Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Tội phạm trên địa bàn quận cẩm lệ, thành phố đà nẵng tình hình nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.25 KB, 97 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ QUANG HIỆP

TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN
VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ QUANG HIỆP

TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN
VÀ GIẢI PHÁP PHỊNG NGỪA

Chun ngành: Tội phạm học và phịng ngừa tội phạm
Mã số

: 838.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn
toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Lê Quang Hiệp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ......................................................................................... 7
1.1. Khái quát lý luận về tình hình tội phạm ............................................................... 7
1.2. Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng ........................... 17
CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, TP. ĐÀ NẴNG ............................... 36
2.1. Khái quát lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ............ 36
2.2. Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 43
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................... 61
3.1. Khái quát lý luận về phịng ngừa tình hình tội phạm ......................................... 61
3.2. Thực trạng phịng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP.
Đà Nẵng..................................................................................................................... 64

3.3. Các giải pháp tăng cường phịng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ..................................................................................... 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ANTT

An ninh trật tự

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CSĐT

Cảnh sát điều tra

CSĐTTP

Cảnh sát điều tra tội phạm

CSHS


Cảnh sát hình sự

THTP

Tình hình tội phạm

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

TTXH

Trật tự xã hội

UBND

Uỷ ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đà Nẵng nằm trong vùng dun hải Nam Trung Bộ, có diện tích 1.256,53
km² gồm 06 quận (Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà,
Cẩm Lệ) và 02 huyện Hòa Vang, huyện đảo Hoàng Sa, là trung tâm kinh tế, chính
trị, du lịch, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của cả nước. Đà Nẵng nằm ở
vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh của cả nước; là đầu
mối giao thông rất quan trọng, được đánh giá là thành phố đáng sống nhất Việt
Nam. Vì vây, Đà Nẵng luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong
việc phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Xuất phát từ đặc thù

về vị trí địa lý và tiềm năng sẵn có, đã đưa thành phố này trở thành một trong số các
thành phố phát triển mạnh về loại hình du lịch và các dịch vụ đi kèm, hàng năm thu
hút đông đảo khách thăm quan du lịch từ trong và ngoài ngưới, từ đó thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển kinh tế thì điều đáng lo
ngại là vấn đề tội phạm và trật tự xã hội trên địa bàn, cùng với tình hình phức tạp
của tội phạm trong cả nước, tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố đang là vấn
đề đáng lo ngại, tội phạm có chiều hướng gia tăng về số lượng, xuất hiện nhiều tội
phạm mới và có diễn biến phức tạp, đặc biệt là tội phạm liên quan người nước
ngoài. Quận Cẩm Lệ được thành lập ngày 05/8/2005 từ phường Khuê Trung của
quận Hải Châu và 03 xã (xã Hoà Thọ, Hoà Phát, Hoà Xuân) của huyện Hồ Vang,
hiện nay quận Cẩm Lệ có 06 phường, bao gồm: phường Kh Trung, Hồ Thọ
Đơng, Hồ Thọ Tây, Hồ Phát, Hồ An và Hồ Xn. Với diện tích 33,76 km²,
chiếm 2,63% diện tích tồn thành phố, dân số hiện nay là 159.295 người, chiếm
9,6% số dân toàn thành phố, mật độ dân số đạt 4.224 người/km², là quận nội thành
duy nhất của thành phố Đà Nẵng không tiếp giáp với biển. Qua hơn 14 năm đi vào
hoạt động, tình hình kinh tế - xã hội của Quận đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ, mức sống trung bình của người dân tăng lên đáng kể, quốc phòng - an ninh
được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì điều đáng lo ngại là
vấn đề tình hình tội phạm và trật tự xã hội trên địa bàn. Cùng với tình hình phức tạp

1


về tội phạm của cả nước, tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ cũng đang
có xu hướng tăng và diễn biến phức tạp đặc biệt là tội phạm về ma túy, lừa đảo
chiếm đoạt tài sản do người nước ngồi thực hiện.
Đứng trước thực tế về tình hình tội phạm trên địa bàn, Chính quyền quận
Cẩm Lệ đã chú trọng thực hiện đầy đủ chủ trương chung của Đảng và Nhà nước
cũng như tăng cường các hoạt động nhằm khuyến khích người dân tăng cường đấu
tranh phịng chống tội phạm trên địa bàn Quận. Tuy vậy, thực tế tình hình tội phạm

trên địa bàn vẫn diễn biến phức tạp, số bị cáo bị xét xử mới tăng, tính chất nguy
hiểm của tội phạm ngày càng nghiêm trọng hơn. Trước tình hình tội phạm ngày
càng gia tăng về số vụ, số người phạm tội và tính chất nghiêm trọng, cho thấy cần
tìm ra nguyên nhân của tình hình tội phạm, từ đó có chính sách và giải pháp phù
hợp trong việc đấu tranh phịng ngừa tình hình tội phạm đang là vấn đề cần được
quan tâm nghiên cứu.
Chính vì lẽ đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Tội phạm trên địa bàn quận Cẩm
Lệ, thành phố Đà Nẵng: Tình hình, ngun nhân và giải pháp phịng ngừa” để
làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, tình hình tội phạm ở nước ta diễn biến hết sức phức
tạp, cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm là nhiệm vụ của tất cả các ngành, các
cấp và của toàn xã hội. Do đó, nghiên cứu tình hình tội phạm, ngun nhân, giải
pháp phịng ngừa đã ln được chú trọng, trong mỗi cơng trình nghiên cứu đều có
những đóng góp nhất định cho cơng tác đấu tranh phịng chống tình hình tội phạm
nói chung hoặc chỉ rõ phương pháp đấu tranh phịng chống đối với một số tội, nhóm
tội đặc thù. Trong đó, khơng thể khơng kể đến sự đóng góp đáng kể của bộ sách
“Khoa học hình sự Việt Nam” do Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Xuân Yêm - Giám đốc
học viện Cảnh sát nhân dân đã chủ trì nghiên cứu biên soạn, phát hành. Trong quá
trình nghiên cứu, luận văn cịn sử dụng một số giáo trình, tài liệu có liên quan thể
hiện ở các bài viết đăng trên tạp chí chun ngành như: Giáo trình tội phạm học của
Trường Đại học Cơng an nhân dân, Tạp chí Tịa án, Tạp chí Luật học, Tạp chí Kiểm

2


sát ... đây là những tài liệu nghiên cứu về tội phạm và hình phạt, tình hình tội phạm
và giải pháp phịng ngừa. Bên cạnh đó có một số luận văn thạc sỹ nghiên cứu về
tình hình tội phạm như:
Trần Nhất Chi (2013), Các tội phạm xâm phạm sở hữu do người chưa thành

niên thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam:Tình hình, ngun nhân và giải pháp
phịng ngừa, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
Chu Thị Mai Phương (2014), Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Hịa
Vang, thành phố Đà Nẵng: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận
văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
Nguyễn Quốc Hùng (2014), Tội phạm trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh
Quảng Nam: Tình hình, ngun nhân và giải pháp phịng ngừa, Luận văn thạc sỹ
Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
Phan Văn Dũng (2015), Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội;
Vũ Thị Thu Hà (2015), Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Hai Bà Trưng,
thành phố Hà Nội: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc
sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội;
Lê Văn Thành (2015), Tội phạm trên địa bàn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng
Nam: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” Luận văn thạc sỹ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội
Các cơng trình nói trên đã phần nào làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn
của tình hình tội phạm cũng như nguyên nhân, điều kiện và những giải pháp để
phịng ngừa tình hình tội phạm trên những địa bàn cụ thể. Chính vì vậy, đây là
nguồn tư liệu có giá trị để Luận văn kế thừa và phát triển trong quá trình nghiên cứu
về tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm; thực tiễn tình

3


hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ từ năm 2015 đến năm 2019; lý luận và

thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm cũng như lý luận và thực
trạng phịng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn Quận trong thời gian nói trên, luận
văn đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
quận Cẩm Lệ trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên đây, luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
- Phân tích khái quát những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm;
- Phân tích thực tiễn tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố
Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019;
- Phân tích những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội phạm;
- Nhận diện, đánh giá thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019;
- Phân tích những vấn đề lý luận về phịng ngừa tình hình tội phạm;
- Phân tích thực tiễn phịng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm
Lê, thành phố Đà Nẵng;
- Lập luận và đề xuất giải pháp tăng cường phịng ngừa tình hình tội phạm
trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học đã được nêu ra trong tội phạm học
Việt Nam về tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm;
thực tiễn tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và
thực trạng phịng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, Tp. Đà Nẵng
để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi chuyên ngành: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm;

4



- Phạm vi không gian và thời gian: Đề tài luận văn được nghiên cứu gắn với
địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Luận văn sử dụng các báo cáo, số liệu
thống kê, đặc biệt là thống kê của Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở của phương pháp luận duy vật biện
chứng và lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đường lối,
chủ trương của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước về
đấu tranh phịng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu, có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: phương pháp hệ thống, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, quy nạp, diễn
dịch và nghiên cứu hồ sơ từng vụ án cụ thể.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần nhận thức đúng, đầy đủ và sâu sắc những vấn đề lý luận
về tình hình tội phạm, về nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm và về
phịng ngừa tình hình tội phạm, qua đó góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
của việc xây dựng các giải pháp phịng ngừa tình hình tội phạm có hiệu quả trên địa
bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động phịng ngừa
tình hình tội phạm, nghiên cứu, giảng dạy, học tập tội phạm học tại các cơ sở đào
tạo Luật ở nước ta.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương. Cụ thể là:


5


Chương 1: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà
Nẵng.
Chương 2: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên địa bàn
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường phịng ngừa tình hình tội phạm trên địa
bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

6


CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
1.1. Khái quát lý luận về tình hình tội phạm
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tình hình tội phạm
Theo Đại từ Điển Tiếng Việt thì: “tình hình” được hiểu là “ trạng thái, xu
thế phát triển của sự vật, hiện tượng với tất cả những sự kiện diễn ra, biến đổi trong
đó” [51]. Dưới góc độ luật hình sự, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo
quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [21].
Tình hình tội phạm là khái niệm (phạm trù) quan trọng của tội phạm học, bởi

nghiên cứu các vấn đề về nguyên nhân và điều kiện cũng như các giải pháp phịng
ngừa tình hình tội phạm phải bắt đầu từ việc nghiên cứu làm sáng tỏ thế nào là tình
hình tội phạm. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về tình hình tội phạm.
Chẳng hạn có quan điểm cho rằng: Tình hình tội phạm là trạng thái, xu thế vận
động của các tội phạm (nhóm tội phạm hoặc loại tội phạm) đã xảy ra trong đơn vị
không gian và đơn vị thời gian xác định
Theo một quan điểm khác thì: Tình hình tội phạm là tồn bộ tình hình, cơ
cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai
đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia,
khu vực hoặc toàn thế giới trong một khoảng thời gian nhất định [52].
Cũng có quan điểm cho rằng: Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu
cực, thường xuyên thay đổi, giai cấp, pháp luật hình sự và được phản ánh bằng toàn
7


bộ tình hình, cơ cấu, diễn biến của tổng thể các loại hoặc của một loại tội phạm đã
xảy ra trong khoảng thời gian và trong một phạm vi nhất định [38].
Như vậy, đúng là hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về tình hình tội
phạm. Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, chúng tôi chia sẻ với quan điểm cho
rằng “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự, được thay đổi
về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp, bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các
tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong khoảng thời gian
nhất định” [48, tr.54].
Từ khái niệm nêu trên có thể thấy tình hình tội phạm có đặc điểm:
Thứ nhất, Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội: Đây là thuộc tính quan
trọng và căn bản nhất của tình hình tội phạm, xuất phát từ việc tình hình tội phạm
được hình thành từ những hành vi xã hội được luật hình sự xem là tội phạm và do
những cá nhân sống trong xã hội thực hiện dưới tác động qua lại của nhiều mối
quan hệ xã hội. Mặt khác, tình hình tội phạm có tác động tiêu cực đến đời sống xã
hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội, phá vỡ những trật tự và giá trị vốn có của xã

hội và khi tình hình xã hội thay đổi thì tình hình tội phạm cũng sẽ thay đổi theo.
Thứ hai, Tình hình tội phạm là hiện tượng pháp lý hình sự: Tội phạm là khái
niệm được ghi nhận trong Bộ luật hình sự, nhiều hành vi phạm tội sẽ tạo nên tình
hình tội phạm trong xã hội nhất định, đó là những hành vi bị luật hình sự cấm đoán
thực hiện nên chế tài cho những hành vi đó được luật quy định chi tiết và đảm bảo
thực thi bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà Nước, đó gọi là hình phạt. Thuộc tính
này thể hiện rõ nhất thơng qua sự thay đổi của pháp luật hình sự trong cách ghi nhận
hành vi nguy hiểm nào bị xem là tội phạm, theo đó việc thu hẹp hay mở rộng phạm
vi trừng trị sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các thơng số cơ bản của tình hình tội phạm
trên thực tế.
Thứ ba, tình hình tội phạm là hiện tượng mang tính giai cấp: Bộ luật Hình sự
là sản phẩm của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp, tính giai cấp của tình
hình tội phạm được thể hiện ở các nội dung: Tình hình tội phạm khơng phải là hiện
tượng có trong mọi xã hội lồi người mà nó chỉ ra đời cùng với sự xuất hiện tư hữu,

8


có sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng, sự ra đời của nhà nước và khi
có những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa được, do đó tình hình tội phạm
mất đi khi những mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội được giải quyết. Theo
đó, giai cấp thống trị quy định hành vi nguy hiểm nào bị xem là tội phạm và từ đó
xây dựng hệ thống các biện pháp trừng trị hành vi phạm tội, khi tương quan về lực
lượng giữa các giai cấp trong xã hội thay đổi thì tình hình tội phạm cũng có sự thay
đổi.
Thứ tư, tình hình tội phạm mang tính lịch sử: Tình hình tội phạm khơng phải
là hiện tượng bất biến trong xã hội mà nó hình thành, thay đổi và mất đi trong
những điều kiện lịch sử nhất định. Tình hình tội phạm thay đổi tùy thuộc vào sự
phát triển của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau trong lịch sử và ngay trong
cùng một hình thái kinh tế xã hội nếu có sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã

hội, cơ cấu giai cấp thì tình hình tội phạm cũng có sự thay đổi. Ngồi ra, số lượng
các hành vi bị coi là tội phạm trong những giai đọan lịch sử khác nhau là khác nhau.
Thứ năm, tình hình tội phạm là hiện tượng tiêu cực và nguy hiểm cho xã hội:
So với các hiện tượng tiêu cực khác trong xã hội thì tình hình tội phạm vừa mang
tính tiêu cực vừa thể hiện sự nguy hiểm cao nhất cho xã hội vì tội phạm gây ra
những thiệt hại về mọi mặt cho đời sống xã hội, như: Thiệt hại về tài sản; thiệt hại
về thể chất (tính mạng, sức khỏe); thiệt hại về tinh thần.
Thứ sáu, tình hình tội phạm được hình thành từ một thể thống nhất của các
tội phạm cụ thể: Thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa lượng và chất, giữa tình
hình tội phạm và các tội phạm cụ thể cũng như tác động qua lại của chúng. Tình
hình tội phạm được nhận thức ở mức độ chung khái quát và biện chứng từ những
hành vi phạm tội cụ thể. Sự biến đổi của một tội phạm cụ thể sẽ kéo theo sự thay
đổi của nhóm tội và tình hình tội phạm nói chung trong xã hội, như khi tội phạm ma
túy tăng thì sẽ kéo theo sự gia tăng của nhóm tội xâm phạm quyền sở hữu, xâm
phạm tính mạng sức khỏe.
Thứ bảy, tình hình tội phạm là hiện tượng mang tính khơng gian và thời gian
xác định vì tình hình tội phạm xuất hiện gắn bó chặt chẽ với các phạm vi không

9


gian nhất định như: Toàn quốc, phạm vi vùng, phạm vi địa phương hoặc phạm vi
nghành, lĩnh vực. Phạm vi thời gian có thể là 10 năm hay 5 năm.
Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý xảy ra trên thực tế, cho
dù hành vi phạm tội có bị phát hiện và xử lý bằng chế tài hình sự hay khơng thì sau
khi xảy ra, hành vi đã gây ảnh hưỡng xấu đến đời sống của xã hội. Tuy nhiên, do
tính chất phức tạp của tội phạm nên không phải tất cả các tội phạm đều đã bị phát
hiện và xử lý mà trong số đó có nhiều hành vi phạm tội đã xảy ra nhưng khơng bị
phát hiện và trừng trị. Hay nói cách khác dưới góc độ nhận thức thì tình hình tội
phạm được tạo nên từ phần hiện và phần ẩn của tình hình tội phạm, trong đó, phần

hiện của tình hình tội phạm được hiểu là toàn bộ những hành vi phạm tội đã xảy ra
và chủ thể của những hành vi đó đã bị xử lý hình sự. Cịn phần ẩn của tình hình tội
phạm là bộ phận của tình hình tội phạm bao gồm những tội phạm đã xảy ra do
nhiều nguyên nhân khác nhau mà không bị phát hiện hoặc khơng bị xử lý về hình sự
hoặc bị xử lý về hình sự mà khơng có trong thống kê hình sự.
1.1.2. Phần hiện của tình hình tội phạm
1.1.2.1. Các chỉ số (thơng số) về lượng của tình hình tội phạm
a. Mức độ (thực trạng) của tình hình tội phạm
Mức độ của tình hình tội phạm là số lượng các tội phạm đã được thực hiện
và những người thực hiện các tội phạm đó trong một phạm vi địa lý và khoảng thời
gian nhất định. Thông thường mức độ của tình hình tội phạm thường được khảo sát
trên các phương diện như mức độ tổng quan, mức độ nhóm và mức độ hành vi.
Mức độ tổng quan: Được xác định bằng tổng số vụ án và tổng số bị cáo đã
được đưa ra xét xử trong một đơn vị hành chính nhất định và trong một khoảng thời
gian nhất định. Mức độ tổng quan thể hiện qua chỉ số tội phạm và cơ số hành vi
phạm tội. Trong đó, chỉ số tội phạm được tính bằng tổng số vụ phạm tội trên 10.000
dân trong một năm. Cơ số hành vi phạm tội được tính bằng số hành vi phạm tội (số
bị cáo) trên 10.000 dân trong một năm. Căn cứ vào các chỉ số, bằng thực tiễn nghiên
cứu người ta phân chia thành các mức độ nào là bình thường, mức độ nào là nguy
hiểm, đáng báo động. Thông qua đối chiếu với chỉ số của tình hình tội phạm có thể

10


đánh giá tính chất của tình hình tội phạm tại một đơn vị hành chính, từ đó xác định
khu vực nào có tình hình tội phạm nghiêm trọng hơn.
Mức độ nhóm: Là tổng số vụ phạm tội của một nhóm tội phạm nào đó trong
tổng số vụ án đã xảy ra. Mức độ tội phạm cụ thể là tổng số vụ phạm tội của một tội
phạm cụ thể nào đó trong tổng số vụ án đã xảy ra.
Mức độ hành vi: Mức độ hành vi phạm tội ở một tội danh là số lần tội danh

đó được Tịa án áp dụng để tuyên các bị cáo phạm tội trên một phạm vi trong
khoảng thời gian nhất định.
b. Động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm
Động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm là sự phản ánh xu hướng tăng,
giảm, ổn định tương đối của tình hình tội phạm nói chung (hoặc một nhóm tội phạm
hoặc một tội phạm) trên một địa bàn cụ thể, trong một khoảng thời gian nhất định.
Thông thường để khảo sát được diễn biến của tình hình tội phạm trên một địa bàn
trong một chu kỳ nhất định, người ta chọn năm thứ nhất của chu kỳ là năm gốc, số
liệu về tổng số vụ và số người phạm tội trong năm đó được tính là 100%. Sau đó ta
lấy số liệu về tổng số vụ phạm tội và người phạm tội của các năm tiếp theo đối
chiếu với số liệu của năm gốc để tìm ra xu thế tăng hay giảm của các năm tiếp theo
(tính theo tỷ lệ %). Qua đó, khơng những giúp đánh giá được xu hướng tăng, giảm
hay ổn định tương đối của một chu kỳ mà còn giúp cho việc dự đốn có cơ sở về xu
hướng vận động của tình hình tội phạm trong những năm tiếp theo, từ đó giúp xây
dựng và áp dụng các biện pháp phịng ngừa tình hình tội phạm sát với thực tế.
Diễn biến của tình hình tội phạm trên thực tế thường bị tác động bởi các yếu
tố sau:
Một là, các yếu tố xã hội: Sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế, vấn đề
việc làm, tỷ lệ thất nghiệp, nhập cư, gia tăng dân số, khoảng cách giàu nghèo, hay
sự suy thoái về mặt đạo đức trong xã hội. Khi điều kiện xã hội thay đổi sẽ tác động
đến diễn biến của nhóm tội và tội phạm cụ thể.
Hai là, các yếu tố pháp lý: Khi các yếu tố pháp lý, đặc biệt là pháp luật hình
sự thay đổi thì sẽ dẫn đến sự thay đổi của diễn biến của tình hình tội phạm, như: Sự

11


nghiêm khắc của chế tài hình sự, hay việc quy định hành vi nào là tội phạm, không
phải là tội phạm.
1.1.2.2. Các chỉ số (thơng số) về chất của tình hình tội phạm

a) Cơ cấu của tình hình tội phạm
Cơ cấu của tình hình tội phạm là tỷ trọng và mối tương quan của các loại tội
phạm khác nhau trong số lượng chung của chúng trên một địa bàn trong một
khoảng thời gian nhất định.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về cách phân chia cơ cấu của tình
hình tội phạm phụ thuộc vào sự khác nhau về mục đích nghiên cứu. Tuy nhiên, về
cơ bản có thể phân chia như sau:
Cơ cấu theo nhóm tội: Cơ cấu này được tính theo tỷ trọng giữa các tội đã
xảy ra trong cùng một nhóm được quy định trong Bộ luật Hình sự với tổng số các
tội phạm đã xảy ra. Nghĩa là nếu coi tổng số các tội phạm đã xảy ra trong một thời
gian nhất định trên một địa bàn là 100%, ta phải xác định các nhóm tội phạm đã xảy
ra chiếm bao nhiêu % trong tổng số đó.
Cơ cấu theo tội danh cụ thể: Loại cơ cấu này được tính bằng tỷ trọng giữa
tội danh cụ thể đã xảy ra với tổng số tội phạm đã xảy ra của một nhóm tội trên một
địa bàn trong một thời gian nhất định. Thông qua việc xác định theo cơ cấu từng tội
danh cụ thể để biết được tỷ trọng từng tội trong nhóm tội và làm rõ tội nào là nổi
cộm nhất để tập trung tìm ra nguyên nhân, điều kiện và định hướng phòng ngừa.
Cơ cấu theo hình thức phạm tội: Theo đó cơ cấu nhóm này được xác định
dưới hình thức là đơn lẻ hay đồng phạm trong đó có tội phạm có tổ chức. Loại cơ
cấu này xác định tỷ lệ phần trăm của từng hình thức phạm tội đó chiếm bao nhiêu
trong tổng số tội phạm đã xảy ra trên một địa bàn trong khoảng thời gian nhất định.
Cơ cấu theo địa bàn phạm tội: Loại cơ cấu này xác định tỷ lệ tội phạm đã
xảy ra theo địa bàn hành chính tỉnh so với toàn quốc, hay huyện, xã đã xảy ra so với
tổng số tội phạm trên địa bàn tỉnh. Cơ cấu theo địa bàn phạm tội có ý nghĩa trong
việc xác định nguyên nhân điều kiện gắn với địa bàn cụ thể, từ đó đưa ra các giải
pháp phù hợp với từng địa bàn.

12



Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân của người phạm tội: Mỗi cá nhân người
phạm tội có đặc điểm nhân thân khác nhau tác động đến việc thực hiện hành vi
phạm tội. Theo đó, cơ cấu theo đặc điểm nhân thân bao gồm tập hợp của nhiều cơ
cấu bởi vì mỗi đặc điểm nhân thân lại được đặc trưng bởi một cơ cấu như: Cơ cấu
tội phạm theo độ tuổi, theo giới tính, tơn giáo,... Tùy thuộc vào mục đích nghiên
cứu để lựa chọn loại cơ cấu cụ thể nghiên cứu.
Cơ cấu theo loại hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự: Theo quy
định của Bộ luật Hình sự thì hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ
sung. Trong đó, hình phạt chính gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt bổ sung gồm: Cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế;
tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền; trục xuất. Cơ cấu này xác
định tỷ lệ áp dụng của từng loại hình phạt trong tổng số tội phạm đã xảy ra.
Ngoài ra, bên cạnh những cơ cấu đã trình bày trên, tình hình tội phạm cịn có
thể được nghiên cứu theo các dạng cơ cấu khác, như: Cơ cấu theo hình thức lỗi; cơ
cấu theo đặc điểm công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian phạm tội; cơ cấu theo
đặc điểm mối quan hệ của nạn nhân với người phạm tội, cơ cấu theo động cơ phạm
tội.
Từ việc nghiên cứu về cơ cấu của tình hình tội phạm theo những tiêu chí
khác nhau, người nghiên cứu có thể rút ra những đặc điểm đặc trưng có tính nổi bật
của tình hình tội phạm và những đặc điểm này được gọi là tính chất của tình hình
tội phạm. Việc đánh giá tính chất của tình hình tội phạm có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng các biện pháp phịng ngừa tình hình tội phạm. Biện pháp phòng
ngừa trước hết phải xuất phát từ các nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm
sau đó phải căn cứ vào tính chất của tình hình tội phạm. Chỉ như vậy thì các giải
pháp phịng ngừa mới có phát huy tính khả thi và hiệu quả trên thực tế. Nghiên cứu
cơ cấu của tình hình tội phạm thực chất là tìm hiểu nội dung bên trong của tình hình
tội phạm, tìm ra những điểm riêng biệt của nó.

13



b) Chỉ số (Thơng số) về tính chất của tình hình tội phạm
Thơng qua việc đánh giá các chỉ số về lượng như trình bày ở trên thấy được
tính nguy hiểm, tính nghiêm trọng cũng như xu hướng của tình hình tội phạm…Mặt
khác ẩn sâu trong những số liệu cụ thể về tình hình tội phạm là chỉ số về chất của
tình hình tội phạm. Trong số những chỉ số về chất của tình hình tội phạm ngồi chỉ
số về cơ cấu của tình tình hình tội phạm như đã khái qt trên đây, cịn có chỉ số về
tính chất của tình hình tội phạm, thể hiện thơng qua các số liệu như sau:
Một là, thể hiện ở số liệu các tội phạm nguy hiểm nhất cho xã hội, các đặc
điểm của nhân thân người phạm tội trong cơ cấu của tình hình tội phạm.
Hai là, Các chỉ số về sự thiệt hại của tình hình tội phạm: Trên thực tế trong
nhiều trường hợp cần phải xem xét chỉ số về sự thiệt hại để đánh giá được tính nguy
hiểm của tình hình tội phạm. Cụ thể bao gồm: Chỉ số thiệt hại về vật chất như: tài
sản bị hư hỏng, mất mát; Chỉ số nạn nhân do tội phạm gây ra như: số người bị chết,
bị thương; Chỉ số về chi phí cho việc khắc phục hậu quả do tội phạm gây ra; chỉ số
cho các chi phí của cơ quan bảo vệ pháp luật đấu tranh phòng chống tội phạm; Chỉ
số về các chi phí khác mà nhà nước phải chi vì hậu quả của tội phạm như: chi phí
ni trẻ mồ cơi, chi phí xử lý ơ nhiễm mơi trường; Chỉ số khơng tính được bằng tiền
như uy tín của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, chỉ số về chất của tình hình tội phạm phản ánh mức độ nguy hiểm
khác nhau, mức độ nghiêm trọng khác nhau ở từng khu vực trong những khoảng
thời gian khác nhau thông qua tương quan và tỷ lệ giữa các thành phần tạo nên cấu
thành của tình hình tội phạm như tỷ lệ giữa tội nghiêm trọng và tội ít nghiêm trọng,
tỷ lệ giữa tội phạm do người trẻ thực hiện và người trưởng thành thực hiện, giữa tội
cố ý và tội vơ ý.
1.1.3. Phần ẩn của tình hình tội phạm
Tình hình tội phạm được tạo nên bởi tội phạm rõ (hiện) và tội phạm ẩn. Bởi
vậy việc nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm và nguyên nhân của tội phạm ẩn có ý
nghĩa quan trọng trong việc xây dựng các biện pháp đấu tranh phòng ngừa. Tội

phạm ẩn là các tội phạm đã xảy ra trên thực tế nhưng trong thống kê tội phạm lại

14


khơng có thơng tin ghi nhận, ngun nhân có thể do những tội phạm này không bị
phát hiện và xử lý về hình sự, hoặc tuy đã được phát hiện nhưng khơng được xử lý
về hình sự, hoặc có thể các tội phạm đã được xử lý về hình sự nhưng chưa có bản án
kết tội có hiệu lực pháp luật, hoặc có thể vì khơng được đưa vào thống kê tội phạm.
Qua đó có thể thấy được tội phạm ẩn có thể bắt nguồn từ cả nguyên nhân khách
quan và nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà thực thi pháp luật. Tình hình tội
phạm ẩn có thể xuất phát từ các nguyên nhân cụ thể như sau: Xuất phát từ phía nạn
nhân của tội phạm: Theo đó trong nhiều trường hợp nạn nhân không tố cáo hành vi
phạm tội, việc khơng tố cáo có thể do lo sợ bị trả thù hay do không tin tưởng vào cơ
quan bảo vệ pháp luật; Nguyên nhân xuất phát từ phía người phạm tội: Trong
trường hợp này tội phạm bị ẩn do người phạm tội thực hiện hành vi tinh vi, xảo
quyệt nhằm che dấu hành vi phạm tội, từ đó các cơ quan tiến hành tố tụng không
thể phát hiện ra tội phạm; Nguyên nhân xuất phát từ phía các cơ quan chức năng:
Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp người tiến hành tố tụng do có quen biết
nên cố tình bao che tội phạm hay nhiều trường hợp vì thiếu trách nhiệm nên khơng
phát hiện ra hành vi phạm tội từ đó dẫn đến việc tội phạm khơng bị xử lý và thống
kê theo quy định.
Hiện nay, khi nói về tội phạm ẩn có thể chia làm 03 loại gồm: Tội phạm ẩn
tự nhiên, tội phạm ẩn nhân tạo và tội phạm ẩn do thống kê.
Tội phạm ẩn tự nhiên: Được hiểu là tất cả những tội phạm đã xảy ra trên
thực tế nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tịa án) khơng phát hiện ra do khơng có thơng tin về tội phạm. Loại tội phạm ẩn này
chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tội phạm ẩn, xuất phát từ sự tinh vi xảo quyệt của đối
tượng khi thực hiện hành vi phạm tội cũng như việc họ sử dụng công nghệ, phương
tiện kỹ thuật mà với năng lực hiện tại của các cơ quan tiến hành tố tụng khơng thể

phát hiện và xử lý. Bên cạnh đó cũng có thể xuất phát từ việc người bị hại hay
những người làm chứng mặc dù biết được hành vi phạm tội nhưng đã khơng tố giác
đến các cơ quan có thẩm quyền để thụ lý và giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tội phạm ẩn nhân tạo: Nếu như tội phạm ẩn tự nhiên là do các cơ quan có

15


thẩm quyền trong hoạt động tư pháp không phát hiện dẫn đến hành vi phạm tội
không bị trừng trị theo quy định của pháp luật thì tội phạm ẩn nhân tạo xuất phát từ
lỗi của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử. Hay nói cách khác, những tội phạm đó xã xảy ra trên thực tế, các cơ quan có
thẩm quyền đã biết được thơng tin, tuy nhiên vì nhiều lý do mà hành vi phạm tội đó
khơng bị xử lý và trừng trị theo quy định của pháp luật, những lý do này có thể xảy
ra trong giai đoạn tiếp nhận nguồn tin, tiến hành xác minh nguồn tin, điều tra vụ án
hay giai đoạn truy tố và thậm chí là xét xử vụ án.
Tội phạm ẩn thống kê: là trường hợp có hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế,
người thực hiện hành vi đã bị xử lý bằng chế tài hình sự nhưng lại khơng được đưa
vào thống kê. Để xảy ra tình trạng như vậy có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó việc không thống nhất về thời điểm bắt đầu và thời điểm kết
thúc của năm số liệu cũng là một vấn đề.
Phương pháp xác định tội phạm ẩn: Để xác định tội phạm ẩn, hiện nay có
một số các phương pháp sau:
Một là, Phương pháp điều tra về tội phạm tự tường thuật: Phương pháp này
đòi hỏi cần phải bảo đảm an toàn, đồng thời phải cam kết bảo vệ bí mật danh tính
của người tham gia tự tường thuật về tội phạm mà họ đã thực hiện, nhằm để họ
khơng phải lo lắng về những điều mà mình đã khai ra với cơ quan điều tra cũng như
sợ hãi về việc họ sẽ bị bắt giữ và bị xử lý về hình sự do đã thực hiện tội phạm. Đối
tượng các nhà điều tra hướng tới thường là những người trẻ tuổi, bởi họ là nhóm có
nguy cơ phạm tội cao.

Hai là, Phương pháp điều tra về nạn nhân của tội phạm: Nạn nhân là các đối
tượng đặc biệt, họ bị tổn thất về sức khỏe, tinh thần và vật chất do hành vi phạm tội
gây ra. Khác với phương pháp điều tra về tội phạm tự tường thuật, điều tra về nạn
nhân của tội phạm cũng có cách thức điều tra khác biệt. Qua đó bức tranh về tình
hình tội phạm sẽ đầy đủ hơn và giúp cho cơng tác phịng ngừa tội phạm đạt được
kết quả tốt hơn.
Ngoài ra hai phương pháp trên, trong một số trường hợp có thể sử dụng

16


phương pháp khác như thăm dị xã hội.
Qua đó có thể nhận định là tội phạm ẩn có thể tồn tại ở mọi nhóm tội khác
nhau và xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, cho dù xuất phát từ
nguyên nhân nào đi nữa thì việc tồn tại tội phạm ẩn đã dẫn đến việc đánh giá tình
hình tội phạm khó khăn hơn, từ đó các biện pháp đấu tranh phịng ngừa tình hình tội
phạm sẽ khó để phát huy hết giá trị trên thực tế.
1.2. Tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP. Đà Nẵng
1.2.1. Phần hiện của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, TP.
Đà Nẵng
1.2.1.1. Mức độ (thực trạng) của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm
Lệ, TP. Đà Nẵng
Mức độ (thực trạng) của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành
phố Đà Nẵng được nghiên cứu trong luận văn là số lượng các tội phạm đã được
thực hiện và những bị cáo đã bị xét xử về tội phạm đó trong phạm vi quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng trong khoản thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
Tất cả số liệu về thực trạng tình hình tội phạm trên điạ bàn quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Năng đã được tác giả thu thập từ các báo cáo tổng kết tại Cơ quan
cảnh sát điều tra Công an quận Cẩm Lệ, Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, Tòa
án nhân dân quận Cẩm Lệ, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019.
a. Mức độ tổng quan tuyệt đối
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng được mô tả
tại Bảng 1.1 (Phần phụ lục) cho thấy mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình tội
phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong 05 năm qua (từ năm
2015 đến năm 2019) là 256 vụ án/295 bị cáo bị xét xử, ngồi ra có thể thấy số vụ
phạm tội và số bị cáo trên địa bàn Quận có xu hướng tăng từ 44 vụ/52 bị cáo vào
năm 2015 lên 65 vụ/74 bị cáo vào năm 2019.
b. Mức độ tổng quan so sánh
Khi đánh giá về mức độ tổng quan của tình hình tội phạm trên địa bàn quận

17


Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng so với toàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian 05 năm
từ năm 2015 đến năm 2019, tác giả đã khái quát chung lại trên cơ sở tổng số vụ/số
bị cáo phải xét xử sơ thẩm ở quận Cẩm Lệ so với tổng số vụ/số bị cáo phải xét xử
sơ thẩm trên toàn thành phố Đà Nẵng (nội dung này được mô tả tại Bảng 1.2 phần
phụ lục) .
Xem xét về tỷ lệ số vụ án đã xét xử trên địa bàn quận Cẩm Lệ trên tổng số vụ
án đã xét xử trên toàn thành phố Đà Nẵng được mô tả tại Bảng 1.2 (Phần phụ lục)
có thể thấy tỷ lệ qua các năm từ năm 2015 đến năm 2019 xu hướng tăng về số vụ
phạm tội được nhìn thấy ở cả trên địa bàn quận Cẩm Lệ và toàn thành phố, tuy
nhiên khi so với sự gia tăng của toàn thành phố Đà Nẵng có thể thấy là tỷ lệ số vụ
phạm tội của quận Cẩm Lệ tăng từ đầu thời kỳ đến cuối thời kỳ đánh giá. Cụ thể số
vụ án được đưa ra xét xử ở quận Cẩm Lệ so với thành phố Đà Nẵng qua các năm
như sau:
- Năm 2015 số vụ là 44/615

-


chiếm tỷ lệ 7,15%;

- Năm 2016 số vụ là 45/632

-

chiếm tỷ lệ 7,12%;

- Năm 2017 số vụ là 44/644

-

chiếm tỷ lệ 6,83%;

- Năm 2018 số vụ là 58/665

-

chiếm tỷ lệ 8,72%;

- Năm 2019 số vụ là 65/712

-

chiếm tỷ lệ 9,13%.

Xem xét về tỷ lệ số bị cáo bị xét xử ở TAND quận Cẩm Lệ so với tồn thành
phố được mơ tả tại Bảng 1.2 (Phần phụ lục) cho thấy so với tỷ lệ của năm 2015
(4.99%) thì có sự giao động theo hướng tăng trong các năm từ 2016, 2019 (tỷ lệ lần

lượt là 5.48% và 5.64%) và giảm vào các năm 2017, 2018 (tỷ lệ lần lượt là 4.55%
và 4.98%), điều này chứng tỏ mức độ phức tạp của tình hình tội phạm ngày càng
gia tăng, mỗi vụ án khơng đơn thuần chỉ có một bị cáo mà có thể có nhiều bị cáo
phạm tội có tổ chức phát sinh trên địa bàn Quận. Nhìn chung, số lượng bị cáo trên
địa bàn quận Cẩm Lệ và toàn thành phố đều tăng trong suốt thời kỳ khảo sát, chỉ
duy nhất giảm vào năm 2017 với chỉ 51 bị cáo ở quận Cẩm Lệ. Số liệu này cho thấy
cơng tác phịng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ chưa mang lại hiệu quả
cao, mức độ tăng về số vụ và số lượng bị cáo so vơi tồn thành phố cịn nhiều.

18


Đánh giá xu hướng của tình hình tội phạm trên địa bàn quận Cẩm Lệ, Tp. Đà
Nẵng: Với những nhận định trên cơ sở số liệu thống kê xét xử hình sự của TAND
quận Cẩm Lệ và TAND Tp. Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019
như đã phân tích trên, cho phép đánh giá xu hướng của tình hình tội phạm như sau:
Trước hết tình hình tội phạm ln biến động, có thể có phát sinh tăng hoặc giảm
nhưng mức độ biến động tăng không lớn, cụ thể biến động ít nhất là năm 2015,
2016 và 2017, theo đó trong 03 năm này, số vụ chỉ chênh lệnh nhau 01 vụ, tuy
nhiên sau đó chứng kiến sự biến động tăng cao nhất vào năm 2018 tăng 14 vụ so
với năm 2017 (từ 44 vụ lên 58 vụ, tăng 31,82%), tiếp tục tăng vào năm 2019 (từ 58
vụ lên 65 vụ, tăng 12,07%). Trong những năm tới chính quyền địa phương đang
tăng cường kiểm sốt tình hình tội phạm, nên số vụ án và tỷ lệ vụ án so với toàn
thành phố Đà Nẵng được kỳ vọng sẽ giảm. Tuy nhiên, điều này phụ thuộc ở những
yếu tố kinh tế xã hội và hiệu quả thực tế của cơng tác phịng ngừa tình hình tội
phạm trên địa bàn Quận cũng như địa bàn toàn thành phố trong thời gian tới.
Để nghiên cứu mức độ của tình hình tội phạm trên một địa bàn trong khoảng
thời gian nhất định, cần nghiên cứu cả cơ số tội phạm, bởi cơ số tội phạm là chỉ số
khái quát nhất về mức độ của tình hình tội phạm đối với một đơn vị hành chính,
trong một đơn vị thời gian nhất định là 1 năm và được tính bằng số tội phạm hoặc

số người phạm tội trên 100.000 dân hoặc trên 10.000 dân (Bảng 1.3 phần phụ lục).
Theo số liệu của cục thống kê thành phố Đà Nẵng, dân số quận Cẩm Lệ lần
lượt trong các năm từ 2015 đến 2019 là: 108.704 người, 111.468 người, 114.270
người, 133.813 người, 159.295 người. Trên cơ sở dân số của quận Cẩm Lệ và thành
phố Đà Nẵng kết hợp với số liệu vụ án và bị cáo xét xử sơ thẩm ở quận Cẩm Lệ
trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 ta sẽ xây dựng được cơ số phạm tội trên
địa bàn quận Cẩm Lệ theo Bảng 1.3 (Phần phụ lục).
Từ số liệu thống kê trên cho thấy, trên địa bàn quận Cẩm Lệ có cơ số tội
phạm thấp, tức là mức độ tội phạm phổ biến trong dân cư thấp, cứ trong 10.000 dân
thì năm 2015 có 4,05vụ/4,78 bị cáo; năm 2016 có 4,04 vụ/5,02 bị cáo; năm 2017 có
3,85 vụ/4,46 bị cáo; năm 2018 có 4,33 vụ/4,63 bị cáo; năm 2019 có 4,08 vụ/4,65 bị

19


cáo. Biến động về cơ số tội phạm trên địa bàn tương đối đều trong thời gian từ năm
2015 đến 2019 về cả số vụ và số bị cáo, trong đó về số vụ thì có sự tăng nhẹ ở cuối
kỳ so với đầu kỳ, tuy nhiên điều đặc biệt là ghi nhận một sự giảm mạnh vào năm
2017 với tỷ lệ thấp nhất về số vụ/10.000 dân (chỉ 3,85 vụ/10.000 dân), về số lượng
bị cáo thì ghi nhận sự giảm nhẹ ở cuối kỳ so với đầu kỳ, tuy nhiên có sự tăng lớn về
số lượng bị cáo vào năm 2016 với tỷ lệ 5,02 bị cáo/10.000 dân. Số liệu này cho thấy
tính trên 10.000 dân thì số vụ phạm tội tuy không giảm mạnh nhưng mức tăng
tương đối thấp, cịn số bị cáo thì có xu hướng giảm, cho thấy chính quyền đã đảm
bảo kiểm sốt và khống chế tốt tình hình tội phạm tuy nhiên cơ số bị cáo đã xét xử
không giảm tương ứng, điều này phản ánh mức độ nguy hiểm, tính chất phức tạp
của mỗi tội phạm ngày càng tăng.
Tỷ lệ giữa số bị cáo và số vụ: Mức độ tổng quan của tình hình tội phạm trên
địa bàn quận Cẩm Lệ cịn được làm rõ hơn qua việc tính tốn tỷ lệ giữa số bị cáo
với số vụ. Trên địa bàn quận Cẩm Lệ bình quân tỷ lệ chênh lệch giữa số bị cáo với
số vụ án trong 05 năm từ năm 2015 đến năm 2019 là: 1,16, tức là cứ trung bình 01

vụ án có 1,16 bị cáo. Tỷ lệ này có sự biến động qua các năm từ năm 2015 đến năm
2019, cụ thể: từ tỷ lệ 1,18 vào năm 2015, tăng lên 1,24 vào năm 2016, rồi lại giảm
xuống 1,16 vào năm 2017 và đạt mức thấp nhất là 1,07 vào 2018, sau đó lại tăng lên
1,14 vào năm 2019. Tính tốn trên tồn thành phố thì tỷ lệ chênh lệch giữa số bị cáo
với số vụ án cũng có những biến động tăng giảm qua mỗi năm, cụ thể: từ 1,69 vào
năm 2015, giảm xuống và đạt mức thấp nhất là 1,62 vào năm 2016, sau lại tăng lên
là 1,74 vào 2017 và 1,87 vào 2018, tỷ lệ này giảm xuống còn 1,84 ở năm 2019
(bảng 1.4 phần phụ lục).
Với tỷ lệ số bị cáo đã xét xử ở Tịa án nhân dân quận Cẩm Lệ nói riêng và
thành phố Đà Nẵng nói chung có sự biến động nhẹ từ năm 2015 đến năm 2019,
trong đó khi xét trên điạ bàn quận Cẩm Lệ thì tỷ lệ cuối kỳ thấp hơn so với đầu kỳ,
điều này cho thấy số vụ phạm tội đơn nhất xảy ra trên địa bàn có xu hướng ngày
càng tăng lên, cịn tội phạm có tổ chức có xu hướng giảm xuống. Cịn khi xét trên
phạm vi tồn thành phố thì qua số liệu thấy có sự tăng vào cuối kỳ, điều này cho

20


×