Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208 KB, 32 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
I. ĐẶC ĐIỂM VÀ NGHIỆP VỤ BÁN HÀNG TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
1.Đặc điểm nghiệp vụ bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại.
Doanh nghiệp thương mại thực hiện chức năng tổ chức lưu thông hàng hoá trong
nền kinh tế, các doanh nghiệp thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa người sản xuất
và người tiêu dùng. Hoạt động chính của Doanh nghiệp thương mại là mua vào và bán
ra các sản phẩm hàng hoá, đem hàng hoá tới người tiêu dùng nhằm để thoả mãn nhu
cầu của họ về một giá trị sử dụng nhất định.
Bán hàng ở các Doanh nghiệp thương mại là quá trình các đơn vị đó thực hiện
việc chuyển giao hàng hoá cho người mua để thu được tiền hoặc được quyền thu tiền.
Bán hàng là khâu cuối cùng của quá trình lưu chuyển hàng hoá trong doanh nghiệp
thương mại.
Về phương diện xã hội thì bán hàng có vai trò quan trọng trong việc cân đối giữa
cung và cầu. Bởi vì nền kinh tế quốc dân là một thể thống nhất với những cân bằng,
những tương quan tỉ lệ nhất định. Sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp được tiêu thụ
tức là hoạt động kinh doanh đang diễn ra một cách bình thường trôi chảy, tránh được
sự mất cân đối, giữ được sự ổn định trong xã hội. Đồng thời việc bán hàng hoá giúp
cho các doanh nghiệp xác định phương hướng và bước đi của kế hoạch kinh doanh cho
giai đoạn tiếp theo.
Đứng trên giấc độ luân chuyển vốn, bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại là
quá trình chuyển hoá từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ (H - T') và hình thành
kết quả kinh doanh thương mại. Thông qua quá trình bán hàng các đơn vị kinh doanh có
thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng với từng
sản phẩm hàng hoá, từ đó doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch kinh doanh
phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Qua quá trình bán hàng giá trị và giá trị sử dụng
của hàng hoá mới được thực hiện. Như vậy, bán hàng là khâu quan trọng nhất trong
quá trình kinh doanh của bất kỳ Doanh nghiệp thương mại nào. Bán hàng là điều kiện
quan trọng để tạo ra thu nhập bù đắp chi phí bỏ ra, bảo toàn và phát triển vốn kinh
doanh. Để đạt được mục tiêu này thì hàng hoá của Doanh nghiệp thương mại không


những phải đảm bảo chất lượng mà còn phải đáp ứng được thị hiếu luôn biến động của
người tiêu dùng, cạnh tranh được với những hàng hoá khác cả về chất lượng giá cả,
mẫu mã cũng như phương thức bán hàng, dịch vụ bán hàng…
Xét từ góc độ kinh tế, bán hàng chính là quá trình chuyển giao hàng hoá của đơn
vị bán cho đơn vị mua, khi đó Doanh nghiệp thương mại mất quyền sở hữu về hàng hoá
và thu tiền thanh toán của người mua hoặc quyền thu tiền của người mua, theo nghĩa
đó quá trình bán hàng được chia thành hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Đơn vị bán xuất giao hàng hoá cho đơn vị mua. Giai đoạn này đơn
vị bán căn cứ vào các hợp đồng tiêu thụ đã ký kết để giao hàng cho khấch. Đơn vị bán
có thể giao hàng trực tiếp hoặc có thể giao hàng gián tiếp cho khách hàng. Giai đoạn
này phản ánh một mặt quá trình vận động của hàng hoá. Tuy nhiên nó chưa đảm bảo
phản ánh được kết quả của việc bán hàng, chưa có cơ sở để đảm bảo quá trình bấn hàng
đã hoàn tất, bởi vì hầng hoá gửi đi đó chưa khẳng định là sẽ thu được tiền.
- Giai đoạn 2: Khách hàng trả tiền hoặc xác nhận trả tiền. Đây là giai đoạn đơn
vị đã tiêu thụ được hàng hoá và thu tiền về (hoặc sẽ thu được tiền về). Kết thúc giai
đoạn này cũng là lúc quá trình tiêu thụ được hoàn tất, đơn vị có thu nhập để bù đắp các
chi phí đã bỏ ra trong quá trình kinh doanh và hình thành kết quẩ bán hàng.
Tóm lại, quá trình bán hầng ở các doanh nghiệp thương mại có đặc điểm chính
sau:
- Có sự thoả thuận trao đổi giữa người mua và người bán: người bán đồng ý bán,
người mua đồng ý mua, giá bán hàng là giá thoẩ thuận giữa hai bên, trả tiền hoặc chấp
nhận trả tiền.
- Có sự thay đổi quyền sở hữu về hàng hoá: người bán mất quyền sở hữu về
hàng hoá, còn người mua có quyền sở hữu về hàng hoá đã mua.
- Trong quá trình bán hàng, đơn vị bán cung cấp cho khách hàng một khối lượng
hàng hoá nhất định và nhận lại được từ khách hàng một khoản tiền gọi là doanh thu
bán hầng. Số doanh thu này là cơ sở để đơn vị xác nhận kết quả bán hầng hoá của
mình.
2. các phương thức và hình thức bán hàng trong doanh nghiệp thương mại
Trong nền kinh tế thị trủờng, việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của các doanh

nghiệp thương mại được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, theo đó các sản
phẩm hàng hoá vận động từ doanh nghiệp thương mại đến tay các hộ tiêu dùng cuối
cùng. Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản phẩm hàng hoá tiêu thụ mà quá trình bán hàng hai
khâu: Khâu bán buôn vầ khâu bán lẻ. Bán buôn là hình thức bán hàng cho các doanh
nghiệp tổ chức kinh tế để thoả mãn nhu cầu kinh doanh. Đặc trưng của bán buôn là bán
hàng hoá với số lượng lớn, chấm dứt hình thức mua bán hầng hoá vẫn còn trong lưu
thông. Gía trị hàng hoá chưa được thực hiện hoàn toàn. Phương thức thanh toán trong
khâu bán buôn chủ yếu không dùng tiền mặt.
Bán lẻ là bán hàng hoá trực tiếp cho ngươif tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu
sinh hoạt. Đặc trưng của bán lẻ hàng hoá là bán hàng với số lượng nhỏ hơn, chấm dứt
hình thức mua bán hàng hoá chuyển vào lĩnh vực tiêu dùng. Giá trị hàng hoá được
thực hiện, giá trị sử dụng của hàng hoá được xã hội thừa nhận. Phương thức thanh toán
trong khâu bán lẻ chu yếu là dùng tiền mặt.
Bán buôn và bán lẻ hàng hoá có thể thưc hiện theo nhiều phương thức khác
nhau. Dưới góc độ kế toán nghiên cứu các phương thức bán hầng là nhằm để xác định
trách nhiệm hàng hoá, chi phí , thời điểm ghi chép vào sổ kế toán được chính xác, kịp
thơì
2.1 Các phương thức bán buôn.
Hiện nay, các doanh nghiệp thường áp dụng hai phương thức bán hầng là:
bán buôn vận chuyển thẳng và bán buôn hàng qua kho.
a. Bán buôn hàng qua kho:
Theo phương thức này, hàng bán được mua vào và dự trữ trước trong kho, sau đó
xuất ra bán, Căn cứ vào cách giao hàng, phương thức bán buôn qua kho phân biệt
thành hai hình thức:
- Bán buôn trực tiếp tại kho : Theo hình thức này thì bên mua căn cứ vào hợp đồng
đã ký kết, uỷ nhiệm người của đơn vị mình đến nhận hàng tại kho đơn vị bán buôn .
Chứng từ bán hàng là '' Hoá đơn GTGT''. Hoá đơn này do doanh nghiệp bấn buôn lập
thành ba liên,một liên giao cho người nhận hàng (bên mua), hai liên gửi về phòng kế
toán làm thủ tục thanh toán tiền hầng. Sau khi đại diện bên mua ký nhận đủ hàng trên
chứng từ, bên mua đã thanh toán tiền hàng hoặc chấp nhận nợ thì số hầng giao được

xác nhận là tiêu thụ.
- Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng: Theo hình thức này, đơn vị bán
buôn căn cứ vào hợp đồng đã ký kết với bên mua tiến hành chuyển hàng cho bên mua
bằng phương tiện vận chuyển tự do có hoặc thuê ngoài. Chứng từ bán hàng là ''Hoá
đơnGTGT'' do doanh nghiệp lập thành ba liên. Một liên chứng từ gửi cho bên mua cùng
với vận đơn, hai liên gửi về phòng kế toán để làm thủ tục thanh toấn tiền hàng. Số hàng
gửi đi vẫn thuộc quyền sở hữu của đơn vị bán buôn, chỉ khi nào đơn vị thu được tiền
bán hàng hoặc bên mua xác nhận là đã được hàng và chấp nhận thanh toán mới được
coi là tiêu thụ
Bán buôn hàng hoá qua kho theo hai hình thức bán trực tiếp và chuyển hàng là
phương thức bán hàng truyền thống thường áp dụng đối với ngành hàng có đặc điểm :
tiêu thụ có định kỳ giao nhận, thời điểm giao nhận hàng không trùng hợp với thời điểm
nhập hàng, hầng cần qua dự trữ để xử lý tăng giá trị thương mại . Khi thực hiện các
phương pháp này doanh nghiệp cần có kế hoạch dự trữ tốt và tiến độ giao nhận bán
hàng đúng hạn, để tránh ứ đọng là gây tốn kém chi phí dự trữ, giảm sút chất lượng và
khó khăn cho công tác bảo quản hàng.
b. Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao trực tiếp ( hình thức giao tay ba)
Theo hình thức này, doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua vầ
giao trực tiếp cho đại diện bên mua tại kho người bấn. Chứng từ bấn hàng là ''Hoá đơn
bán hàng trực tiếp'' do doanh nghiệp lập thành ba liên. Một liên của chứng từ giao cho
người bên mua, hai liên gửi về phòng kế toán để làm thủ tục thanh toán tiền bán hàng.
Sau khi đại diện bên mua ký nhận đủ hàng, bên mua đã thanh toán tiiền hàng hoặc
chấp nhận nợ, hàng hoá được xác nhận là tiêu thụ.
2.2 Các phương thức bán lẻ.
Hiện nay, các doanh nghiệp thương mại thường áp dụng hai hình thức bán lẻ
chủ yếu là: bán hàng thụ tiền trực tiếp và bán hàng thu tiền tập trung .
a. Bán hàng thu tiền trực tiếp:
Theo hình thức bán hàng này, nhân viên bán hàng hoàn toàn toàn chịu trách nhiệm
vật chất về số hàng đã nhận để bán ở quầy hàng bán lẻ. Nhân viên bán hầng trực tiếp
thu tiền của khách hàng và giao hàng cho khách . Nghiệp vụ bán hàng hoanf thành trực

diện với người mua và thường không cần lập chứng từ cho nghiệp vụ bán hàng. Tuỳ
thuộc vào các yêu cầu quản lý hàng hoá bán lẻ ở các quầy hàng , cuối ca, cuối ngày
nhân viên bán hầng kiểm kê lượng hầng bán hiện còn ở quầy hành vầ dựa vào quan hệ
cân đối hàng luân chuyển (hàng hiện có) trong ca, trong ngày để xác định số lượng
hàng bán ra của từng mặt hàng, lập báo cáo bán hàng làm chứng từ kế toán. Tiền bán
hàng ngày nhân viên bán hàng kê vào giấy nộp tiền để nộp cho thủ quỹ của doanh
nghiệp.
Hình thức bán hàng thu tiền trực tiếp phù hợp với qui mô bán lẻ nhỏ. Chứng từ làm
căn cứ ghi sổ kế toán về nghiệp vụ bán hầng trong hình thức này là ''Báo cáo bán hàng''
và '' Giấy nộp tiền bán hàng'' do ngưòi bán hàng lập.
b. Bán hàng thu tiền tập trung.
Theo hình thức này, nghiệp vụ thu tiền của khách và giao hàng cho khách tách rời
nhau Mỗi quầy hàng hoặc liên quầy hàng bố trí nhân viên thu ngân làm nhiệm vụ thu
tiền hoặc mua hàng của khách, viết hoá đơn cho khách hàng để khách hàng nhận hầng
ở quầy hàng do nhân viên bán hàng giao . Cuối ca, cuối ngày, nhân viên thu ngân làm
giấy nộp tiền bán hàng; nhân viên bán hàng căn cư vào hoá đơn giao hàng cho khách
hoặc kiểm kê hàng hoá còn tồn quầy để xác định lượng hàng hoá bán trong ngày, trong
ca và lập báo cáo bán hàng.
Hình thức bán hàng thu tiền tập trung tổ chức phù hợp ở quy mô bán lẻ lớn như
quầy bách hoá lớn. Chứng từ làm căn cứ ghi sổ kế toán trong hình thức bán hàng này là
''giấy nộp tiền'' và '' Báo cáo bán hàng''.
Trong phương thức bán lẻ còn có nhiều hình thức bán hàng khác nhau như bấn hàng
trả góp, bán hàng nhận ký gửi,…
- Bán hàng trả góp: Theo hình thức này người mua hàng khi mua chỉ trả trước một
phần trị giá bán lẻ của hàng mua, phần còn lại trả góp dần trong nhiều lần. Doanh
nghiệp thương mại ngoài số tiền thu theo giá bán hàng hoá còn thu thêm ở người mua
một khoản tiền lãi vì trả chậm.
- Bán hàng nhận ký gửi: Theo hình thức bấn hầng này, hàng nhận ký gửi không
thuộc quuyền sở hữu của doanh nghiệp. Vì vậy, khi nhận hàng ký gửi doanh nghiệp
phải phản ánh vào tài khoản 003 '' Hàng hoá nhận bán hộ, nhận ký gửi ''. Khi bán được

hàng doanh nghiệp được hưởng tỷ lệ hoa hồng do chủ hàng trả.
Ngoài ra, còn một số trường hợp xuất hầng hoá khác được coi là bán, bao gồm:
+ Hàng hoá hao hụt, tổn thất trong khâu bán theo hợp đồng bên mua chịu.
+ Hàng hoá dùng làm quà biếu, tặng, thưởng.
+ Hàng hoá sử dụng phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm lại, nền kinh tế càng phát triển thì càng có nhiều phương thức bán hàng khác
nhau, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường thì các phương thức bán hàng rất đa dạng.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm của hàng hốa mà các doanh nghiệp thương mại kết hợp sử
dụng các phương thức bán hàng hợp lý. Tuy nhiên, một doanh nghiệp thương mại dù
bán hàng theo phương thức nào thì thời điểm kết thúc nghiệp vụ bán hàng vầ ghi sổ
các chỉ tiêu liên quan của khối lượng hàng hoấ luôn chỉ là: thời điểm kết thúc việc giao
nhận quyền sở hữu về hàng đó, doanh nghiệp được quyền sở hữu khoản tiền thu bán
hàng hoặc khoản nợ phải thu với khách hàng mua của mình.
3. Ý nghĩa của bán hàng đối với hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp thương
mại.
Bán hàng là giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu chuyển hàng hoá trong doanh
nghiệp thương mại. Bán hàng có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với mỗi
doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đối với bản thân các doanh nghiệp thương mại, có bán được hàng hoá thì mới
có thu nhập để bù đắp những chi phí đã bỏ ra và hình thành kết qủa kinh doanh thương
mại. Trong cơ chế thi trường hiện nay, các doanh nghiệp thương mại có thể thu mua
hàng hoá một cách đễ dàng nhưng việc bán nó lại không dễ dàng chút nào. Nếu hoạt
động bán hàng của doanh nghiệp không thông suốt sẽ làm ngừng trệ các hoạt động khác
như mua vào, dự trữ. Còn nếu hoạt động bán hàng của doanh nghiệp trôi chảy sẽ thúc
đẩy các hoạt động khác. Vì vậy có thể ví hoạt động bán hàng là tấm gương phản ánh
tình hình hoạt động chung của doanh nghiệp. Nếu mở rộng thị trường tiêu thụ của
doanh nghiệp, mở rộng kinh doanh, củng cố và khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên
thị trường, giúp doanh nghiệp đứng vững trong kinh doanh.
Đối với tiêu dùng, bán hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Chỉ qua
quá trình bán hàng, công dụng của hầng hoá mới được xác định hoàn toàn. Sự phù hợp

với thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng đuợc khẳng định. Bên cạnh đó, bán hàng còn
góp phần hướng dẫn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Việc thúc đẩy bán hàng ở
doanh nghiệp là cơ sở để thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ các đơn vị kinh doanh khác có
quan hệ kinh tế với doanh nghiệp.
Bán hàng, xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân, là điều kiện để tiến
hành tái sản xuất xã hội. Quá trình tái sản xuất gồm ba khâu: Sản xuất - Lưu thông -
Tiêu dùng. Giữa các khâu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thiếu đi một trong bán
khâu quá trình tái sản xuất sẽ không thực hiện được. Trong mối quan hệ đó, sản xuất
giữ vai trò quyết định. Tiêu dùng là mục đính, là động cơ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Lưu thông đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa quan hệ sản xuất và tiêu dùng, từ đó kích
thích tiêu dùng và đẩy mạnh sản xuất. Lưu thông đảm nhận nhiệm vụ đưa hàng từ khâu
sản xuất đi vào lĩnh vực tieeu dùng và ngược lại thông qua tiêu dùng nó phản ánh lại
nhu cầu tới sản xuất. Về vấn đề này C.Mác đã khẳng định: ''Phân phối lưu thông vừa là
tiền đề, vừa là điều kiện, vừa là kết quả của sản xuất''.Bán hàng nằm trong khâu lưu
thông, là một trong những hoạt động chính của quá trình lưu thông hàng hoá. Như vậy
rõ ràng bán hàng thực hiện đươc mục đích của sản xuất là tiêu dùng và là điều kiện để
quá trình tái sản xuất xã hội được thực hiện.
Ngoài ra bán hàng còn góp phần điều hoà giữa sản xuất và tiieu dùng giữa tiền
và hàng, giữa khả năng và nhu cầu… là điều kiện để đảm bảo sự phát triển cân đối
trong từng ngành, từng vùng cũng như trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đặc biệt trong điều kiện các mối quan hệ kinh tế đối ngoại được phát triẻn mạnh
mẽ như hiện nay, việc bán hàng xuất khẩu ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu góp phần nâng cao uy tíncủa nước ta trên thị trường quốc tế, tạo điều kiện cân
bằng cán cân thanh toán quốc tế, tận dụng được thế mạnh của quốc gia, thúc đẩy sản
xuất trong nước phát triển.
4. Nhiệm vụ kế toán nghiệp vụ bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại.
Kế toán bán hàng là việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động bán
hàng của doanh nghiệp nhằm kiểm tra giám sát toàn boọ hoạt động đó.
Kế toán trong doanh nghiệp thương mại nói chung, kế toán bán hàng nói riêng có vai
trò rất quan trọng trong quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Vai trò đó được xác định

xuất phát từ thực tế khách quan của yêu cầu quản lý bán hàng.
Yêu cầu đối với quản lý là phải giám sát chặt chẽ hàng hoá tiêu thụ trên tất cả các
phương diện: số lượng, chất lượng… tránh hiện tượng mất mát, hư hỏng hoặc tham ô,
lãng phí. Giám sát chặt chẽ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp phát sinh,
kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các khoản chi phí đồng thời phân bố chính xác cho
hàng bán ra để xác định kết quả bán hàng. Phải quản lý tình hình thanh toán của khách
hàng, yêu cầu thanh toán đúng hình thức và đúng thời gian để tránh mất mát, ứ đọng
vốn. Phải lựa chọn phương thức bán hàng cho phù hợp với từng thị trường, từng khách
hàng, đồng thời phải làm tốt công tác thăm dò, nghiên cứu thị trường.
Để đáp ứng được những yêu cầu quản lý đó nhằm nâng cao hiệu quả trong kinh doanh
ở các doanh nghiẹep thương mại, kế toán bán hàng cần phải thực hiện tốt những nhiệm
vụ sau đây:
_ Thứ nhất, ghi chép và phản ánh đầy đủ kịp thời tình hình bán hàng nói chung và của
tưng mặt hàng nói riêng. Cụ thể, kế toán phải phản ánh kịp thời, đầy đủ số hàng đã giao
cho cửa hàng.Đồng thời phải tổ chức tốt kế toán chi tiết hàng hoá trong khâu bán hàng
để đảm bảo hàng hoá trong doanh nghiệp ở đâu cũng có người chịu trách nhiệm, cũng
được phản ánh trên sổ sách kế toán về số lượng, chất lượng và giá trị hàng hoá bán ra.
_ Thứ hai, tính giá muâ thực tế của hàng hoá đã tiêu thụ. Cuối kỳ kế toán xác định
đúng đắn trị giá vốn cuẩ hàng bán, tổng thu nhập, tổng chi phí để từ đó xác định chính
xác kết quả bán hàng của đơn vị,làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả kinh doanh cũng
như các nghĩa vụ đối với nhà nước.
_ Thứ ba, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch bán hàng. Trước hết là kiểm tra việc
thực hiện các chỉ tiêu về kế hoạch bán hàng, việc thực hiện tiến độ bán hàng. Kế toán
cần kiểm tra việc chấp hành chế độ bán hàng, kỷ luật thanh toán, tính hợp lý hợp pháp
của các khoản chi phí,quản lý chặt chẽ tiền hàng tránh hiện tượng vốn bị chiếm dụng
bất hợp lý. Cần thường xuyên thực hiện kiểm kê hàng hoá nhằm đối chiếu giữa số
lượng hàng hoá thực tế với hàng hoá trên sổ sách, ngăn ngừa những hiện tượng tham ô,
lẫng phí, thiếu trách nhiệm trong bảo quản hàng hoá.
_ Thứ tư, cung cấp thông tin về mọi mặt hoạt động bán hàng. Các thông tin về tình
hình bán hàng được cung cấp kịp thời, chính xác phục vụ cho việc chỉ đạo điều hành

hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát của nhầ
nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Với những nhiệm vụ quan trọng trên, kế toán bán hàng giúp doanh nghiệp thương mại
phân tích, đánh giá hoạt động kinh doanh một cách chính xác, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn lưu động, tăng doanh thu và tối đa hoá lợi nhuận.
II. phương pháp kế toán nghiệp vụ bán hàng trong các doânh nghiệp thương mại.
1. Chứng từ ghi chép ban đầu.
Tuỳ theo từng phương thức, hình thức bán hàng kế toán bán hàng sử dụng các chứng từ
kế toán sau:
_ Hoá đơn GTGT ( Mẫu số 01 GTKT - 3LL ).
_ Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho ( Mẫu số 02 - BH ).
_ Phiếu xuất kho ( Mẫu số 02 - VT ).
_ Thẻ kho (Mẫu số 06 - VT).
_ Phiếu thu (Mẫu số 01 - T1).
_ Báo cáo bán hàng.
_ Giấy nộp tiền của nhân viên bán hàng.
_ Bảng kê nhận hàng và thanh toán tiền hàng.
_ Bảng kê bán lẻ hàng hoá dịch vụ.
Và các chứng từ kế toán có liên quan.,
2. Tài khoản sử dụng.
• Tài khoản 511 - Doanh thu bán hàng.
• Tài khoản 531 - Hàng bán bị trả lại.
• Tài khoẩn 532 - Giảm giá hàng bán.
• Tài khoản 632 - Giấ vốn hàng bán.
• Tài khoẩn 131 - Phải thu khách hàng.
• Tài khoản 157 - Hàng gửi đi bán.
3. Phương pháp hạch toán nghiệp vụ bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại
3.1 Hạch toán nghiệp vụ bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp.
Như trên đã trình bày, đặc trưng của phương thức bán hàng này là hàng hoá không qua
kho của kdoanh nghiệp nên không sử dụng TK156.

_ Phản ánh trị giá muâ thực tế của hàng bán thẳng:
+ Đối với hầng hoá thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế,
ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hầng bán.
có TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ.
có TK 331,111,112.
+ Đối với hàng hoá không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp, ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán.
Có TK 111,112,331.
_ Các bút toán còn lại (doanh thu, chiết khấu, giảm giá…) hạch toán giống bán hàng
qua kho.
3.2 Hạch toán nghiệp vụ bấn buôn vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng.
_ Phản ánh trị giá mua thực tế của hàng chuyển bán thẳng:
+ Đối với hầng hoá dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu
trừ thuế, ghi:
Nợ TK 157 - Hàng gửi đi bán
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK 311,11,112.
+ Đối với hàng hoá không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp, ghi:
Nợ TK 157 - Hàng gửi đi bán.
Có TK 111,112,331.
_ Khi hàng được xác định là tiêu thụ, kế toán ghi doanh thu và giá vốn giống trường
hợp bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng.
_ Các bút toán còn lại ( chiết khấu, giảm giá…) hạch toán giống bán hàng quâ kho.
3.3 Hạch toán nghiệp vụ bán lẻ hàng hoá.
_ Kế toán căn cứ vào báo cáo bán hàng và giấy nộp tiền bán hàng, phẩn ánh doanh thu
bán hàng :
+ Đối với hàng hoá thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế,

ghi:
Nợ TK 111,112,131.
Có TK 511 - Doanh thu bán hàng ( giá chưa có thuế GTGT).
Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp.
+ Đối với hàng hoấ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo
phương pháp trực tiếp, ghi:
Nợ TK 111,112,131.
Có TK 511 - Doanh thu bán hàng ( tổng gía thanh toán).
_ Cuối kỳ kế toán, xác định giá vốn của hàng đã bán trong kỳ,ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán.
Có TK 156 - Hàng hoá.
_ Các bút toán còn lại ( chiết khấu, giảm giá…) hạch toán giống bán hàng qua kho.
3.2 Kế toán nghiệp vụ bán hàng đối với doanh nghiệp kế toán hàng tồn kho theo
phương pháp kiểm kê định kỳ.
3.2.1 Kế toán doanh thu và xác định doanh thu thuần
Kế toán doanh thu và xác định doanh thu thuần ở doanh nghiệp kế toán hàng tồn
kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ tương tự như doanh nghiệp kế toán hàng tồn
kho theo phương pháp kê khai thường xuyên.
3.2.1 Kết chuyển giá mua thực tế của hàng hoá đã tiêu thụ.
Theo phương pháp kiểm kê định kỳ, kế toán bán hàng được phản ánh trên TK
611- Mua hàng. Cuối kỳ kế toán tính và kết chuyển trị giá mua thực tế hàng hoá thực tế
hàng hoá đã xác định là tiêu thụ trong kỳ, kế toán ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán
Có TK 611 - Mua hàng
4. Phương pháp trị giá vốn hàng hoá xuất bán
Có thể nói một cách đơn giản, trị giá vốn của hàng xuất bán là tổng số tiên doanh
nghiệp phảI bỏ ra để có được số hàng hoá xuất bán. Nó bao gồm trị giá mua thực tế
phảI trả cho người bán, chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá .. trong quá trình mua
hàng và thuế nhập khẩu (nếu có). Hiện nay, kể từ khi nhà nước áp dụng thuế GTGT
thay cho thuế doanh thu trước đây thì trị giá vốn của hàng xuất bán còn bao gồm cả

phần thuế GTGT đầu vào không được khấu trừ(nếu có). Trường hợp số thuế GTGT
không được khấu trừ quá lớn thì tính vào trị giá vốn trong kỳ tương ứng với phần doanh
thu, số còn lạI được tính vào trị giá vốn kỳ sau.
Như vậy, trị giá vốn của hàng xuất bán chính là trị giá mua thực tế của hàng bán
ra gồm trị giá mua và chi phí mua.
Trị giá vốn hàng xuất bán bao gồm trị giá vốn của hàng xuất kho đã bán và trị
giá vốn hàng bán thẳng. Trong đó trị giá vốn của hàng xuất kho đã bán chính là trị giá
vốn của hàng bán ra tạI thời đIểm nhập kho. Chỉ trong trường hợp trong kỳ kinh doanh
doanh nghiệp không có nghiệp vụ bán vận chuỷen thẳng thì lúc đó trị giá vốn hàng xuất
bán mới bằng trị giá vốn của hàng xuất kho đã bán.
Việc tính toán trị giá vốn hàng xuất bán có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi có
tính toán đừng trị vốn hàng xuất bán mới xác định chính xác kết quả bán hàng. Hơn nữa
trị giá vốn của hàng xuất bán thường chiếm tỷ trọng chủ yếu trong trị giá vốn của hàng
bán ra trong kỳ. Do đó nếu không phản ánh đúng trị giá vốn của hàng xuất bán sẽ dẫn
tới kết quả bán hàng sẽ sai lệch nhiều.
Đối với hàng xuất bán thẳng: Do đặc đIểm của phương thức bán vận chuyển
thẳng là các lô hàng bán ra độc lập với nhau, có nghĩa là một lô hàng doanh nghiệp mua
rồi bán thẳng hoàn toàn không liên quan đến lô bán thẳng khác. Vì vậy việc tính toán trị
giá vốn của hàng bán thẳng tương đối đơn giản và đạt được độ chính xác cao.
Đối với hàng xuất kho bán ra: Hàng hoá nhập kho ở mỗi lân khác nhau thì đơn
giá nhập kho của từng mặt hàng cũng thường khác nhau, đặc biệt trong cơ chế thị
trường giá cả hàng hoá thường xuyên biến động. Vì vậy việc xác định trị giá vốn của
hàng xuất kho đã bán phức tạp hơnvà doanh nghiệp vân phảI lựa chọn phương pháp
tính toán phù hợp mới có thể xác định đúng đắn trị giá vốn của hàng xuất kho đã bán.
Việc tính toán trị giá vốn của hàng xuất kho bán ra trong kì trước hết phụ thuộc vào
doanh nghiệp ghi kế toán chi tiết hàng tồn kho theo giá mua thực tế hay theo giá hạch
toán
4.1 Phương pháp tính trị giá vốn của hàng bán ra trong trường hợp doanh nghiệp kế
toán chi tiết hàng tồn kho theo giá mua thực tế.

×