LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ VÀ KIỂM TOÁN CHU
TRÌNH BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG KIỂMTOÁN BÁO CÁO
TÀI CHÍNH
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ
1.Bản chất của kiểm toán nội bộ.
Hoạt động kiểm toán trên thế giới đã có trên 100 năm nay và ngày càng
phát triển mạnh mẽ, thâm nhập vào mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế. Kiểm toán
là một hoạt động mới xuất hiện ở nước ta khoảng 10 năm nhưng đã có bước
phát triển lớn mà ngày càng khẳng định rõ vai trò của mình trong việc xác minh
và bày tỏ ý kiến, tạo niềm tin cho những người quan tâm, củng cố nề nếp hoạt
động tài chính và góp phần nâng cao hiệu qủa, năng lực quản lý.
Kiểm toán là quá trình mà theo đó các cá nhân độc lập, có thẩm quyền thu
thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng có liên quan đến một
tổ chức kinh tế cụ thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa
các thông tin số lượng đó với các chuẩn mực đã được xây dựng. Ngày nay trên
thế giới xuất hiện nhiều loại hình kiểm toán khác nhau, nếu phân loại theo chủ
thể kiểm toán có kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ.
Cùng với sự ra đời và phát triển của các tổ chức kiểm toán độc lập, tổ
chức kiểm toán Nhà nước, hoạt động kiểm toán nội bộ cũng phát triển rộng
khắp và đem lại những trợ giúp tích cực, góp phần đáp ứng nhu cầu bảo vệ, tồn
tại của doanh nghiệp nói riêng, của chính phủ cũng như xã hội nói chung đồng
thời củng cố nền nếp hoạt động tài chính kế toán, nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Cho đến nay kiểm toán nội bộ có nhiều cách hiểu khác nhau:
Theo liên đoàn kế toán quốc tế ( IFAC): “ Kiểm toán nội bộ là một hoạt
động đánh giá được lập ra cho một doanh nghiệp như là một loại dịch vụ cho
doanh nghiệp đó có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu
quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ”.
Theo Các Chuẩn mực hành nghề Kiểm Toán Nội Bộ ban hành tháng 5
năm 1978: “Kiểm toấn nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập được thiết
lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức
đó với tư cách là một sự trợ giúp cho tổ chức đó".
Như vậy ta có thể hiểu kiểm toán nội bộ như sau:
Kiểm toán nội bộ là hoạt động kiểm tra giám sát của một bộ phận độc
lập với bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp nhằm đánh giá tính hiệu
quả, hiệu năng, tính kinh tế của các loại hình nghiệp vụ, đơn vị, bộ phận và
tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu qủa hoạt động của toàn bộ doanh
nghiệp.
Kiểm toán nội bộ là một hoạt động chuyên sâu cần được đào tạo hướng
dẫn được thực hiện bởi những người có trình độ và nghiệp vụ tương xứng.
Là một trong những nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội bộ
của doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh
giá thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính
hiệu quả của việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục về kiểm soát
nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp cho doanh nghiệp có được
những thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động trong doanh nghiệp,
chất lượng của hoạt động kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ sung các
quy chế kiểm soát thích hợp và hiệu quả.
Tại Việt Nam, Sau Quyết định 832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28 tháng 10 năm
1997 hàng loạt các Tổng công ty thành lập kiểm toán nội bộ, đồng thời quy chế
kiểm toán nội bộ cũng được ban hành kèm theo nhằm hướng dẫn các Tổng công
ty Nhà nước tổ chức thực hiện công tác kiểm toán nội bộ của Tổng công ty và
từng công ty thành viên. Trong quy chế đó có quy định rõ: Doanh nghiệp phải
thường xuyên tổ chức kiểm toán nội bộ nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin
cậy của thông tin kế toán, tài chính; về bảo vệ an toàn tài sản của doanh nghiệp;
về chấp hành luật pháp, chính sách chế độ của Nhà nước cũng như các quyết
định, nghị quyết của Hội đồng quản trị của Ban giám đốc doanh nghiệp đối với
hoạt động của doanh nghiệp.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm toán nội bộ
Chức năng của kiểm toán nội bộ :
Kiểm toán nội bộ có 3 chức năng:
- Kiểm tra
- Xác nhận
- Đánh giá
Nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm toán nội bộ:
Theo Điều 6 Quy chế Kiểm toán nội bộ (áp dụng đối với doanh nghiệp
Nhà nước) Kiểm toán nội bộ có các nhiệm vụ sau:
- Kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của
Báo cáo tài chính, Báo cáo kế toán quản trị trước khi trình ký duyệt.
- Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh, đặc biệt sự
tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, chính sách, nghị quyết,
quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban Giám đốc doanh nghiệp.
- Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài
sản của doanh nghiệp; đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống
quản lý, điều hành kinh doanh của doanh nghiệp.
Bộ phận kiểm toán nội bộ chỉ phát huy tác dụng nếu thoả mãn 2 điều kiện:
Về tổ chức: Kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp cao đủ để không
giới hạn phạm vi hoạt động của nó, đồng thời phải được giao một quyền hạn
tương đối rộng rãi và hoạt động tương đối độc lập với phòng kế toán và các bộ
phận hoạt động được kiểm tra.
Về nhân sự: Kiểm toán nội bộ phải tuyển chọn những nhân viên có năng
lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với các quy định hiện hành.
3.Loại hình hoạt động của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ có ba loại hình hoạt động:
Kiểm toán hoạt động:
Là việc kiểm tra, xác nhận và đưa ra đánh giá về hoạt động, tính hiệu quả
của các hoạt động từ đó đưa ra kiến nghị nhằm cải tiến, và hoàn thiện hoạt động
của mỗi đơn vị.
Kiểm tra việc huy động phân phối sử dụng các nguồn lực (nhân lực, vật
tư, tài sản, nguồn vốn, lợi thế kinh doanh).
Kiểm tra tính hiệu quả của các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sử dụng
thu thập kết quả bảo toàn phát triển vốn.
Kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng
trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Kiểm toán tuân thủ:
Là việc kiểm tra xác nhận và đưa ra những đánh giá về việc:
Tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài chính, kế toán, chế độ quản lý
của Nhà nước.
Ban hành các chính sách, chế độ, nghị quyết, quyết định, quy chế của Hội
đồng quản trị, Tổng giám đốc cũng như lãnh đạo các đơn vị thành viên có phù hợp
với luật pháp, chính sách chế độ đó của các đơn vị thành viên và của Tổng công ty.
Tuân thủ các quy định về nguyên tắc, chính sách, các chuẩn mực kế toán từ
khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp thông
tin và trình bày Báo cáo tài chính, Báo cáo quản trị đến việc lưu trữ tài liệu kế
toán.
Kiểm toán Báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị của doanh
nghiệp và của các đơn vị thành viên.
Đây là việc kiểm tra, xác nhận và đánh giá kịp thời đầy đủ, khách quan, độ
tin cậy của Báo cáo tài chính của các đơn vị thành viên, các đại diện, chi nhánh
của Tổng công ty, cơ quan Tổng công ty, Báo cáo tài chính hợp nhất của toàn
Tổng công ty trước khi Tổng giám đốc ký duyệt; đưa ra những kiến nghị và tư vấn
cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo sự hợp lý và hiệu quả.
Việc kiểm toán Báo cáo tài chính có thể được tiến hành theo quý, năm tùy
thuộc vào thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên và
toàn Tổng công ty, yêu cầu của Tổng giám đốc hay Hội đồng quản trị.
II. QUY TRÌNH KIỂM TOÁN BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG KIỂM TOÁN BÁO
CÁO TÀI CHÍNH
1. Nội dung kiểm toán bán hàng- thu tiền
1.1. Chức năng của chu trình bán hàng- thu tiền :
Bán hàng- thu tiền là quá trình chuyển giao quyền sở hữu của hàng hoá
qua quá trình trao đổi hàng- tiền. Nó bắt đầu từ yêu cầu mua hàng của khách
hàng và kết thúc bằng việc chuyển đổi hàng hoá thành tiền. Các chức năng cơ
bản của chu trình bán hàng- thu tiền gồm:
Xử lý đặt hàng của người mua:
Đặt hàng của người mua có thể là đơn đặt hàng, là phiếu yêu cầu mua
hàng, là yêu cầu qua thư, fax, điện thoại và sau đó là hợp đồng về mua- bán
hàng hoá, dịch vụ… Về pháp lý, đó là việc bày tỏ sự sẵn sàng mua hàng hoá
theo những điều kiện xác định. Do đó, có thể xem đây là điểm bắt đầu của toàn
bộ chu trình. Trên cơ sở pháp lý này, người bán có thể xem xét để đưa ra quyết
định bán qua phiếu tiêu thụ và lập hoá đơn bán hàng.
Xét duyệt bán chịu:
Do bán hàng gắn liền với thu tiền trong cùng một khái niệm tiêu thụ nên
ngay từ thoả thuận ban đầu, sau khi quyết định bán cần xem xét và quyết định
bán chịu một phần hoặc toàn bộ lô hàng. Quyết định này có thể đồng thời thể
hiện trên hợp đồng kinh tế như một điều kiện đã được thỏa thuận trong quan hệ
buôn bán trong hợp đồng. Tuy nhiên, ở nhiều công ty trước khi vận chuyển
hàng hoá do một người am hiểu về tài chính và về khách hàng xét duyệt. Việc
xét duyệt có thể được tính toán cụ thể trên lợi ích của cả hai bên theo hướng
khuyến khích người mua trả tiền nhanh qua tỷ lệ giảm giá khác nhau theo thời
hạn thanh toán. Trên thực tế, cũng có doanh nghiệp bỏ qua chức năng này và
dẫn tới nợ khó đòi và thậm chí thất thu do khách hàng mất khả năng thanh toán
hoặc cố tình không thanh toán do sơ hở trong thoả thuận ban đầu.
Chuyển giao hàng:
Là chức năng kế tiếp chức năng duyệt bán theo nghĩa hẹp của khái niệm
“tiêu thụ” thì vận chuyển hàng hoá đến người mua là điểm bắt đầu của chu trình
(đặc biệt với các công ty bán buôn) nên thường là điểm chấp nhận được ghi sổ
bán hàng. Vào lúc giao hàng chứng từ vận chuyển cũng được lập. Chứng
từ vận chuyển thường là hoá đơn vận chuyển hay vận đơn. Các công ty có
quy mô lớn, có diễn biến thường xuyên về nghiệp vụ bán hàng thường lập
sổ vận chuyển để cập nhật các chứng từ vận chuyển. Mặt khác, các cơ
quan thuế quan thường quy định: khi vận chuyển hàng hoá phải có hoá
đơn bán hàng. Trong trường hợp này hoá đơn bán hàng phải được lập
đồng thời với vận đơn hoặc kiêm chức năng chứng từ vận chuyển.
Gửi hóa đơn tính tiền cho người mua và ghi rõ nghiệp vụ bán hàng:
Hoá đơn bán hàng là chứng từ chỉ rõ mẫu mã số lượng hàng hoá,
giá cả hàng hoá gồm cả giá gốc hàng hoá, chi phí vận chuyển, bảo hiểm
và các yếu tố khác theo luật thuế giá trị gia tăng. Hoá đơn được lập thành
3 liên: liên đầu được gửi cho khách hàng, các liên sau được lưu lại ghi sổ
và theo dõi thu tiền. Như vậy hoá đơn vừa là phương thức chỉ rõ cho
khách hàng về số tiền và thời hạn thanh toán của từng thương vụ, vừa là
căn cứ ghi sổ Nhật ký bán hàng và theo dõi các khoản phải thu.
Nhật ký bán hàng là sổ ghi cập nhật các thương vụ, nhật ký ghi rõ
doanh thu của nhiều mặt hàng và phân loại theo các định khoản thích
hợp.
Xử lý và ghi sổ các khoản thu tiền:
Sau khi thực hiện các chức năng về bán hàng cùng ghi sổ kế toán
các nghiệp vụ này cần thực hiện tiếp các chức năng thu tiền cả trong điều
kiện bình thường và không bình thường. Trong mọi trường hợp đều cần
xử lý và ghi sổ các khoản thông thường về thu tiền bán hàng. Trong việc
xử lý này, cần đặc biệt chú ý khả năng bỏ sót hoặc dấu diếm các khoản
thu nhất là thu tiền mặt trực tiếp.
Xử lý và ghi sổ hàng bán bị trả lại và khoản bớt giá:
Các khoản giảm trừ doanh thu xảy ra khi người mua không thoả mãn về
hàng hoá. Khi đó, người bán có thể nhận lại hàng hoặc bớt giá. Trường hợp này
phải lập bảng ghi nhớ hoặc có thư báo Có hoặc hoá đơn chứng minh cho việc
ghi giảm các khoản phải thu. Trên cơ sở đó ghi đầy đủ và kịp thời vào nhật ký
hàng bị trả lại và các khoản bớt giá đồng thời ghi vào sổ phụ.
Thẩm định và xoá sổ khoản phải thu không thu được:
Có thể có những trường hợp người mua không chịu thanh toán hoặc
không còn khả năng thanh toán. Sau khi thẩm định, nếu thấy khoản thất thu này
là “bất khả kháng”, cần xem xét xoá sổ khoản phải thu đó.
Dự phòng nợ khó đòi:
Được lập với yêu cầu đủ trang trải các khoản đã tiêu thụ kỳ này song
không có khả năng thu được trong tương lai. Tuy nhiên, ở nhiều công ty, dự
phòng này là số dư do điều chỉnh cuối năm của quản lý về bớt giá đối với các
khoản không thu được tiền.
1.2. Kiểm soát nội bộ đối với chu trình bán hàng- thu tiền
Môi trường kiểm soát:
Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong và bên ngoài
đơn vị có tính môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu
của các loại hình kiểm soát nội bộ. Các nhân tố bên trong đơn vị bao gồm: đặc
thù về quản lý, cơ cấu tổ chức, chính sách nhân sự, công tác kế hoạch, ủy ban
kiểm soát. Các nhân tố bên ngoài đơn vị bao gồm: sự kiểm soát của các cơ quan
chức năng Nhà nước, ảnh hưởng của các chủ nợ, môi trường pháp lý, đường lối
phát triển của đất nước…
Hệ thống kế toán:
Hệ thống kế toán giữ một vai trò quan trọng nhằm cung cấp thông tin
quản lý (bao gồm các thông tin về kế toán tài chính của đơn vị và các kết quả
hoạt động kinh doanh khác) và thực hiện nhiều mặt hoạt động của đơn vị) thực
hiện nhiệm vụ là nhận biết, thu nhập, phân loại, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ
kinh tế tài chính của đơn vị, thoả mãn chức năng thông tin và kiểm tra hoạt
động kế toán. Hệ thống này bao gồm :
Hệ thống chứng từ kế toán:
Trong chu trình bán hàng- thu tiền, hệ thống chứng từ kế toán thể hiện ở số
lượng các loại chứng từ được lập khi có các nghiệp vụ bán hàng- thu tiền phát
sinh tại doanh nghiệp như: Hoá đơn bán hàng, hợp đồng mua bán hàng hoá,
phiếu vận chuyển, đơn đặt hàng, phiếu thu… và quy trình luân chuyển các loại
chứng từ này trong các phòng ban, bộ phận của doanh nghiệp.
Bảng số 1: Quy trình luân chuyển chứng từ trong chu trình
bán hàng-thu tiền
Khách hàng Phòng kinh doanh Giám đốc Phòng kinh doanh
Nhu cầu Đơn đặt hàng của Phê chuẩn phương Lập hoá đơn
mua hàng khách- phiếu tiêu thụ thức bán chịu, tiêu thụ thuế GTGT
Thủ kho Phòng kinh doanh Phòng kế toán
Lưu trữ và bảo
Xuất kho Vận chuyển Ghi các loại sổ, quản chứng từ
hàng, lập vận đơn định kỳ lập báo cáo
Hệ thống tài khoản kế toán:
Với cách tiếp cận báo cáo tài chính theo các chu trình nghiệp vụ cơ bản
thì các tài khoản liên quan đến chu trình sẽ giới hạn về phạm vi đối tượng kiểm
toán, theo đó không có khoản mục nào bị KTV bỏ qua. Các tài khoản này chính
là kết quả xử lý các thông tin số liệu liên quan đến chu trình bán hàng và thu
tiền được thể hiện trên sổ sách kế toán. Các khoản mục này bao gồm:
- Tài khoản Tiền mặt, Tài khoản Tiền gửi ngân hàng
- Tài khoản Phải thu khách hàng
- Tài khoản Dự phòng nợ phải thu khó đòi
- Tài khoản Doanh thu bán hàng
- Các khoản chiết khấu, giảm giá, hàng bán bị trả lại, thuế VAT
Ngoài ra còn một số thông tin liên quan khác được trình bày ngoài báo cáo
tài chính mà được thể hiện trên hệ thống sổ sách kế toán như các khoản chi phí
dự phòng liên quan đến khoản nợ không thu hồi được, chi phí bán hàng, giá vốn
hàng bán, xử lý các khoản nợ không có khả năng thu hồi.
Hệ thống sổ kế toán:
Hệ thống này dùng để ghi các nghiệp vụ bán hàng-thu tiền và các nghiệp
vụ khác có liên quan, phát sinh trong một niên độ kế toán mà cơ sở để ghi sổ là
các chứng từ đã được lập trước đó bao gồm: Nhật ký bán hàng, các sổ hạch
toán chi tiết nợ phải thu khách hàng, nhật ký thu tiền, sổ chi phí bán hàng, sổ
hạch toán chi tiết hàng tồn kho..
Hệ thống báo cáo kế toán:.
Hệ thống này được lập với mục đích thông tin cho các nhà quản lý cấp
trên nắm bắt được toàn bộ kết quả của chu trình qua một niên độ kế toán nhất
định hay qua một thời kỳ nhất định. Cụ thể đó là các báo cáo tài chính nộp cho
cơ quan thuế, cho Bộ chủ quản, cho Tổng công ty…hay các báo cáo bán hàng,
tình hình thanh toán nợ của khách hàng.. cung cấp cho Ban quản trị hay Ban
giám đốc biết hoặc những người quan tâm.
Thủ tục kiểm soát:
Thủ tục kiểm soát là những chính sách và thủ tục do Ban giám đốc đơn vị
thiết lập và thực hiện nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể. Khi thiết lập thủ
tục kiểm soát phải đảm bảo 3 nguyên tắc cơ bản sau: nguyên tắc bất kiêm
nhiệm, nguyên tắc phân công, phân nhiệm rõ ràng, nguyên tắc ủy quyền và phê
chuẩn. Ngoài ra, các thủ tục kiểm soát còn bao gồm: việc quy định chứng từ, sổ
sách phải đầy đủ, quá trình kiểm soát vật chất đối với tài sản, sổ sách và kiểm
soát độc lập việc thực hiện các hoạt động của đơn vị.
Đặc biệt đối với chu trình bán hàng và thu tiền, việc hiểu được những đặc
điểm cũng như những biểu hiện của hệ thống kiểm soát nội bộ đã góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm toán chu trình này. Đó cũng là lý do để
chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của những thông tin trên trong khi đi
vào thực hành kiểm toán chu trình.
1.3. Mục tiêu kiểm toán bán hàng- thu tiền.
Chức năng của kiểm toán đã được cụ thể hoá thành các mục tiêu kiểm
toán. Do chu trình bán hàng và thu tiền được cấu thành bởi các nghiệp vụ cụ thể
và từ đó hình thành các khoản mục trên các Báo cáo tài chính nên các mục tiêu
đặc thù của kiểm toán bán hàng và thu tiền cần cụ thể hoá cả mục tiêu kiểm toán
tài chính và mục tiêu kiểm toán nghiệp vụ phù hợp với các đặc điểm của phần
hành kiểm toán này. Mặt khác, mặc dù các nghiệp vụ bán hàng và thu tiền có
quan hệ chặt chẽ và tạo nên chu trình xác định, song mỗi loại nghiệp vụ này lại
có yêu cầu riêng và phản ánh cụ thể vào sổ sách kế toán riêng theo trình tự độc
lập tương đối. Do đó, mục tiêu đặc thù cho các khoản mục, nghiệp vụ bán hàng
và nghiệp vụ thu tiền cần có định hướng cụ thể qua các mục tiêu kiểm toán đặc
thù riêng biệt. Có thể khái quát các mục tiêu kiểm toán đặc thù phổ biến của 2
loại nghiệp vụ và khoản mục này theo bảng sau:
Bảng số 2: Mục tiêu kiểm toán đặc thù của kiểm toán nghiệp vụ
bán hàng và nghiệp vụ thu tiền
Mục tiêu kiểm toán
nghiệp vụ
thu tiền
Mục tiêu kiểm
Toán chung
Mục tiêu kiểm toán nghiệp
vụ bán hàng
Các khoản thu tiền đều
đảm bảo hợp lý chung
Mục tiêu hợp
lý chung
Các nghiệp vụ bán hàng đều
có căn cứ hợp lý
Các mục tiêu
chung khác
Các khoản phải thu khách
hàng là có thực
Hiệu lực
Hàng bán vận chuyển đến
khách hàng là có thật
Mọi khoản phải thu ở khách
hàng đều được ghi sổ
Trọn vẹn
Mọi nghiệp vụ bán hàng đều
được ghi sổ
Các khoản phải thu được
đánh giá đúng
Định giá
Hàng đã vận chuyển và có hoá
đơn ghi giá bán được thoả
thuận
Các khoản phải thu có
người sở hữu
Quyền và
nghĩa vụ
Hàng hoá đã bán thuộc sở hữu
của đơn vị
Các khoản phải thu được
phân loại đúng
Phân loại
Các nghiệp vụ bán hàng được
phân loại thích hợp
Các khoản phải thu được
tính toán đúng
Chính xác
cơ học
Các nghiệp vụ ghi vào sổ tổng
hợp, chi tiết thích hợp và khớp
đúng các số cộng
Các mục tiêu
kiểm toán nghiệp vụ
Những thay đổi về thể thức, thời
gian, thủ tục thanh toán tiền hàng
đều được cho phép đúng đắn
Cho phép
Các nghiệp vụ bán hàng kể cả
bán chịu, vận chuyển được cho
phép đúng đắn
Các nghiệp vụ phải thu
được ghi sổ đúng kỳ
Kịp thời
Các khoản bán hàng được
ghi sổ đúng thời gian
2. Quy trình kiểm toán bán hàng- thu tiền.
2.1. Lập kế hoạch kiểm toán.
Ý nghĩa của lập kế hoạch kiểm toán :
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán có
vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn cuộc
kiểm toán. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300, Kế hoạch kiểm toán, "
KTV và Công ty kiểm toán cần lập kế hoạch kiểm toán để có thể đảm bảo được
rằng cuộc kiểm toán đã được tiến hành một cách có hiệu qủa".
Đối với chu trình bán hàng- thu tiền việc lập kế hoạch kiểm toán sẽ giúp
KTV thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để
đưa ra ý kiến xác đáng về các khoản mục doanh thu bán hàng và phải thu khách
hàng trên Báo cáo tài chính từ đó giúp các KTV hạn chế các sai sót, giảm thiểu
trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ vững được uy tín nghề
nghiệp đối với khách hàng.
Trình tự lập kế hoạch kiểm toán bao gồm các bước sau:
Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán: Công ty kiểm toán sẽ tiến hành các công
việc cần thiết để chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán bao gồm: đánh giá khả năng
chấp nhận kiểm toán, nhận diện các lý do kiểm toán, lựa chọn đội ngũ nhân viên
kiểm toán thực hiện kiểm toán chu trình bán hàng và thu tiền.
Thu thập thông tin cơ sở: KTV thu thập hiểu biết về ngành nghề, công việc
kinh doanh của khách hàng, tìm hiểu về hệ thống kế toán cũng như các chính
sách kế toán đối với việc tiêu thụ của khách hàng. Xem xét lại kết quả của các
cuộc kiểm toán trước đối với khoản mục doanh thu và phải thu khách hàng cũng
như hồ sơ kiểm toán chung. KTV tiến hành tham quan nhà xưởng kho bãi, nhận
diện các bên liên quan như danh sách khách hàng và những người nợ.
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng: Giúp cho KTV nắm
bắt được các quy trình mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến các mặt hoạt động
kinh doanh này, những thông tin này được thu thập trong quá trình tiếp xúc với
Ban giám đốc công ty khách hàng như: giấy phép thành lập và điều lệ hoạt động
của công ty, các Báo cáo tài chính, Báo cáo kiểm toán, thanh tra hay kiểm tra của
năm hiện hành và năm trước, các hợp đồng và cam kết quan trọng.
Thực hiện các thủ tục phân tích: Thủ tục phân tích là việc phân tích các số
liệu, thông tin, các tỷ suất quan trọng, qua đó tìm ra những xu hướng biến động
quan trọng và tìm ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên
quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến. KTV thường áp
dụng hai phương pháp phân tích là phân tích ngang và phân tích dọc. Trong giai
đoạn lập kế hoạch này KTV thường tiến hành so sánh doanh thu, các khoản phải
thu giữa kỳ này so với kỳ trước, tính toán tỷ lệ phải thu khó đòi…
Đánh giá trọng yếu và rủi ro :
Đánh giá trọng yếu:
Trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông
tin, một số liệu kế toán trong báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu phụ thuộc tầm
quan trọng của thông tin hay của sai sót đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Để xác
định mức trọng yếu KTV tiến hành các bước sau:.
- Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu: Mức ước lượng ban đầu về tính
trọng yếu là lượng tối đa mà KTV tin rằng, ở mức đó các báo cáo tài chính có thể
bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng
thông tin tài chính. Có thể ước tính theo quy mô hoặc ước tính theo bản chất.
- Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục: Doanh
thu bán hàng và phải thu khách hàng. Việc phân bổ được thực hiện theo cả hai
chiều hướng mà các sai phạm có thể diễn ra đó là tình trạng khai khống và khia
thiếu. Cơ sở để tiến hành phân bổ là bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát dựa vào kinh nghiệm của KTV và chi phí kiểm toán đối
với từng khoản mục này.
Đánh giá rủi ro trong chu trình bán hàng- thu tiền.
Rủi ro kiểm toán là rủi ro do Công ty kiểm toán hoặc KTV đưa ra ý kiến
không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót
trọng yếu
- Rủi ro tiềm tàng của chu trình bán hàng- thu tiền (IR):. Là sự tồn tại sai sót trọng
yếu trong bản thân chu trình bán hàng- thu tiền mà chưa tính đến sự tác động
của bất kỳ hoạt động kiểm toán nào để cả hoạt động kiểm toán nội bộ. Trong khi
tiến hành kiểm toán, KTV cần phải dự đoán nơi nào của chu trình bán hàng- thu
tiền có khả năng sai sót nhất. Qua đó KTV có thể thu thập và phân bổ bằng
chứng kiểm toán một cách hợp lý.
Trong khi đánh giá rủi ro tiềm tàng KTV cần xem xét một số yếu tố sau:
` Bản chất công việc bán hàng- thu tiền của khách hàng
` Động cơ của khách hàng trong chu trình bán hàng- thu tiền
` Các nghiệp vụ bán hàng- thu tiền có thường xuyên liên tục xảy ra
` Kết quả những lần kiểm toán trước của chu trình bán hàng-thu tiền.
` Số dư của các tài khoản doanh thu bán hàng và phải thu khách hàng.
- Rủi ro kiểm soát trong chu trình bán hàng- thu tiền (CR): Là sự tồn tại những sai sót
trọng yếu mà hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện và ngăn ngừa kịp thời, do
hệ thống kiểm soát nội bộ của khách thể kiểm toán không hoạt động hoặc hoạt
động không hiệu quả xảy ra trong chu trình bán hàng-thu tiền gây ảnh hưởng trọng
yếu đến Báo cáo tài chính. Rủi ro kiểm soát đại diện cho sự đánh giá về cơ cấu
kiểm toán nội bộ của khách hàng có hiệu quả đối với việc phát hiện và ngăn ngừa
các sai sót xảy ra trong chu trình bán hàng-thu tiền hay không? Khi tiến hành kiểm
toán chu trình bán hàng-thu tiền để đánh giá được rủi ro kiểm toán trong chu trình
thì KTV cần hiểu được cơ cấu kiểm soát nội bộ, đánh giá mức rủi ro kiểm soát và
sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán.
Rủi ro kiểm soát trong chu trình bán hàng- thu tiền thường gặp là:
` Các phương thức phê duyệt hàng bán trả chậm, giảm giá, xoá sổ các khoản
phải thu khó đòi có được cấp có thẩm quyền phê duyệt hay do kế toán đơn vị tự ý
làm các công việc này khi chưa có quyết định của cấp trên.
` Các hoá đơn, chứng từ có được đánh số trước hay không, có đầy đủ chữ
ký, phê duyệt của cấp trên hay không.
` Có sự phân công rõ ràng giữa các công việc trong một bộ phận hay không,
một người có thể làm các công việc liên quan đến một nghiệp vụ hay không? ví dụ
vừa bán hàng vừa thu tiền.
- Rủi ro phát hiện của chu trình bán hàng-thu tiền (DR): Là khả năng xảy ra các
sai sót gian lận của các khoản mục của chu trình bán hàng-thu tiền trên Báo cáo
tài chính mà không ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ và
cũng không được KTV phát hiện trong quá trình kiểm toán.
Các loại rủi ro phát hiện trong chu trình bán hàng- thu tiền:
` Số lượng các nghiệp vụ phát sinh nhiều, phức tạp và có liên quan đến
nhiều nghiệp vụ của chu trình khác mà KTV không thể kiểm tra được mọi hóa
đơn chứng từ.
` Một số nghiệp vụ bán hàng có phát sinh nhỏ nhưng lại là gian lận mà
KTV không phát hiện ra khi kiểm toán.
` Trình độ của KTV còn kém nên không phát hiện ra sai sót hoặc gian lận
ở một nghiệp vụ có số dư lớn làm ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính.
Khi tiến hành kiểm toán KTV cần phải xem xét đến quan hệ giữa các loại
rủi ro kiểm toán, mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro để thu thập bằng chứng
một cách hợp lý.
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro :