học
- sinh viên phải tự giác, độc lập và sáng tạo cao mà khơng có sự giám sát của giảng
viên và nhà trường.
+ Về nội dung học tập: Trong mỗi học kỳ, sinh viên phải học tập nhiều môn
học; ở mỗi môn học khối lượng kiến thức rất lớn, mức độ khó khăn và phức tạp
tăng dần, địi hỏi sinh viên phải có khả năng và phương pháp học mới phù hợp.
+ Về phương pháp dạy và phương pháp học:
Đối với phương pháp dạy của giảng viên: quá trình dạy học đại học là quá
trình nhận thức độc đáo có tính nghiên cứu của sinh viên, dưới sự hướng dẫn của
giảng viên. giảng viên cũng đặt ra yêu cầu cao đối với sinh viên về phương pháp tự
học và tự nghiên cứu.
Đối với phương pháp học của sinh viên: phương pháp học của sinh viên ở đại
học đòi hỏi tính tự giác, chủ động và sáng tạo rất cao. Sinh viên phải hình thành
và rèn luyện một số phương pháp và kỹ thuật học tập phù hợp: lập kế hoạch tự
học, ghi chép nhanh, đọc lướt, tổng hợp khái quát vấn đề.
+ Về phương tiện kĩ thuật dạy học:
sinh viên phải am hiểu và sử dụng thành thạo các phương tiện kĩ thuật dạy học
được trang bị ở trường đại học hoặc tự trang bị bảo đảm cho hoạt động học tập có
hiệu quả cao nhất.
+ Về giáo trình, tài liệu tham khảo và cơ sở vật chất:
Các trường đại học đã tích cực chủ động trong việc biên soạn giáo trình và tài
liệu tham khảo, mua sắm cơ sở vật chất bảo đảm cho sinh viên học tập. Tuy nhiên,
do sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn nên giáo trình và tài liệu tham khảo


thường xuyên lạc hậu, việc biên soạn lại và bổ xung chưa đáp ứng được nhu cầu

giảng dạy và học tập.
- Từ những đặc điểm và yêu cầu về học tập của sinh viên, có thể thấy: Sinh
viên phải tự xoay xở, phải tự lập và tự chịu trách nhiệm về việc học của mình. Do
đó, sinh viên phải: ý thức tự giác, tự chịu trách nhiệm về các việc làm của mình,
tính tự lập cao trong sinh hoạt học tập...Chính đặc điểm học tập ở đại học đã phân
hóa sinh viên thành các nhóm khác nhau. Có những nhóm sinh viên rất chăm chỉ
và có kết quả học tập tốt. Một số khác rất lười học, học đối phó và chất lượng học
tập thấp.
- Bên cạnh đó, những biến đổi tâm lí, nhân cách của sinh viên cịn bị chi phối
bởi xu hướng đổi mới giáo dục đại học của Việt Nam.
+ Xu hướng đổi mới giáo dục đại học ở trong nước
Đối với mục tiêu đào tạo, giâo đục đại học đổi mới theo hướng phát huy tích
cực, chủ động và sáng tạo của người học trong quá trình đào tạo. Người học phải
chịu trách nhiệm và biết lựa chọn cho bản thân con đường học vấn thích hợp nhất,
tìm kiếm việc làm trong xã hội và cách thức tự phát triển hiện thực nhất.
Đối với phương thức đào tạo đại học phải chuyển từ đào tạo mang nặng tính
chất đồng loạt sang đào tạo chú trọng cá nhân hóa; chuyển từ cách thức truyền đạt
coi trọng kiến thức sang chú trọng mặt phương pháp và thực hành; việc đánh giá
trong thi cử chuyển từ tính thiên lệch, thiên vị sang cân đối, cơng bằng, chính xác
và tin cậy... Những xu thế đổi mới của giáo dục đại học quốc tế và trong nước có
ảnh hưởng quan trọng đến thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên.
* Các điều kiện kinh tế - xã hội
- Trong xu thế hội nhập và tồn cầu hóa đã tạo ra những tác động không nhỏ
về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, tạo cho sinh viên nhiều cơ hội được học tập,
trưởng thành, nhưng đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu ngày càng cao về chuyên


môn, năng lực, phẩm chất (đặc biệt là nếu muốn làm việc ở các cơng ty nước
ngồi).
- u cầu của nền kinh tế tri thức, của sự hội nhập quốc tế buộc tất cả mọi

người muốn tồn tại tại phải vươn lên, phải có khả năng đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của thị trường lao động. Xã hội càng phát triển, sự phân hóa trong xã hội ngày
càng sâu sắc. Sự phân hóa đó thể hiện rất rõ trong trong sinh viên. Có thể cùng tốt
nghiệp một trường đại học, có người xin dược việc và đi làm ngay với mức lương
khá cao, có người khơng thể xin được việc. Yêu cầu của các đơn vị tuyển dụng lao
động đã tác động đến sinh viên làm cho họ biết xác định trách nhiệm của mình,
biết đặt ra yêu cầu rèn luyện của bản thân để có thể thích ứng được với yêu cầu của
sự phát triển kinh tế-xã hội.
- Sự biến đổi kinh tế - xã hội đã làm thay đổi về nhận thức của con người, về
nhu cầu học tập và quyền lợi được học tập, là nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự phát
triển nhanh chóng của giáo dục đại học.
- Nhận thức được sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, sinh viên đã có
những thay đổi theo hướng thích ứng với các đòi hỏi mới của xã hội như: Sẵn sàng
học thêm một chuyên môn khác, học thêm các chứng chỉ các mơn học cần thiết
hoặc thậm chí đổi nghề. Trong điều kiện hiện nay, sinh viên năng động hơn trước
đây rất nhiều. Những sinh viên học cầm chừng theo kiểu trung bình chủ nghĩa hầu
như khơng có. Chỉ cịn lại hai dạng: Một là thật chăm hai là thật lười.
* Thị trường lao động và xu thế phát triển nghề nghiệp
Thị trường lao động chính là một căn cứ để các trường đại học tổ chức quá
trình đào tạo. Đồng thời thị trường lao động cũng chính là một căn cứ để học sinh,
sinh viên chọn nghề. Những nghề đang phát triển đòi hỏi số lượng nhân lực lớn
hoặc những nghề có thu nhập cao thường được học sinh lựa chọn. Từ đó dẫn đến
số lượng sinh viên các ngành này rất đông và điểm tuyển sinh rất cao.


Khi học trong nhà trường đại học, sinh viên theo học các nghề khơng có viễn
cảnh tốt thường chán học và có xu hướng học đối phó cho xong để dành thời gian
học thêm một văn bằng khác. Hiện tượng này chỉ xảy ra trong kinh tế thị trường,
trong thời bao cấp khơng có hiện tượng này. Thị trường lao động đã điều tiết số
lượng sinh viên các chuyên ngành, tác động đến mức độ tích cực rèn luyện nghề

nghiệp của sinh viên. Thị trường lao động cũng phân loại sinh viên làm cho họ
phải chấp nhận cạnh tranh và có gắng vươn lên.
Hiện nay xuất hiện nhiều nghề mới mà trước đây khơng có. Những nghề mới
này thường có thu nhập cao do có các yếu tố đầu tư nước ngoài đã thu hút rất nhiều
sinh viên lựa chọn. Sự hứa hẹn có thu nhập cao, điều kiện làm việc đảm bảo đã
thúc đẩy sinh viên học tập để có thể đáp ứng được yêu cầu của những nghề nghiệp
đó.
Cũng khơng phải tất cả sinh viên đều hướng vào những nghề có thu nhập cao.
Những sinh viên đánh giá được thực lực của mình đã chọn cho mình một trường
đại học có điểm tuyển vừa phải để được học đại học và chấp nhận một nghề mà
theo họ không ”hot” nhưng phù hợp với họ. Sinh viên đã so sánh yêu cầu của nghề
với khả năng thực tế của bản thân để lựa chọn.
Thị trường lao động Việt Nam hiện nay đang cần rất nhiều lao động. Đặc biệt
là những lao động được đào tạo ở trình độ cao. Tuy nhiên, sinh viên các tốt nghiệp
các trường đại học vẫn khó kiếm việc làm. Mâu thuẫn này do chất lượng đào tạo
của các trường đại học chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
4) Nhân cách người giảng viên
Theo Luật giáo dục, nhà giáo giảng dạy ở các trường đại học và cao đẳng
được gọi là giảng viên. Hoạt động của người giảng viên đại học là q trình giải
quyết các nhiệm vụ có liên quan đến việc giảng dạy, giáo dục và chuẩn bị nghề
nghiệp cho sinh viên.
* Đặc trưng lao động sư phạm của người giảng viên


- Mục đích của lao động sư phạm đại học
Lao động sư phạm của giảng viên đại học là loại lao động góp phần "sáng tạo
ra con người", tái sản xuất con người với tư cách là một con người xã hội, có khả
năng lao động để tái sản xuất ra của cải vật chất . Giáo dục đại học có mục đích
đào tạo ra những người lao động có trình độ cao, tạo ra những chuyên gia trong các
lĩnh vực chuyên môn, cho các ngành kinh tế, các lĩnh vực hoạt động xã hội.. .

- Đổi tượng của lao động sư phạm đại học
Lao động sư phạm của giảng viên đại học có đối tượng tác động rất đặc biệt đó là sinh viên và các hoạt động của họ. Họ là những người đang học nghề ở trình
độ cao. Họ cần được trạng bị các tri thức và các kĩ năng nghề nghiệp, rèn luyện các
phẩm chất nghề nghiệp của nghề mà họ đã lựa chọn.
Đối tượng tác động của giảng viên là con người, mà là người có tính tự lập,
tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Vì vậy thành quả lao động sư phạm đại học
khơng chỉ phụ thuộc vào trình độ nghề nghiệp và đạo đức của người giảng viên,
mà cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như tính tích cực của sinh viên, quan hệ
giữa sinh viên và giảng viên... Nghĩa là, chính sinh viên tham gia vào quá trình tạo
ra sản phẩm lao động sư phạm, tạo ra chính họ.
=> Do đó, muốn nâng cao chất lượng sản phẩm lao động sư phạm đại học
cần hiểu sinh viên, biết cách tác động phù hợp để họ tích cực học tập, tích cực cải
tạo chính họ. Theo K.Đ.Usinxki: “Muốn giáo dục con người về mọi phương diện
trước hết phải hiểu con người về một phương diện".
- Công cụ lao động sư phạm
Công cụ lao động sư phạm của ngưòi giảng viên là hệ thống những tri thức,
những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết về mơn học mình phụ trách để có thể chuyển giao
cho sinh viên. Giảng viên có cơng cụ lao động rất đặc biệt là trí tuệ, là phẩm chất
của chính mình. Nhân cách của giảng viên là một cơng cụ lao động thật sự. Nhân
cách người giảng viên tạo nên uy tín và có sức thuyết phục sinh viên rất mạnh mẽ.


=> Muốn xây dựng được uy tín của mình, người giảng viên phải khơng
ngừng tự nâng cao trình độ về nhiều mặt, hồn thiện nhân cách, đạo đức, chun
mơn nghiệp vụ, phải thành thạo các phương pháp giảng dạy hiện đại, sử dụng
thành thạo các phương tiện dạy học hiện đại để nâng cao chất lượng giờ dạy.
- Sản phẩm lao động của sư phạm đại học
Lao động sư phạm đại học tạo ra sản phẩm đặc biệt, đó là các chun gia có
trình độ cáo về một lĩnh vực hoạt động nào đó. Những sản phẩm này là nguồn nhân
lực chất lượng cao cung cấp cho các ngành kinh tế, các lĩnh vực hoạt động xã hội.

Đặc biệt trong nền kinh tế tri thức thì yêu cầu về chất lượng sản phẩm của lao động
sư phạm đại học càng cao. Đó là những người khơng chỉ giỏi chun mơn, có đạo
đức nghề nghiệp mà cịn có khả năng thích ứng cao với điều kiện của kinh tế thị
trường.
- Tính chất của lao động sư phạm đại học
Lao động sư phạm đại học là loại lao động đặc biệt không giống như các lao động
khác. Đây là loại lao động trí óc ở trình độ cao. Người giảng viên đại học là những nhà trí
thức cao cấp. Do đó, lao động của giảng viên rất khó định lượng và định mức.
Ngoài giờ lên lớp, giảng viên mất rất nhiều thời gian nghiên cứu, tìm kiếm tri thức
nâng cao trình độ để nâng cao chất lượng giảng dạy.
Không gian lao động sư phạm của người giảng viên rất rộng. Họ không chỉ dạy
trong một trường mà có thể tham gia giảng dạy ở nhiều cơ sở giáo dục đại học khác, thậm
chí nước ngồi, hướng dẫn học viên cao học, nghiên cứu sinh. Điều đó có nghĩa, người
giảng viên tham gia đào tạo sinh viên, học viên ở nhiều cung bậc trình độ khác nhau. Họ
ln phải chuẩn bị các cung bậc tri thức khác nhau để giảng dạy, hướng dẫn cho sinh
viên. Việc này mất nhiều thời gian và công sức và khó định mức một cách thoả đáng
* Những yêu cầu đối với giảng viên với tư cách nhà sư phạm
Để hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của nhà sư phạm, người giảng viên cần phải
có một số phẩm chất năng lực cần thiết.
- Trước hết, người giảng viên phải có trình độ chun mơn giỏi. Lý luận và thực
tiễn đã chứng minh rằng, chất lượng đội ngũ nhà giáo, quyết định chất lượng giáo dục.


Sản phẩm của lao động sư phạm của người giảng viên là tri thức, là con người. Nếu ko
giỏi với hệ thống những tri thức, những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết về mơn học mình

phụ trách thì rất khó để đào tạo ra những sinh viên giỏi.
- Trước hết, giảng viên đại học phải có năng lực SP.
Năng lực sư phạm được thể hiện rô ràng ở người giảng viên chủ yếu là các phẩm
chất trí tuệ như óc quan sát và sự sáng tạo; các phẩm chất ngôn ngữ như tính thuyết phục,

tính lơgic của ngơn ngữ, các phẩm chất tưởng tượng là khả năng đặt mình vào vị trí của
sinh viên để hiểu sinh viên, tài năng là sự lơi cuốn bởi cơng việc của mình, tính u cầu
cao, tính cơng bằng, khả năng chú ý tới mỗi sinh viên, nét điển hình của tính khí là tính
cân bằng. Năng lực sư phạm liên quan chặt chẽ với các năng lực chuyên biệt khác.
- Người giảng viên phải hiểu biết thực tiễn kinh tế - xã hội của đất nước, thực
trạng giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng; nắm bắt được tỡnh hỡnh giỏo dục
của các nước để từ đó xây dựng hệ thống các quan điểm chỉ đạo, cách nhỡn nhận vấn đề,
cách suy nghĩ, cách hành động. Đây là yếu tố rất cơ bản để giáo viên trở thành tấm gương
cho sinh viên noi theo.
- Theo quan điểm hiện nay, người giảng viên phải coi sinh viên là khách hàng, mọi
hoạt động của giảng viên phải vì sinh viên, người giảng viên cần dạy những gì sinh viên
cần chứ khơng dạy những gì mình có. Người giảng viên phải giúp sinh viên có được
những điều cơ bản mà thị trường lao động cần ở họ. Có quan hệ đúng mực và tình cảm
trong sáng với sinh viên, khách quan trong đánh giá và công bằng trong đối xử.
- giảng viên phải có lịng u nghề, trách nhiệm và tận tuỵ với nghề. Có u
nghề thì mới hết lịng vì sinh viên, mới có sự sáng tạo và ồi bão vươn lên thành đạt trong
nghề nghiệp. Nghề nào cũng có mặt hay và mặt trái khơng hay của nghề.
- Ngồi những phẩm chất trên, giảng viên đại học cần phải có một loạt các phẩm
chất, năng lực khác như: năng lực dạy học, năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực giao
tiếp, năng lực tổ chức, năng lực quản lí những vấn đề có liên quan đến nghề dạy học. Phải
hỡnh thành cho mỡnh một số kĩ năng, kĩ xảo để tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả
cao. Đặc biệt, giảng viên đại học phải có tri thức về ngoại ngữ, tin học… có kĩ năng sử
dụng các thiết bị hiện đại phục vu công tác giảng dạy.
Kết quả lao động của người giảng viên có thể tương quan với một trong năm mức
độ sau:
+ Mức tối thiểu ở mức độ này, người viên biết nói lại cho người khác về những cái
gì mình biết.


+ Mức độ thấp, giảng viên không chỉ biết thông báo các thơng tin mà cịn biết cải

biến chúng cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và cá nhân của đối tượng mà mình giáo
dục và giảng dạy.
+ Mức trung bình, giảng viên biết cách hình thành cho người khác những tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo vững chắc theo từng phần của giáo trình hay từng chuyên đề.
+ Mức độ cao, giảng viên biết hình thành ở sinh viên những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo
vững chắc theo toàn bộ giáo trình và chương trình cơ bản thuộc bộ mơn mình giảng dạy.
+ Mức cao nhất (trình độ mơ hình hóa hệ thống hoạt động: Giảng viên biết đưa bộ
mơn của mình thành cơng cụ để hình thành nhân cách cho sinh viên, có ý thức hình thành
ở họ khả năng tư duy sáng tạo, kĩ năng khai thác một cách độc lập các tri thức mới khái
quát và chuyển chúng vào những điều kiện hoạt động mới.
Để đạt tới trình độ tay nghề cao thể hiện tính nghệ thuật và sự sáng tạo sư phạm thì
người giảng viên khơng những nắm vững trí thức khoa học của bộ mơn của mình và cịn
phải hiểu biết sâu sắc những tri thức tâm lỹ học sư phạm nhằm vận dụng chúng trong quá
trình hoạt động sư phạm ở trường đại học.

IV. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỰ HỌC
1) Hướng dẫn sinh viên lập kế hoạch tự học như thế nào cho hiệu quả
Theo nghĩa rộng, tự học được hiểu là quá trình học tập một cách tự giác, chủ
động và độc lập.
Theo nghĩa hẹp, “tự học” là quá trình học sinh giải quyết các nhiệm vụ học tập
theo yêu cầu của giáo viên mà không giáp mặt thầy.
Ngày nay, tự học không chỉ là một kĩ năng học mà là một phẩm chất nhân cách
của con người sống trong xã hội hiện đại.
Và để giúp sinh viên tự học hiệu quả, thì cần hướng dẫn sinh viên lập kế
hoạch tự học, tức bao gồm việc hướng dẫn sinh viên các kỹ năng sau:
* Kĩ năng xác định mục tiêu
- Mục tiêu học tập là kết quả cần đạt trong một giai đoạn học tập xác định.
Có mục tiêu chung/xa và mục tiêu cụ thể/gần. Để có thể đi tới mục tiêu chung
(mục tiêu xa), cần phải đạt được các mục tiêu gần (mục tiêu cụ thể).



Trước hết, cần giúp sinh viên thấy được vai trò của mục tiêu là dẫn dắt cho
các hành động, giải phóng tiềm năng và thúc đẩy cá nhân.
Mục tiêu xác định cần rõ ràng, cụ thể, khả thi và đo lường được.
- Các bước xác định mục tiêu hiệu quả
+ Bước 1: Viết ra cụ thể những gì cá nhân muốn đạt được;
+ Bước 2: Liệt kê tất cả những lợi ích và những lí do đối với việc đạt mục tiêu;
+ Bước 3: Lên kế hoạch hành động;
+ Bước 4: Xác định thời hạn cụ thể;
+ Bước 5: Tiếp thêm cảm xúc cho mục tiêu;
+ Bước 6: Lấy đà để hành động ngay tức thì.
* Kĩ năng lập kế hoạch
Kế hoạch là toàn bộ những điều vạch ra một cách có hệ thống về những cơng việc
dự định làm trong một thời gian xác định, với mục tiêu, cách thức, trình tự, thời
gian tiến hành
Lập kế hoạch là lựa chọn một trong những phương án hành động mang tính tổng
thể hoặc bộ phận trong tương lai nhằm đạt được mục tiêu mong đợi trên cơ sở khả
năng hiện tại. Trong quá trình lập kế hoạch, các câu hỏi cơ bản sau sẽ được trả lời:
Ta đang ở đâu?
Ta sẽ đi tới đâu?
Ta sẽ làm gì? Sẽ làm như thế nào? Làm bằng phương tiện gì để tới đó?
Làm thế nào để biết ta đi đúng hướng và tới đích?
Với kỹ năng này, cần hướng dẫn sinh viên:
- Xác định những việc ưu tiên cho những thời điểm thích hợp
+ Hướng dẫn sinh viên làm chủ thời gian bằng cách sắp xếp ưu tiên công việc.
+ Phân chia thời gian cho từng loại việc sao cho hợp lí, cố gắng lên kế hoạch
dành thật nhiều thời gian cho những công việc không khẩn cấp và phải tự động
viên thực hiện hàng ngày (nên dành 80% thời gian cho việc học, trong đó 50% là



cho những việc không khẩn cấp, 30% cho việc khẩn cấp, cịn 20% cho việc giải trí
và quan hệ xã hội)
- Lập thời gian biểu
+ Cần phải bắt đầu bằng một thời gian biểu quản lí theo tuần. Khi bắt đầu mỗi học
kì, hãy lập một thời gian biểu cho mọi việc của bản thân.
+ Sau đó, thêm thời gian học tập vào thời gian biểu của từng ngày (chia thời
gian trong ngày dành riêng cho việc học tập dựa theo chu kì tỉnh táo đã nhận thức
được).
+ Tận dụng thời gian trống ở trước và sau giờ học để chèn thêm vào đó những
thơng tin khơng liên quan đến học tập vào thời gian biểu
+ Cần để lại một vài khoảng trống trong thời gian biểu
Các công cụ được sử dụng để lập thời gian biểu sát hợp rất đa dạng: Danh
sách các việc cần làm theo thứ tự ưu tiên, hay là mục tiêu học tập nhỏ trước mắt;
cuốn lịch về những sự kiện quan trọng; Các danh sách ...
Một điều quan trọng của lập thời gian biểu là cần chú ý đến việc vận dụng linh
hoạt các đặc điểm, quy luật của công cụ tâm lý (chú ý, trí nhớ, xúc cảm, động cơ...)
vào q trình học tập và lập thời gian biểu nhằm dành những khoảng ưu tiên cho
các hoạt động học tập.
* Sử dụng thời gian hợp lí
- Đối phó với sự trì hỗn:
+ Chuẩn bị;
+ Đặt mục tiêu học tập;
+ Hình dung sự tổn hại phải gánh chịu nếu trì hỗn;
+ Tưởng tượng ra niềm vui khi đạt được mục tiêu;
+ Cho phép bản thân trì hỗn một số việc.
xây dựng chế độ học tập hợp lí như sau:


+ Biết ưu tiên và làm những việc đúng đắn ở thời điểm thích hợp. Dành thời
gian cho các ưu tiên đó.

+ Nhìn vào bức tranh tổng thể;
+ Thay đổi hay loại bỏ những thói quen làm giảm năng suất làm việc
+ Thực hiện “nguyên tắc 30 giây”.
- Quản lí thời gian hiệu quả
làm chủ thời gian bằng cách sắp xếp ưu tiên cơng việc, theo đó, phải ưu tiên thời
gian cho những việc giúp ta tiến gần đến mục tiêu và thành công hơn.
Nên hướng dẫn sinh viên lập kế hoạch năm học, kỳ học, tháng, tuần.
* Kiểm tra và điều chỉnh kế hoạch tự học
- Kiểm tra đánh giá việc thực hiện kế hoạch tự học
Thời gian biểu phải được cập nhật thường xuyên và dùng nó để phát triển
những mục tiêu hàng ngày, có tính ưu tiên.
Nhưng, việc quan trọng tiếp theo là phải kiểm tra kế hoạch ngày mai vào mỗi
buổi tối, gồm:
+ Định thời gian cụ thể cho từng việc trong ngày mai;
+ Bám sát thời gian biểu một cách kiên trì và có kỉ luật;
+ Điều chỉnh lại kế hoạch làm việc;
+ Gạch bỏ những việc đã hoàn tất.
- Điều chỉnh kế hoạch tự học
V. PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH VÀ TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO
Vận dụng kiến thức đã học, anh/chị hãy phác thảo đề cương chi tiết học phần
mà anh/chị đang dạy/quan tâm?
Đề cương chi tiết học phần: Cơ sở khoa học quản lý
1. Thông tin về đơn vị đào tạo
Khoa: Kinh tế Tài nguyên và Môi trường


×