Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.86 KB, 17 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Dàn ý Phân tích truyện Vợ nhặt</b>
<b>I. Mở bài</b>
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nông thơn,
hình tượng người nơng dân lao động.
- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nơng dân, miêu tả
tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và
sức sống kì diệu của họ.
<b>II. Thân bài</b>
1. Ý nghĩa nhan đề
“Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh
thê thảm của con người trong nạn đói.
2. Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng - một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được,
theo về khơng.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hồn cảnh của Tràng khó mà lấy
được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo khơng về, tự ngờ ngợ mình đã có vợ ư), với những
người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Tình huống éo le: hồn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) khơng cho phép Tràng
lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.
3. Nhân vật Tràng
- Hồn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống
bấp bênh, ..., bản thân: xấu xí, thơ kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”,
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Lần gặp 1: lời hị của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ khơng có tình ý gì với
cơ gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cơ ta ăn dù khơng dư dả gì. Đó là
hành động của người nơng dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng
ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ
dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước
quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về
+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh
vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh
quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến
+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”,
căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy
+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngơi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...), Tràng
nhận ra vai trị và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới.
Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự
biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
4. Nhân vật người vợ nhặt
a. Lai lịch
- Khơng có q hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị
dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng khơng có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong
cảnh đói.
b. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn hai con
mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn
nhiên vô tư của người lao động nghèo.
- Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời
ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái
đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ khơng chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người.
Người đọc vẫn cảm thơng sâu sắc với thị vì đó khơng phải là bản chất mà do cái đói xơ đẩy.
c. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo khơng về khơng
cần sính lễ vì thị sẽ khơng phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hồn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một
tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường,
hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể
hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm qt tước nhà cửa, khơng cịn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà
hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện
sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
- Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ khơng vĩnh viễn
cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị cịn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc
Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
5. Nhân vật bà cụ Tứ
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọm khọm, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm
nhẩm tính tốn theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện
của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoà đi”: thương cho con trai phải lấy vợ nhặt,
mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới
phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm
lạc quan, bảo ban các con làm ăn, ...
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.
<b>III. Kết bài</b>
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo
<b>2. Phân tích Vợ nhặt - mẫu 1</b>
Nhà văn Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân
Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ơng chỉ được học hết
bậc Tiểu học rồi phải đi làm. Yêu thích văn chương, ông bắt đầu sáng tác từ năm 1941. Một
số truyện ngắn của ông lấy đề tài ở cuộc sống lam lũ của người nơng dân hoặc các sinh hoạt
văn hóa truyền thống ở thôn quê.
Truyện Vợ nhặt kể về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của nhân dân ta trong thời gian xảy ra
nạn đói khủng khiếp đã làm chết hơn hai triệu người. Đấy là hậu quả chính sách cai trị dã
man của thực dân Pháp trong mấy mươi năm và chủ trương tàn bạo “nhổ lúa trồng đay” của
phát xít Nhật. Cũng như một số tác phẩm khác viết về nạn đói, ngịi bút Kim Lân chứa chan
thương cảm trước những số phận bất hạnh. Thông qua truyện, tác giả tố cáo tội ác dã man của
thực dân Pháp, phát xít Nhật; đồng thời phản ánh khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và
niềm tin vào tương lai tươi sáng của người dân lao động.
Tóm tắt nội dung như sau: Anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, chỉ với vài câu bơng đùa và mấy bát
bánh đúc mà nhặt được cô vợ đang sống dỡ chết dở vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa cái
cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hơn diễn ra âm thầm trong bóng tối lạnh lẽo, điểm
những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới
chỉ có rau chuối, cháo loãng và muối mẹ chồng đãi nàng dâu và con trai món chè nấu bằng
cám. Câu chuyện của ba mẹ con xoay sang việc Việt Minh tổ chức phá kho thóc của Nhật
chia cho dân nghèo. Trong óc Tràng hiện lên hình ảnh của đám người đói và lá cờ đỏ bay
phấp phới…
Nhan đề Vợ nhặt đã thu hút sự chú ý của người đọc ngay từ đầu. Vợ nhặt là vợ theo khơng,
Nguyên nhân sâu xa là do nạn đói khủng khiếp đang xơ đẩy cịn người vào chỗ chết nên
người đàn bà kia mới phải chấp nhận làm vợ Tràng. Ý nghĩa tố cáo của tác phẩm tuy kín đáo
nhưng sâu sắc. Tác giả khơng trực tiếp nói đến tội ác của bọn đế quốc, phong kiến, vậy mà tội
ác của chúng cứ phơi bày ra một cách đáng ghê tởm và tình cảnh cớ cực, đói khát của dân
nghèo quả là thê thảm.
Tình huống lạ lùng nói trên là đầu mối cho sự phát triển của nội dung truyện, tác động đến
diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật. Bối cảnh lớn của truyện là nạn đói năm
1945, bối cảnh nhỏ là cái xóm ngụ cư tồi tàn ven chợ. Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên
bức tranh hiện thực với màu sắc ảm đạm và hình ảnh thê lương.
Quả là một cảnh tượng khủng khiếp! Thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói chưa
từng thấy từ trước đến nay, khiến hàng triệu người chết đói. Khắp nơi, đâu đâu cũng bao phủ
bởi một màu địa ngục.
Tràng, nhân vật chính của câu chuyện là một thanh niên ngụ cư nghèo khổ, xấu xí, sống hiu
quạnh với mẹ già trong túp lều tồi tàn ở mé sông. Ngày xưa, kiếp ngụ cư tủi nhục trăm bề. Họ
bị dân làng khinh rẻ và phải làm những công việc bị coi là hèn hạ như đầy tớ, thằng mõ…
Dân địa phương dù nghèo đến mấy cũng không chịu gả con gái cho đám ngụ cư vì cho rằng
Tràng gặp người đàn bà ấy tất cả chỉ có hai lần vào những dịp chở thóc lên tỉnh. Lần thứ nhất,
hai bên chỉ đùa bỡn dông dài vài câu rồi thôi. Lần sau gặp tại, Tràng khơng nhận ra vì chị ta
thay đổi nhiều quá. Chị ta nhắc mãi anh mới nhớ ra và toét miệng cười xin lỗi rồi mời ăn trầu.
Chị ta sỗ sàng gợi ý: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Anh vui vẻ đãi chị một bữa bánh đúc (thứ
quà của người nghèo) no nê. Thấy chị cắm cúi ăn như chưa bao giờ được ăn, Tràng động lịng
thương, liền bảo: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Câu nói của Tràng nửa đùa nửa thật. Đùa ở chỗ bỡn cợt cho vui, nhưng thật ở chỗ trong thâm
tâm, Tràng cũng đang muốn có vợ. Khốn nỗi vì anh nghèo quá nên không ai chịu lấy. Thời
ấy, đứng tuổi như Tràng mà chưa có vợ là khơng bình thường, là bất hạnh. Câu nói của anh
vừa tếu táo vừa đượm vẻ chua chát: Làm đếch gì có vợ…
Đã từ lâu, anh ao ước có được một người vợ, nhưng chí ít cũng phải là người bình thường,
khỏe mạnh chứ đâu phải là loại chết đói chết khát, dở người dở ma kia?
Tràng nói đùa khơng ngờ chị ta theo về thật khiến anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân
mình cũng chả biết có ni nổi khơng, lại còn đèo bòng. Nghĩ rồi lo, nhưng anh tặc lưỡi:
Chậc, kệ! Có lẽ anh cho rằng mình đang mạnh chân khỏe tay, lại có cơng ăn việc làm, nên
dẫu đèo bịng thì cũng chưa đến nỗi chết đói ngay đâu mà sợ. Vả lại, anh nỡ lòng nào bỏ
người đàn bà kia chết đói cho đành?
Chẳng cịn là chuyện đùa bỡn nữa. Không chỉ đơn giản là cứu người mà cịn may mắn tự
nhiên có được vợ nên Tràng phải nghiêm túc và có trách nhiệm. Anh đưa chị ta vào chợ tỉnh,
đãi thêm một bữa thật no, sắm cho cái thúng đựng mấy thứ lặt vặt rồi dẫn về nhà. Trong lịng
Tràng giờ đây khơng chỉ có tình thương mà cịn có niềm vui sướng, háo hức.
Mấy lần Tràng định nói với thị một vài câu cho tình tứ mà chẳng biết nói thế nào. Cái phút
ban đầu bao giờ chả thế. Đùa thì tự nhiên. Nửa đùa nửa thật đã khó. Nay đã là thật rồi, khó
biết mấy! Mà mọi chuyện có bình thường, êm đẹp cả đâu? Tràng lúng túng là phải.
Tuy vậy, từ trong sâu thẳm lòng anh, niềm vui bất ngờ cứ dâng lên mãi: Trong một lúc, Tràng
như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang
đe dọa… Trong lòng hắn bấy giờ chỉ cịn tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới
mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ơng nghèo khổ ấy… Đúng là thế. Đó là niềm vui to
lớn nhất đời: anh đã có vợ. Tình cảm của anh đối với người đàn bà xa lạ kia khơng chỉ là
thương hại, cưu mang mà cịn là lòng biết ơn bởi chị ta đã chịu làm vợ anh mà khơng địi hỏi
một điều kiện nào. Nhờ thế anh mới có được vợ và cuộc đời anh mới đổi khác. Từ nay, anh
khơng cịn phải sống thui thủi một mình một bóng nữa.
Bức tranh ngập tràn tử khí. Ảm đạm cảnh, ảm đạm người, nhà cửa, xác xơ, heo hút, úp súp,
tối om… chẳng khác chi những nấm mồ hoang lạnh. Sự sống chỉ cịn thoi thóp. Cái chết đã
đến, đang đến. Lại thêm tiếng quạ cứ gào lên từng hồi bởi chúng đã đánh hơi thấy mùi xác
chết. Tất cả cảnh vật đểu đang lâm vào thế lụi tàn, tan rữa. Giọng văn của Kim Lân ở đoạn
này rất tỉnh táo, khách quan nhưng dồn nén cảm xúc đau thương nên gây ấn tượng mạnh.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về
với một người đàn bà nữa. Tràng dẫn người đàn bà này về làm vợ, để xây dựng gia đình, sinh
con đẻ cái tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Giọng kể của
tác giả chợt trở nên hóm hỉnh: Mặt hắn có một vẻ gì phởn phở khác thường. Hắn tủm tỉm
cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Tràng vui sướng trước sự kiện to lớn bất
ngờ của đời mình: anh đã kiếm được vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan, mình
cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại tự nhiên có vợ. Chuyện lạ lùng mà thú vị!
Lạ lùng với Tràng và lạ lùng cả với cái xóm ngụ cư tồi tàn, nhỏ bé này. Cái cảnh Tràng đi
trước, người đàn bà đi sau cách ba bốn bước với cái dáng rón rén, e thẹn, đầu hơi cúi xuống,
cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt… làm cho mọi người tò mò đổ ra
Họ thú vị nghĩ tới chuyện Tràng có vợ. Họ muốn chia vui cùng anh. Cái xóm ngụ cư đang
hấp hối này bỗng bừng lên một thoáng sống.
Vui đấy nhưng lo ngay đấy. Người ta lo thay cho Tràng: ơi chao! Giời đất này cịn rước cái
của nợ đời về. Biết có ni nổi nhau sống qua được cái thì này khơng? Ấy là họ lo cho cái sự
sống đang phải đối mặt từng ngày với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Hai người về đến nhà Tràng. Cái tổ ấm của họ ra sao trong đêm tân hôn? Sự sống được tiếp
nối như thế nào?
Cái gọi là nhà đúng ra chỉ là túp lều vắng teo… rúm rớ. Trong lều, niêu bát, xống áo… bừa
bộn trên giường, dưới đất… Khung cảnh hoang tàn, vắng lạnh. Tràng chợt có cảm giác sờ sợ
người đàn bà ngồi bất động ở đầu giường như một bóng ma… Có cái gì đó kì dị như trong
truyện ma quỷ thời xưa.
Đến đêm, cảnh tượng lại càng lạ lùng hơn nữa. Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc. Hai vợ
chồng nằm bên nhau, đành giấu những gì n và vui vào bóng tối. Nhưng bóng tối cũng
khơng yên mà hãi hùng, đáng sợ bởi đầy tiếng hờ khóc tỉ tê… vẳng ra từ những nhà có người
chết đói.
giác êm ái lửng lơ lạ lùng chưa từng thấy vẫn đang tồn tại trong người và rõ ràng trước mắt,
người đàn bà bằng xương bằng thịt kia là vợ anh.
Vậy là chuyện anh Tràng tự dưng nhặt được cơ vợ (khơng nghiêm túc về mặt hình thức) giờ
Nhu cầu được yêu thương và khao khát xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình là bản năng
của con người. Buổi sáng sau đêm đầu tiên Tràng có vợ, khơng khí gia đình anh trở nên khác
hẳn. Nhờ sự có mặt của người đàn bà mà cái nhà của anh mới thật sự là một tổ ấm. Trước kia,
mẹ con Tràng chỉ sống tạm bợ cho qua ngày. Nay ai cũng có trách nhiệm hơn với nhà cửa,
vườn tược của mình. Nhìn vợ và mẹ đang dọn dẹp, Tràng bỗng thấy thương yêu gắn bó với
cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái
nhà như cái tổ ẩm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập
trong lòng. Tâm trạng này diễn ra ở một người như Tràng mới thật cảm động. Người ta lấy
vợ lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu; nhưng với Tràng thì đó là cả một ước mơ lớn
tưởng chừng khơng bao giờ thực hiện được. Giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm chính là ở
chỗ tác giả đã phát hiện, đồng cảm và chia sẻ niềm vui sướng rất con người này ở những thân
phận nghèo khổ trong xã hội cũ. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin le lói của
người dân lao động vào tương lai là rất đáng trân trọng.
Bên cạnh Tràng, người vợ nhặt cũng là một nhân vật trung tâm của truyện. Người đàn bà ấy
khơng có đến một cái tên để gọi. Không tên, không tuổi, cả đến đặc điểm nhận dạng cơng
khơng nốt. Chẳng ai biết gốc tích của chị ở đâu? Cha mẹ là ai? Nhà cửa, anh em thế nào? Tất
cả đều không. Chỉ biết là ngày ngày, chị ngồi lẫn trong đám con gái trước cửa kho thóc để
nhặt nhạnh hạt rơi hạt vãi hay chờ ai có việc gì th mướn thì làm.
Hình thức của chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác: Áo quần tả tơi như tổ đỉa… trên
cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị ta là một trong hàng triệu con
người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực, lang thang vất vưởng kiếm ăn và sẽ chết gục
nơi đầu đường xó chợ bất cứ lúc nào.
Việc chị ta trở thành vợ Tràng giống như một trò đùa, là chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai
bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Xưa nay, hôn nhân là đại sự. Con gái lấy chồng, giàu nghèo gì cũng phải cố cưới xin tử tế.
Giàu thì làm lớn, mời họ mời làng. Nghèo đến mấy cũng phải có mâm cơm trình tổ tiên, ơng
bà rồi mới nhận vợ, nhận chồng.
Vợ thì cũng năm bảy loại. Có loại q hóa như cơ tiểu thư con quan trong Lí ngựa ơ, đem lại
danh giá, sang trọng cho chồng. Có loại vợ phải tốn bao cơng sức, tiền của mới cưới được…
Tủi nhục thay cho những ai mang tiếng là vợ theo (theo khơng, chẳng cưới hỏi gì). Xã hội,
gia đình khơng chấp nhận những cuộc hơn nhân như vậy. Tủi hơn nữa, người đàn bà trong
truyện lại là vợ nhặt – Tràng tình cờ nhặt được chị như nhặt được một vật gì đó rơi trên
đường.
Lần đầu, chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời trêu ghẹo của bạn
bè. Chị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt, cười tít. Chuyện đùa
giỡn chì có vậy nên người đàn bà này khơng để lại dấu ấn gì trong trí nhớ của Tràng. Vì thế,
gặp lần thứ hai, anh không nhận ra chị ta bởi: Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi… gầy sọp
hẳn đi…
Ăn như thế là đói lâu rồi, nay chỉ cần có chút gì cho vào bụng để sống. Cảnh ấy khiến Tràng
động lòng thương. Anh buột miệng nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên
xe rồi cùng về. Tràng chỉ đùa, ai ngờ chị ta theo về thật.
Người đàn bà ấy đi theo Tràng trước hết chì vì miếng ăn chứ chẳng có tình cảm gì. Nghĩ cũng
xấu hổ nên trên đường về nhà “chồng”, chị ta chả biết nói gì và tỏ ra ngượng ngùng khi thấy
mọi người trong xóm ngụ cư nhìn mình bằng ánh mắt tị mị.
Chị ta chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí chỉ là để có một nơi nương tựa cho
khỏi chết đói. Lâm vào tình cành éo le ấy, chị ta vừa ngượng ngùng vừa tủi phận. Lúc gặp bà
cụ Tứ, chị e sợ, khép nép, chẳng biết nói năng, chào hịi thế nào cho phải.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng cho ăn một bữa no, ngồi ra khơng biết
tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ (biết là thật hay giả), vậy mà đi
theo một cách dễ dàng, khơng đắn đo, sợ hãi. Có liều lĩnh chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ!
Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã, vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước.
Khỏi đói, Khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói
ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào!
Vào nhà Tràng, chị cứ ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần.
Anh Tràng mời chị ngồi cơ mà? Sao chị khơng dám ngồi cho ngay ngắn, đàng hồng? Mẹ
anh chưa về, có ai đâu mà giữ lễ? Hóa ra cái dáng ngồi rụt rè, chơng chênh ấy kì thực cũng là
cái thế của lòng chị, đời chị. Liệu chỗ ngồi này có phải là chỗ của chị khơng? Mái nhà này có
phải là nơi để chị dung thân khơng? Chị bần thần vì ngỡ như mọi chuyện vừa xảy ra không
phải là thực. Làm vợ, làm dâu mà đến thế này ư? Lấy chồng, cái hạnh phúc lớn nhất của đời
con gái ấy, chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm! Tủi lắm! Trăm mối ngổn ngang. Chị
khơng nói được nên lời, bởi cất tiếng, chắc chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra theo nước mắt
mà lặn vào trong nên càng đau, càng tủi.
Ấy thế nhưng chỉ sau một đêm làm vợ Tràng, chị hóa ra khác hẳn: Tràng nom thị hôm nay
khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực khơng cịn vẻ gì chạo chát như mấy lần
Tràng gặp ở ngoài tỉnh… Hoàn cảnh sống nghiệt ngã biến chị ta có lúc thành kẻ trâng tráo,
nhưng bản chất thì khơng phải như vậy. Nếu hơm qua, cái đói làm mất đi những gì tốt đẹp ở
chị thì hơm nay, chị bắt đầu có ý thức vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà
sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang… Có bàn tay săn sóc của chị, túp lều rách nát, tăm tối của mẹ
con Tràng bỗng trở nên sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Cho
đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Cái hạnh phúc đơn sơ mà
đầm ấm ấy đã đem đến một sự đổi thay thật sự trong hình dáng và tính cách của người đàn
bà, khiến cho Tràng phải ngạc nhiên, bỡ ngỡ.
Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng là nhân vật gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc. Tấm lòng
nhân hậu của bà mới đáng quý làm sao! Lúc đầu, thấy người con gái xa lạ ngồi ở giường con
với chị dịu dàng, âu yếm gọi chị là con, xưng u và bà lão nhìn người đàn bà, lịng đầy thương
xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi…
Với tâm lí của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm trước cúng tổ tiên ông bà, sau
mời làng mời xóm. Nhưng ao ước ấy khơng thể thực hiện được vì bà nghèo quá. Bà rất biết
trước biết sau, song cái khó bó cái khơn, bà đành chịu. Bà chỉ biết nói với các con những lời
khun nhủ chân tình cốt làm sao cho chúng mày hòa thuận là u mừng rồi… Chúng mày lấy
nhau lúc này, u thương quá.
Con trai tự dưng có được vợ, bà lão mừng lắm: Bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái
mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa… Bà
không vui sao được khi con trai bà đã thành gia thất?! Bà cũng vơi đi một mối lo âu bấy lâu
nay cứ canh cánh bên lòng. Trong bữa ăn đầu tiên của ba mẹ con, dẫu chỉ có cháo lỗng với
muối hột nhưng bà tồn nói chuyện vui, tồn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái
chuồng gà thì tiện quá. Này, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…
Ở người đàn bà già nua, nghèo khổ này chứa đựng những nét đạo lí cổ truyền của dân tộc. Bà
cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại, nhen nhúm niềm tin, niềm vui sống
cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí
mãnh liệt: Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút.
Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mọt cơm, cầm cái muôi vừa khuấy khuấy vừa cười:
- Chè đây… Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Rồi bà múc trao cho con dâu, con trai, miệng vẫn tươi cười, đon đả: - Cám đấy mày ạ, hì.
Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà cịn chả có cám mà ăn đấy…
Bà lão “đãi” nàng dâu mới món ăn đặc biệt mà bà gọi là chè, nấu bằng cám. Bà khen ngon
đáo để và so sánh: Xóm ta khối nhà cịn chả có cám mà ăn đấy. (Vậy có cám mà ăn như thế
này là cịn may lắm!) Chao ơi là khổ! Phải đói đến mức nào thì mới ăn cám thấy ngon? Cuộc
sống khắc nghiệt đày đọa con người, bắt họ phải sống cuộc sống của lồi vật, song nó khơng
dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia. Bà cố đổi buồn thành vui.
Bà cố tươi cười, đon đả cho bữa cơm đỡ phần thê thảm, cịn tác giả và chúng ta thì khóc.
Khóc vì thương, vì quý tấm chân tình của bà.
Sống giữa cái chết ngày càng che phủ bóng đen gớm ghiếc của nó vào mọi gia đình, vậy mà
những người nghèo khổ như mẹ con Tràng vẫn tin vào cuộc sống, vào tương lai: Ai giàu ba
họ, ai khó ba đời. Bà cụ Tứ cứ tin vu vơ như thế. Vì miếng cơm manh áo, họ buộc phải vượt
lên mọi gian nan, khổ ải để sống nên mới có được niềm tin dai dẳng và kì diệu ấy.
Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang lẫn nhau mà sống. Tình
vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ tăng sức mạnh vượt qua giai đoạn ngặt nghèo trước
mắt. Tình cảm ấy rất cần nhưng chưa đủ để đảm bảo cho ba người một tương lai tốt đẹp hơn.
Hiện tại, cuộc sống vẫn một màu xám xịt, đầy đe dọa và chết chóc: Ngồi đình bỗng dội lên
một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngồi bãi chợ hốt
hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen…
Cái tài của tác giả là cứ nhẹ nhàng như không mà luồn lách ngòi bút động đến tận nơi sâu
thẳm của tâm hồn, bắt người ta phải cười, phải khóc, phải sống với nhân vật của mình.
đóng thuế, lại cịn tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo… Điều ấy gợi cho
Tràng nhớ tới cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đơ Sộp. Đằng trước có lá
cờ đỏ… và tâm trí anh bị cuốn hút mãi bởi hình ảnh ấy.
Tràng chưa được giác ngộ cách mạng nên lúc chứng kiến cảnh đó anh thấy sợ. Giờ hiểu ra,
anh lại ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu… Bước đầu, anh thấy rằng cần phải làm như thế vì
khơng có cách nào khác. Tin rằng lần sau, trong đồn người phá kho thóc của Nhật, thế nào
cũng có mặt vợ chồng Tràng. Hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới đem đến cho Tràng bao hi
vọng vào sự đổi đời. Đó là ý nghĩa dự báo cách mạng của tác phẩm này.
Truyện Vợ nhặt tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của nhà văn Kim Lân. Cốt truyện đơn
giản nhưng chặt chẽ. Trong truyện, người và cảnh đan xen, tương phản với nhau. Bản chất
đẹp đẽ bên trong tương phản với vẻ xấu xí bên ngồi, sự sống tương phản với cái chết… Tất
cả đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề của truyện.
Tác giả không miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc lúc bấy giờ mà chú trọng đến việc thể hiện vẻ
đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái bề ngồi xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Viết
truyện này, tác giả bày tỏ thiện cảm sâu sắc đối với họ. Ơng khẳng định sự đói khát, khơng
tiêu diệt được bản tính tốt đẹp của con người, hiện thực tăm tối không giết chết nổi niềm tin
vào cuộc sống. Trong hoàn cảnh cơ cực, đọa đày, họ vẫn nhen nhóm niềm tin, vẫn hi vọng
vào sự đổi đời và một tương lai tốt đẹp. Truyện gây ấn tượng mạnh với người đọc bởi tính
chất nhân văn cao cả, bởi ngôn ngữ mộc mạc, sinh động và giàu sức gợi tả. Tấm lòng của tác
giả gửi gắm trong truyện đáng quý biết chừng nào!
<b>3. Phân tích Vợ nhặt - mẫu 2</b>
Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người nông
dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những phẩm chất: yêu
đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu
nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con chó xấu
xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi
cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và sau đó mất bản thảo.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp, khiến
hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp diễn ra ở khắp nơi khiến con
người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành
cơng trong tác phẩm của ông.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện xuất hiện,
đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư,
sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa
làng, chứ khơng được sống trong trung tâm của làng như những người khác. Khơng chỉ vậy,
họ cịn không được chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng
đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Khơng dừng lại ở đó, gia đình
Tràng cịn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì khơng được chia
ruộng nên Tràng phải làm cơng việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người ngụ cự, anh
Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, cịn hai
bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn. Thân hình to lớn vập vạp, như một
người khổng lồ. Tràng cịn vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt
lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, cịn với các cơ
gái anh hồn tồn khơng có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng
khơng có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được vợ một
cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta thường có những câu hò
để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị
đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ
một kẻ thơ kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hơm nay bỗng trở
nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào
cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình.
Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm
hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng tây
ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã
trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu
mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng,
xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong
cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ
của anh cu Tràng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân dân ta
trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó cịn là sự cảm thương cho số phận họ. Trân trọng,
phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lịng
nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.
Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ nhặt. Người
vợ nhặt khơng có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng khơng hề
có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận
con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ
đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng
hốy lại. Ngoại hình thị vơ cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của
thị cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon.
Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập
Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vơ dun ấy lại là một con người có khát vọng sống vơ
cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên
của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, thị cịn hiện lên với vẻ đẹp
nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống;
cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang
cảnh nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ
chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư
tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng có vai trị, ý
nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha phương cầu thực;
chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con
nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại
nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui
mừng cho đơi trẻ. Bà dặn dị hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến
niềm tin, sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực. Tác
phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời ánh lên giá trị
nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước mơ đổi đời của con
người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc
thầy của nhà văn Kim Lân.
<b>4. Phân tích Vợ nhặt - mẫu 3</b>
Kim Lân được mệnh danh là nhà văn của người nông dân, của làng quê Việt Nam bởi trong
các tác phẩm của ông luôn hướng tới hình ảnh người nơng dân. Với văn phong giản dị, mộc
Ngay cái nhan đề của tác phẩm “Vợ nhặt” đã gợi lên cho người đọc nhiều suy nghĩ về nội
dung câu chuyện, thể hiện một việc trọng đại của đời người chính là việc dựng vợ gả chồng
nhưng lại được làm rất qua loa, như việc nhặt một món đồ, một viên gạch ngoài đường mang
về nhà.
Mở đầu tác phẩm tác giả Kim Lân đã phác họa lên hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước
đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”
Chỉ bằng vài chi tiết nho nhỏ tác giả Kim Lân đã khiến cho người đọc hình dung ra được hình
ảnh nhân vật
Nhân vật Tràng là người có ngoại hình thơ kệch, xấu xí, gia cảnh thì mẹ góa con cơi, bần hàn.
Hắn chẳng có điểm nào thu hút phụ nữ. Cơng việc của Tràng làm nghề kéo xe bò thuê chở
hàng cho người ta, một công việc lao động tay chân, bán mồ hôi sức lao động để kiếm vào
đồng xu lẻ. “Hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay.
Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Sự đói nghèo bần hàn, vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu hắn luôn hiện lên những suy nghĩ
lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy hắn ngửa mặt cười cười một cái gì đó. Tràng thật sự là một con
người kỳ quái.
Giữa khung cảnh nghèo đói, cùng cực ấy. Một con người xấu xí, thơ kệch nghèo khổ như
Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cơ độc vì chả có gì thu hút người khác thì làm
sao mà lấy được vợ. Nhưng không ngờ Tràng vẫn lấy được vợ, mà con lấy được một cách dễ
dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thơi.
Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng nhặt được vợ “Muốn ăn cơm trắng với
giị, thì ra đây đẩy xe bị với anh nào” Chỉ có như thế thơi nhưng một cơ gái ngoan ngỗn ra
đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ.
Tác giả Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vơ cùng thú vị, độc đáo làm thay đổi số phận
của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú vị và thu hút người đọc.
Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ, bởi việc lấy vợ lấy chồng là
việc vô cùng quan trọng trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy
tính trước sau. Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thịi biết bao, làm vợ người ta mà khơng
có một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng, khơng có giấy đăng ký kết hơn,
khơng có chứng nhận của hai bên họ hàng.
Sự nghèo khó đã đẩy những con người khốn khổ xích lại gần nhau hơn. Họ tìm đến với nhau
để nương tựa vào nhau trong lúc khó khăn, cho bớt cơ cực. Họ cũng hy vọng khi có nhau rồi
cuộc sống của họ sẽ thay đổi ít nhiều có thêm niềm vui vào tương lai.
Hình ảnh vợ Tràng hiện lên làm người đọc khơng khỏi xúc động “thị cắp cái thúng con, đầu
hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e
thẹn”.
Khi đưa thị về nhà khung cảnh xóm ngụ cư hiện lên đìu hiu, buồn bã, ảm đạm như những con
người sống trong xóm nghèo đó “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy
phố, úp sụp, tối om, khơng nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những
người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma...”
Những người hàng xóm tò mò hỏi Tràng về người phụ nữ đi bên cạnh Tràng. Họ tị mị vì
một người nghèo khổ xấu xí như Tràng mà cũng có gái theo. Nhưng có người cũng thực tế
hơn họ cho rằng trong thời kỳ đói khổ miếng ăn khơng có như hiện nay mà cịn cưới vợ vác
thêm một miệng ăn về nhà thì khác nào vác một cục nợ.
Cuộc gặp gỡ giữa mẹ chồng nàng dâu cũng khiến nhiều người phải ám ảnh bà cụ Tứ mẹ
Tràng “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một
người đàn bà ở trong…”
Lúc đầu bà cụ lo lắng lắm nhưng rồi bà cụ Tứ cũng nhận ra vấn đề “bà lão cúi đầu nín lặng,
bà lão hiểu rồi. Lịng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn, vừa xót
xa cho số kiếp con mình. Chao ơi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên
nổi, cịn mình…”
Những suy nghĩ đau đớn chua xót của một người mẹ thương con, được tác giả Kim Lân tái
hiện qua những trang viết vô cùng xúc động làm lay động trái tim người đọc.
Bà cụ Tứ vui mừng chấp nhận người vợ của con trai mình. Hình ảnh bữa cơm đầu tiên sau
đêm tân hơn hiện ra khiến nhiều người không khỏi nghẹn ngào đắng ngắt trong cổ họng. Đó
chính là “nồi cháo cám” với đĩa muối trắng, hoa chuối thái vội. Một hình ảnh đại diện cho cái
nghèo, hiện lên chân thực, mộc mạc.
Tuy nhiên, trong bữa cơm ấy ba con người trong câu chuyện lại ăn uống rất ngon. Họ cịn nói
chuyện với nhau về tin đồn Việt Minh phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Trong bữa cơm
ấy, ba con người khốn khổ cùng mơ ước có một ngày được thấy ngọn cờ đỏ sao vàng, được
sống một kiếp sống khác. Họ cùng nhau tin tưởng vào tương lai.
<b>5. Phân tích Vợ nhặt ngắn gọn</b>
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình
ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình
cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt
tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc
của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật
đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm
1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như nga ra,
không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng khơng gặp ba bốn cái thây nằm
cịng queo bên đường. Khơng khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân
dân thê thảm.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những
điều khốn khổ, bần hàn nhất. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút làm nên
cuộc đời của từng nhân vật.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật
ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người
đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nơng dân nghèo rách mùng tơi. Từ
ngày nạn đói hồnh hành, đám trẻ con khơng buồn trêu tràng nữa, vì chúng đã khơng cịn sức
lực. Khung cảnh buồn thiu, đầy ám ảnh bao phủ lên xóm nghèo. Trong khung cảnh chiều tà,
suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang
một bên cánh tay. Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”.
Với vài chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vé lên trước mặt người đọc hình ảnh người nơng dân
nghèo đói, xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.
Hình anh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị
cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, khơng cịn thứ gì giá trị đi cạnh
một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh.
Giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên khung cảnh đìu hiu, ảm đảm
của xóm nghèo “từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp sụp, tối
om, khơng nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những người đói dật dờ
Điều đáng chú ý chính là cách những người hàng xóm hỏi thăm Tràng về người đàn bà đi bên
cạnh tràng. Thực ra thấy lạ nên người ta mới hỏi, thì cũng hiểu ra, có lẽ là vợ Tràng, “nhìn
chị ta thèn thẹn hay đáo để”. Người đàn bà bắt khơng cịn chua ngoa, đanh đá nữa mà trở nên
thẹn thùng khi quyết định theo Tràng về làm vợ.
Làm vợ một cách bất ngờ, giữa cảnh đói như ngả rạ. Có lẽ cái nghèo đói đã đẩy hai con
người đến với nhau, khơng phải tình u nhưng là tình thương. Hẳn người đọc sẽ cảm thơng
và xót thương cho những mảnh đời dật dờ nơi xóm ngụ cư.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển
đổi trong tâm tinh thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao
dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững
lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…” Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên.
Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người
mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai ốn, vừa xót xa cho số kiếp con mình.
Chao ơi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, cịn mình…” Những
suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho
cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.
Bà đã chấp nhận người “vợ nhặt” của con trai. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình
ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám”
trong buổi bữa cơm đón dâu dầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói
nghèo đến cùng cực trong một gia đình “khơng cịn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hơm nay thay
đổi tâm trạng, tồn nói những chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại khơng khí vui tươi
Đây là một chi tiết vô cùng đắt giá trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân khiến người
đọc nhớ mãi. Bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện của cuối truyện ngắn đã
mang đến chút niềm tin và hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn.
Bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc họa tâm lý nhân vật sắc sảo, độc đáo
và cốt truyện đầy bất ngờ Kim Lân đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn
lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu thương
giữa người với người ln bất diệt.
<b>6. Phân tích Vợ nhặt học sinh giỏi</b>
phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư
khi hồ bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và
cuối cùng, truyện ngắn “Vợ Nhặt” ra đời.
Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm
sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của
những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện
thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có
cơng khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về
sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con
người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy
không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương
Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân
tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nơng dân, ngơn
ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt
chúng ta một khơng gian đói thật thảm hại, thê lương.
Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bón ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng
khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống
đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi
cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được
thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối
thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu
Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình.
Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người
chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người
dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau
khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu
Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám
như những bóng ma”, trước “khơng khí vẩn lên mùi hơi của rác rưởi và mùi gây của xác
người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật
không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng,
bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một
con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thơ kệch và xấu xí ấy lại
chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.
Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng”
như khơng phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu
thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường
như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn,
Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình.
Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó “ơm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có
một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường
như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Và Tràng
đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logíc. Những thay đổi ấy khơng
có gì khác ngồi tâm hồn đơn hâu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?
Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng
không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng
đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã
bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn
đến lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra
sân dọn dẹp nhà cửa.
Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự chuyển biến
lớn. Chính tình u của người vợ, tình mẹ con hồ thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước
vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá
cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ
thay đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy khơng thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tố ấy rồi sẽ qua đi để đón
chờ ánh sáng cuộc sống tự dong đang ở phía trước sức mạn của thời đại. Một lần nữa, Kim
Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt làm
thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác,
u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lọn đến cô vợ hiền thục,
Đó chính là tình người, là tình thương u. Thị tuy theo khơng Tràng về chỉ qua bốn bát bánh
đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có
trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến đã bóp nghẹt quyền sống của con
người. Thị xuất hiện không tên tuổi, không quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”,
điệu bộ trơng thật thảm hại nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến
đổi tất cả, từ khơng khí xóm ngụ cư đến khơng khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh
khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng
cao cả vào sự sống vào tương lai.
Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật khơng thể thiếu cho tác phẩm. Thiếu thị,
Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực.
Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lịng ca ngợi sức
sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói
khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc, vào
cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra
một nét đẹp độc đáo vơ cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kĩ
ở nhân vật bà cụ Tứ.
tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội
tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.
Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con
ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu
nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín
lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi
cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu
hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lịng đầy xót thương.
Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con
Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè
cám nghẹn * cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lịng đơn hậu chất chứa u
thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”.
Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện khơng
khỏi làm chạnh lịng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng
dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề
tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành cơng ở ba nhân vật.
Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc
sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng,
vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điếm áng
mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý
nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là
viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ
sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lịng tin u vào cuộc sống là con nguồn mạch
giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ơng đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung,
về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lịng người và tình người. Đọc xong thiên
truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.
<b>7. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ</b>
Tuy xuất hiện ít hơn nhưng nhân vật bà cụ Tứ để lại nhiều ấn tượng và sự thương cảm trong
lòng người đọc.
Qua miêu tả của Kim Lân, bà cụ Tứ là một bà cụ tuổi đã già, những cử chỉ của bà chứng tỏ bà
là người bắt đầu bước sang tuổi già yếu, mắt kèm nhèm, vì hồn cảnh đói nghèo thiếu thốn
cho nên bà có khn mặt bủng beo, u ám, bước đi chậm rãi. Những hành động của bà khơng
cịn nhanh nhẹn mà chậm rãi và từ từ, như sợ mình khơng thể làm được mọi thứ một cách
nhanh gọn như thời cịn trẻ. Nhưng dáng vẻ đó của bà cụ Tứ thay đổi khi bà lần đầu nhìn thấy
Tràng - đứa con trai tội nghiệp, vì đói nghèo, khổ ải mà không lấy được vợ, không gây dựng
được hạnh phúc gia đình. Như lời bà nói thì đến cái thân mình cịn lo chưa nổi nữa là lo đèo
bòng. Nhưng số kiếp, duyên số đã vồ lấy nhau thì có muốn tránh cũng khơng được, mắt bà cụ
hấp háy như thể xác minh lại điều mình thấy đã đúng chưa hay chỉ là do tuổi già. Người phụ
nữ ngồi trên giường, tay vin vào áo, vừa e thẹn rồi lại cất tiếng chào u.
Bà cụ Tứ dù sống trong kiếp sống nghèo khổ nhưng không thể phủ nhận rằng, ở bà vẫn tồn
tại một nỗi niềm và tình yêu thương vô bờ bến mà bà đã dành cho con của mình. Từ bây giờ
đứa con dâu kia cũng trở thành con một nhà. Hoàn cảnh thiếu thốn nhưng khơng có gì là
khơng làm được. Từ hai bàn tay có thể làm được nhiều điều hơn nữa, khơng chỉ dừng lại ở
việc lôi nhau về rồi cuối cùng chịu số phận kiếp nạn đói nghèo mãi được. Bà rơi nước mắt
vừa mừng vừa tủi cho bọn chúng - đứa con trai và con dâu tội nghiệp của bà. Khóc vì cuối
cùng con trai bà cũng lấy được vợ, nhưng khóc vì tương lai đói nghèo, cái đói cịn đeo đuổi
những con người này tới bao giờ. Bà rồi mai này già yếu bà khơng lo, nhưng cịn những đứa
Dù sống trong hoàn cảnh nào nhưng bà cụ Tứ vẫn lạc quan niềm tin yêu vào cuộc đời, và
tương lai của hai đứa con của bà. Niềm vui nho nhỏ của một người mẹ già yếu chính là thấy
những đứa con của mình no ấm hạnh phúc. Bạn muốn thay đổi diện mạo cuộc sống, muốn
mọi thứ trở nên sạch sẽ và tinh tươm, khơng cịn tù mù như trước nữa. Dặn dị những đứa con
của mình, bà cũng mong muốn chúng bắt đầu cuộc sống và bước sang một trang mới. Cuộc
sống của dâu mới không được danh chính ngơn thuận cưới về, khơng có mâm bàn mời bà con
lối xóm, nhưng chắc chắn một điều rằng, từ nay trở đi bà đã có thêm một đứa con. Sáng sớm
tinh mơ mọi thứ được dọn dẹp sạch sẽ, bụi quang rậm cũng được phát bỏ. Một chi tiết được
tác giả gây dựng khiến độc giả vừa ngậm ngùi thương xót chính là hình ảnh mà bà cụ Tứ lễ
mễ bưng một nồi nghi ngút. Bữa cơm đón dâu mới theo lời bà cụ nói là “chè“ nhưng thực
chất chỉ là cám. Miếng cám đến mặn chát và đắng ngắt khiến cho cô con dâu nghẹn ứ, mặt
xám lại, khơng ai nói với ai một lời. Nhưng thơng qua lời nói của bà, cách bà gọi đây là chè
khiến cho cuộc sống nghèo khổ bớt nhạt nhẽo.
Tóm lại, bà cụ Tứ tuy xuất hiện ít trong đoạn trích nhưng những gì bà để lại khiến bản thân
chúng ta phải suy ngẫm. Đó là một người phụ nữ giàu lòng thương yêu và đức hi sinh. Cuộc
đời bà như thế nào cũng được nhưng còn con của bà, chúng phải thay đổi và cuộc sống của
chúng sẽ tốt lên. Bà cụ Tứ còn gieo vào những người con của mình một niềm tin yêu, lạc
quan vào cuộc sống và về tương lai sau này.
<b>8. Phân tích nhân vật Thị</b>
Nhân vật "Thị" là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng
người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945.
Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trị tơ đậm tư
tưởng nhân đạo của tác phẩm.
xác người. Thị cũng chạy đói "ngồi vêu ra" cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ
tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp
đi của tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò "muốn ăn cơm trắng mấy giò...", Thị bị mấy cô bạn "đẩy
vai". Thị "cười như nắc nẻ" cong cớn nói với Tràng: "Này nhà tơi ơi, nói thật hay nói khốc
đấy?". Thị "liếc mắt cười tít" làm cho anh cu Tràng "thích lắm". Lần sau, Thị gặp lại Tràng
thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám
xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân Thị là vực thẳm, là chết đói! Thị "sưng sỉa" trách
Tràng là "điêu", "leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!". Thấy Tràng vỗ vào cái túi
khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hốy" của Thị tức thì sáng lên. Thị "đon đả" với anh cu
Tràng: "Ăn thật nhá!". Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen: "Hà, ngon!".
Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói với Tràng rất lẳng lơ: "Về
chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!". Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng "làm đếch gì có vợ...", thế là
Thị theo về ngay, "Thị về thật". Khi đứng trong cái nhà "vắng teo... rúm ró" của mẹ con
Tràng, Thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng "cái ngực gầy lép nhơ hẳn lên, nén một tiếng
thở dài".
Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thơ lỗ, sỗ sàng. Thị đã
nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc. cần được ăn để sống. Thị
cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái
đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi. thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:
"Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!"
(Ca dao)
Bản chất của người con gái đói khổ khơng rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả
của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động.
Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành "nàng dâu mới" của bà cụ
Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ
khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm
Nghe bà cụ Tứ nói: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân" Thị "vẫn khép
nép đứng nguyên chỗ cũ". Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả
cau, một lá trầu, không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương!.
Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính "hay đáo để". Cái "liếc mắt cười tít" lần đầu gặp
Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu: "Khỉ gió". Một lời trách nhẹ
chồng: "... chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột". Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói
yêu: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang
thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, Thị đã trở thành vợ của Tràng, dù cịn
nhiều thử thách lo lắng, nhưng Thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm
động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc
muộn màng nhưng đáng q giá biết bao! Ngịi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân
trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng Tràng.
mặt đất" tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng Thị? Thị "lẳng lặng" đi vào bếp dọn
bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có "nàng dâu mới", Tràng đã
có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, thơng tin mới mẻ
về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, Thị nói với mẹ chồng và chồng:
"Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta khơng chịu đóng thuế nữa ta cả kho thóc của
Nhật chia cho người đói nữa đấy". Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới"
cũng là người truyền tin cách mạng.
Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày
Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa,
bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám - hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng
thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.