Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Những lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.2 KB, 37 trang )

Những lý luận chung về kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh
trong doanh nghiệp thương mại
I. Những vấn đề chung về bán hàng
1. Đặc điểm, chức năng, ý nghĩa của hoạt động bán hàng và xác định kết
quả kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, khi mà các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh
doanh, tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình thì bán hàng hoá có ý nghĩa
hết sức quan trọng đối với sự sống còn của các doanh nghiệp. Các Mác đã từng
khẳng định: Lưu thông vừa là tiền đề, vừa là điều kiện, vừa là kết quả của sản
xuất.Theo quan điểm này thì sản xuất và lưu thông gắn bó chặt chẽ với nhau tạo
nên một chu trình tái sản xuất xã hội. Các doanh nghiệp thương mại thực hiện
khâu trung gian nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng. Quá trình này bao gồm hai
khâu mua và bán hàng hoá, là một tất yếu của quá trình tái sản xuất.
Quá trính bán hàng ở các doanh nghiệp thương mại là quá trình vận động
của vốn kinh doanh từ vốn hàng hoá sang vốn bằng tiền và hình thành kết quả
kinh doanh thương mại. Quá trình bán hàng hoàn tất khi hàng hoá đac giao cho
người mua và đã thu đuợc tiền bán hàng.
Chúng ta có thể khái quát đặc điểm cơ bản của quá trình bán hàng như sau:
-Đó là sự mua bán có thoả thuận: doanh nghiệp đồng ý bán và khách hàng
đồng ý mua, đã trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
-Doanh nghiệp giao cho khách hàng một lượng hàng hoá và nhận được từ
khách hàng một khoản tiền hoặc một khoản nợ. Khoản tiền này được gọi là
doanh thu bán hàng, dùng để bù đắp các khoản chi phí đã bỏ ra trong quá trình
kinh doanh.
- Căn cứ vào số tiền hay khoản nợ mà khách hàng chấp nhận trả để hạch toán
kết quả kinh doanh trong kì của doanh nghiệp.
- Xét về mặt kinh tế học, bán hàng là một trong bốn khâu của quá trình tái sản
xuất xã hội. Đó là một quá trình lao động kĩ thuật nghiệp vụ phức tạp của doanh
nghiệp thương mại nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho xã hội. Chỉ có thông
qua bán hàng thì tính hữu ích của hàng hoá mới được thực hiện, tạo điều kiện để
tiến hành tái sản xuất xã hội. Việc thúc đẩy bán hàng hoá ở doanh nghiệp


thương mại là cơ sở để thúc đẩy công tác ở doanh nghiệp thương mại trong
nền kinh tế quốc dân.
- Xét về phương diện xã hội, bán hàng có vai trò quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Thông qua công tác bán hàng, các đơn vị kinh
doanh có thể dự đoán nhu cầu tiêu dùng của xã hội nói chung và từng khu vực
nói riêng với từng sản phẩm hàng hoá từ đó doanh nghiệp sẽ xây dựng được các
kế hoạch kinh doanh phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Chính qua đó, doanh
nghiệp đã góp phần điều hoà giữa cung và cầu trong nền kinh tế.
- Ngoài những chức năng trên, công tác bán hàng là cơ sở để có kết quả kinh
doanh. Giữa bán hàng và xác định kết quả kinh doanh có mối liên hệ hết sức
mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Bán hàng là cơ sở để xác định kết quả
kinh doanh, quyết định kết quả kinh doanh là cao hay thấp còn kết quả kinh
doanh là căn cứ quan trọng để đưa ra các quyết địnhvà bán hàng hoá. Như vậy,
có thể khẳng định rằng kết quả kinh doanh là mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp, còn bán hàng là phương tiện để thực hiện mục tiêu cuối cùng đó.
- Việc xác định kết quả kinh doanh chính là xác định phần chênh lệch giữa
một bên là doanh thu thuần với một bên là toàn bộ chi phí đã bỏ ra. Số chênh
lệch đó biểu hiện “lãi” hoặc “lỗ”. Xác định đúng kết quả kinh doanh là cơ sở để
đánh giá hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kì nhất
định của doanh nghiệp, các định nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện đối
với Nhà nước, lập các quĩ tạo điều kiện mở rộng sản xuất. Ngoài ra việc xác
định đúng kết quả kinh doanh còn là cơ sở để lập kế hoạch cho kì kinh doanh
tiếp theo, đồng thời nó cũng là số liệu cung cấp thông tin cho các đối tượng
quan tâm như các nhà đầu tư, các ngân hàng… Trong điều kiện hiện nay, khi mà
các doanh nghiệp đang phải tiến hành kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh
ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị trường, việc xác định kết quả kinh doanh
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xử lý, cung cấp các thông tin không những
cho các nhà quản lí của doanh nghiệp để lựa chọn phương án kinh doanh có
hiệu qủa mà nó còn là căn cứ để các cơ quan quản lý tài chính, cơ quan thuế...
thực hiện việc giám sát việc chấp hành các chính sách, chế độ tài chính...

Với những đặc điểm và vai trò nêu trên, kế toán bán hàng và xác định kết quả
kinh doanh có những nhiệm vụ sau:
- Một là ghi chép phản ánh đầy đủ kịp thời khối lượng hàng hoá bán ta, tính
toán đúng đắn trị giá vốn của hàng bán ra và các chi phí nhằm xác định
chính xác kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
- Hai là cung cấp thông tin kịp thời về tình hình bán hàng phục vụ cho lãnh
đạo, điều hành hoạt động kinh doanh thương mại.
- Ba là kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch bán hàng, kế hoạch lợi nhuận, kỉ luật
thanh toán và quản lí chặt chẽ tiền bán hàng, kỉ luật thu nộp ngân sách.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh
doanh phải chú ý những nội dung sau:
Thứ nhất, xác định đúng thời điểm hàng hoá được coi là được bán để kịp thời
lập báo cáo bán hàng và phản ánh doanh thu. Báo cáo thường xuyên, kịp thời
tình hình bán hàng và thanh toán với khách hàng, đảm bảo giám sát chặt chẽ
hàng bán về số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian...Đôn đốc việc thu tiền
bán hàng về quĩ kịp thời, tránh hiện tượng tiêu cực sử dụng tiền hạng cho mục
đích cá nhân.
Thứ hai, tổ chức hệ thống chứng từ ban đầu và trình tự luân chuyển hợp lí.
Các chứng từ ban đầu phải đầyđủ hợp pháp, luân chuyển khoa học, hợp lí tránh
trùng lặp, bỏ sót và không quả phức tạp nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu hợp lý,
nâng cao hiệu quả công tác kế toán. Tổ chức vận dụng tốt hệ thống tài khoản, hệ
thống sổ sách kế toán phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Thứ ba, xác định đúng và tập hợp đúng và tập hợp đầy đủ chi phí bán hàng
phát sinh trong quá trình bán hàng cũng như chi phí quản lý doanh nghiệp, phân
bổ chi phí hợp lí cho hàng còn lại cuối kì và kết chuyển chi phí hợp lí cho hàng
trong kì để xác định kết quả kinh doanh chính xác.
Kế toán bán hàng và xác định kết quả kinh doanh thực hiện tốt các nhiệm vụ
của mình sẽ đem lại hiệu quả thiết thực cho công tác bán hàng nói riêng và cho
hoạt động kinh doanh nói chung của doanh nghiệp. Nó giúp cho người sử dụng
những thông tin của kế toán nắm được toàn diện hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp, giúp cho người quản lý trong việc ra quyết định kịp thời cũng
như trong việc lập kế hoạch kinh doanh trong tương lai.
2. Phương pháp tính giá vốn của hàng bán.
Để có số liệu hạch toán, cũng như xác định kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp cần phải xác định phương pháp tính trị giá mua thực tế của hàng hoá bán
ra trong kì của doanh nghiệp để từ đó xác định giá vốn hàng bán. Ta có:
Giá vốn hàng bán
=
Giá mua hàng hoá xác định là tiêu thụ
+
Chi phí mua phân bổ
Tuỳ theo điều kiện của mình mà doanh nghiệp lựa chọn phương pháp tính giá
mua hàng hoá xác định là được bán cho phù hợp trên cơ sở tôn trọng ngguyên
tắc nhất quám trong kế toán, tức là sử dụng phương pháp nào thì phải thống
nhất trong niên độ kế toán. Thông thướng, có những phương pháp tính giá mua
hàng hoá như sau:
2.1. Phương pháp giá thực tế bình quân gia quyền.
Giá mua của hàng hoá mua trong kì
=
Số lượng hàng hoá xuất kho trong kì
x
Đơn giá mua bình quân gia quyền
Trong đó:
+
Giá mua thực tế Hàng
nhập trong kì
Giá mua tực tế hàng
tồn đầu kì
=Đơn giá bình quân gia
quyền

Số lượng hàng hoá tồn đầu

+
Số lượng hàng hoá
nhập trong kì
Theo phương pháp này, giá vốn của hàng hoá xuất kho để bán tính được
tương đối hợp lý nhưng không linh hoạt vì cuối tháng cuối tháng mới tính được
đơn giá bình quân.
2.2. Phương pháp bình quân sau mỗi lần nhập.
Về bản chất, phương pháp này giống phương pháp trên nhưng đơn giá bình
quân phải được tính lại sau mỗi lần nhập trên cơ sở giá mua của hàng tồn và giá
mua của lần nhập đó. Phương pháp này đảm bảo số liệu có độ chính xác cao và
kịp thời tuy nhiên khối lượng công việc tính toán lại tăng thêm do đó chỉ nên áp
dụng với các doanh nghiệp có số lần mua hàng hoá ít nhưng khối lượng lớn.
2.3. Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO)
Theo phương pháp này hàng hoá xuất được tính giá mua trên cơ sở giả định
lô hàng nào nhập kho trước thì tính gía mua vào của cho hàng hoá xuất trước,
nhập sau thì tính sau.
Kế toán phải mở sổ chi tiết cho từng loại hàng về số lượng, đơn giá và thành
tiền về từng lần nhập xuất hàng hoá.
2.4. Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO)
Phương pháp này tính giá mua hàng hoá bán ra trên cơ sở giả định lô hàng
nào nhập kho sau thì được xuất trước, vì vậy việc tính giá mua sẽ ngược lại với
phương pháp nhập trước xuất trước.
2.5. Phương pháp ghi sổ theo giá hạch toán.
Giá hạch toán là giá do doanh nghiệp đặt ra, có thể lấy giá kế hoạch hoặc giá
cuối kì trước và được qui định thống nhất trong một kì hạch toán. Theo phương
pháp này, để tính được trị giá mua thực tế của hàng hoá bán ra trong kì, kế toán
phải mở sổ kế toán chi tiết, phản ánh sự biến động của hàng hoá nhập, xuất
trong kì theo giá hạch toán. Hàng ngày, kế toán ghi sổ về các nghiệp vụ xuất

hàng hoá theo giá hạch toán:
Cuối kỳ, kế toán tiến hành xác định hệ số chênh lệch giá của từng loại hàng
hoá theo công thức:
Trị giá hạch toán của hàng xuất kho
=
Số lượng hàng hoá xuất kho
x
Đơn giá hạch toán
Trị giá mua thực tế của hàng nhập trong kì
Hệ số chênh lệch tỷ giá
=
Trị giá mua thực tế của hàng tồn đầu kì
+
Trị giá hạch toán của hàng tồn đầu kì
+
Trị giá mua hạch toán của hàng nhập trong kì
Trị giá mua thực tế của hàng hoá bán ra được xác định theo công thức:
Trị giá mua thực
tế hàng bán ra
= Giá hạch toán của
hàng bán ra trong kì
x Hệ số chênh lệch
giá
2.6. Phương pháp giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này, trị giá mua của hàng hoá xuất kho bán thuộc lô hàng
nhập nào thì tính theo đơn giá của chính lô đó.
Phương pháp này phản ánh rất chính xác giá của từng lô hàng xuất bán nhưng
công việc rất phức tạp phương pháp đòi hỏi thủ kho phải nắm được chi tiết rừng
lô hàng, phương pháp này được áp pháp dụng cho các loại hàng hoá có giá trị
cao, được bảo quản riêng theo từng lô của, mỗi lần nhập.

Chi phí mua hàng phát sinh trong kì
Chi phí thu mua phân bổ của hàng bán ra trong kì
=
+
Trị giá mua của hàng tồn đầu kì
+
Trị giá mua của hàng nhập trong kì
x
Trị giá mua của hàng bán ra trong kì
Cuối kỳ, kế toán tiến hành phân bố chi phí thu mua của hàng còn lại đầu kỳ
và chi phí thu mua phát sinh trong kỳ này cho hán xuất kho và hàn còn lại cuối
kỳ theo công thức:
Như vậy giá vốn của hàng bán ra được tính theo công thức sau:
3. Các phương pháp kế toán chi tiết hàng hoá.
Kế toán chi tiết hàng hoá được thực hiện đối với từng loại hàng lưu chuyển
qua kho cả về chỉ tiêu giá trị và hiện vật.
Để có thể quản lý tốt nhất hàng hoá có trong kho thì điều quan trọng là doanh
nghiệp phải lựa chọn vận dụng phương pháp hạch toán chi tiết phù hợp với yêu
cầu và trình độ quản ký của đội ngũ kế toán của doanh nghiệp. Tuỳ theo tình
hình, đặc điểm riêng của mình mà doanh nghiệp có thể áp dụng một trong ba
phương pháp sau:
3.1. Phương pháp thẻ song song.
* Điều kiện vận dụng:
Những đơn vị thường xuyên áp dụng phương pháp hạch toán thẻ song song
thường có đặc trưng: chủng loại vật tư ít, mật độ nhập xuất nhiều cần giám sát
Chi phí mua hàng
phân bổ cho hàng
trong kì
Trị giá mua của
hàng xuất bán

trong kì
+
Chi phí thu mua phân bổ
cho hàng xuất bán trong

Trị giá vốn của hàng bán
ra trong kì
=
thường xuyên, hệ thống kho tàng tập trung kế toán có thể kiểm tra và đối chiếu
thường xuyên.
Chứng từ nhập
Chứng từ xuất
Bảng tổng hợp xuất nhập tồn luỹ kế xuất
Chứng từ nhập
Sổ chi tiết hàng hoá
(1)
(2)
(3)
(2)
(4)
Ghi hàng ngày hoặc định kỳ
Đối chiếu kiểm tra
Ghi cuối tháng
* Đặc điểm tổ chức sổ và quy trình hạch toán :
Tại kho: thực hiện bước (1). Việc ghi chép tình hình nhập xuất tồn do thủ kho
tiến hành trên thẻ kho hoặc sổ kho theo từng loại hàng, từng mặt hàng có trong
kho và ghi theo chỉ tiêu số lượng.
- Tại phòng kế toán thực hiện các bước (2), (3), (4). Kế toán mở thẻ kế
toán chi tiết cho từng loại hàng hoá tương ứng với thẻ kho nhưng khác là được
theo dõi trên cả hai chỉ tiêu hiện vật và giá trị. Hàng ngày hoặc định kỳ, khi

nhận được chứng từ nhập xuất do thủ kho chuyển tới, nhân viên kế toán kiểm
tra đối chiếu sau đó vào số chi tiết. Cuối tháng tiến hành cộng sổ và đối chiếu
với thẻ kho.
3.2. Phương pháp sổ số dư.
*Điều kiện vận dụng:
Phương pháp này thích hợp cho những doanh nghiệp có đặc trưng: chủng
loại hàng hoá phong phú, mật độ nhập xuất lớn, hệ thống kho tàng phân tán và
quản lý tổng hợp, thường sử dụng giá hạch toán để ghi chép, lao động kế toán
không đủ để thực hiện đối chiếu, kiểm tra thường xuyên nhưng đòi hỏi phải có
chuyên môn vững vàng, tinh thần trách nhiệm cao, đảm bảo số liệu được ghi
chép chính xác trung thực.
Bảng kê tổng hợp nhập - xuất - tồn
Chứng từ
nhập
Chứng từ
xuất
Sổ số dư
(3)
)
Bảng kê kuỹ kế nhập
Ghi hàng ngày hoặc định kì
Đối chiếu kiểm tra
Ghi cuối tháng
Thẻ kho
Bảng kê kuỹ kế xuất
(3)
(2)
(5)
(4)
(4)

(2)
(1)
(1)
 Đặc điểm tổ chức số và quy trình hạch toán:
Tại kho: Thủ kho thực hiện các bước (1), (3). ở phương pháp này ngoài việc
ghi chép giống phương pháp trên thủ kho còn sử dụng sổ số dư để ghi chép chỉ
tiêu số lượng của hàng hoá. Sổ này do kế toán lập cho từng thủ kho và sử dụng
cả năm. Hàng tháng, vào ngày cuối tháng kế toán chuyển sổ dư cho thủ kho.
Thủ kho sau khi cộng số liệu nhập xuất trong tháng và tính ra số tồn cuối tháng
của từng loại hàng trên thẻ kho và vào sổ số dư theo từng loại hàng hoá.
Cũng vào cuối tháng, sau khi nhận được sổ số dư do thủ kho chuyển lên thì
kế toán căn cứ vào số lượng và đơn giá của từng loại hàng hoá tồn kho để tính
ra chỉ tiêu giá trị của số dư và ghi vào cột “thành tiền” trên sổ số dư. Số liệu này
được đối chiếu với số liệu cột tồn kho trên Bảng tổng hợp và chúng phải trùng
nhau.
3.3. Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển.
*Điều kiện vận dụng:
Phương pháp này thích hợp với doanh nghiệp có quy mô họat động vừa,
chủng loại nguyên vật liệu không nhiều, khối lượng chứng từ nhập xuất không
quá nhiều, không bố trí riêng nhân viên kế toán vật liệu do vậy không có điều
kiện ghi chép, theo dõi hàng ngày.
Sổ đối chiếu luân chuyển
Ghi cuối kỳ
Chứng từ
nhập
Chứng từ
xuất
Bảng kê nhập
Ghi hàng ngày
Đối chiếu kiểm tra

Thẻ kho
Bảng kê xuất
(4)
(2)
(2)
(1)
(1)
(3)
(3)
* Đặc điểm tổ chức và quy trình hạch toán.
- Tại kho: Thủ kho thực hiện bước (2), (3), (4). Kế toán mở sổ đối chiếu luân
chuyển để ghi chép tình hình nhập xuất tốn kho của từng loại hàng hoá theo cả 2
chỉ tiêu : số lượng, giá trị ở từng kho cho cả năm, mỗi tháng chỉ ghi một lần vào
cuối tháng. Để có số liệu ghi vào số đối chiếu luân chuyển, kế toán lập bảng kê
nhập, xuất, cuối tháng tiến hành kiểm tra số liệu giữa số đối chiếu luân chuyển
với thẻ kho và số liệu kế toán tổng hợp.
4. Các phương thức bán hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, việc bán sản phẩm, hàng hoá của các doanh
nghiệp được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau, theo đó các sản
phẩm hàng hoá vận động từ doanh nghiệp đến tay các hộ tiêu dùng cuối cùng.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản phẩm hàng hoá tiêu thụ mà doanh nghiệp có thể sử
dụng một trong các phương thức sau:
4.1. Bán buôn qua kho.
Đây là hình thức bán buôn mà hàng hoá bán được xuất ra từ kho của doanh
nghiệp. Theo phương thức này có 2 hình thức bán buôn:
* Bán buôn qua kho bằng cách giao hàng trực tiếp: theo hình thức này, bên
mua cử đại diện đến kho doanh nghiệp thương mại để nhận hàng. Doanh
nghiệp xuất kho hàng hoá giao trực tiếp cho đại diện bên mua ký nhận đủ hàng,
bên mua đã thanh toán hoặc chập nhận thanh toán, hàng hoá được xác nhận là
tiêu thụ.

* Bán buôn qua kho bằng cách chuyển thẳng hàng: Theo hình thức này, căn
cứ vào hợp đồng đã ký kết, doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá bằng
phương tiện vận tải của mình hay thuê ngoài chuyển đến giao cho bên mua tại
một địa điểm đã được thoả thuận giữa hai bên. Hàng hoá chuyển bán vẫn thuộc
quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại, số hàng này được xác nhận là tiêu
thụ khi nhận được tiền của bên mua thanh toán hay chấp nhận thanh toán.
4.2. Bán buôn vận chuyển thẳng.
Đây là hình thức bán buôn mà các doanh nghiệp thương mại sau khi mua
hàng, nhận hàng mua về không nhập kho mà chuyển thẳng cho bên mua.
Phương thức này được thực hiện theo các hình thức:
* Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán.
Theo hình thức này, doanh nghiệp không tham gia vào việc thanh toán tiền
mua hàng bán hàng với người mua, người bán. Doanh nghiệp chỉ thực hiện việc
môi giới: sau khi tìm được nguồn hàng, thoả thuận giá cả số lượng (dựa trên cơ
sở giá cả số lượng trong đơn đặt hàng của người mua) doanh nghiệp tiến hành
bàn giao hàng ngày tại kho hay địa điểm giao hàng của người bán và người mua
có trách nhiệm thanh toán với người bán chứ không phải với doanh nghiệp. Như
vậy, hàng hoá trong trường hợp này không thuộc sở hữu của doanh nghiệp,
doanh nghiệp được hưởng hoa hồng môi giới.
*Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán.
Theo hình thức này, doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng chuyển hàng
đi bán thẳng cho bên mua tại một địa diểm đã thoả thuận. Hàng hoá lúc này vẫn
thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Chỉ khi bên mua thanh toán hoặc khi doanh
nghiệp nhận được giấy biên nhận hàng và bên mua chấpnhận thanh toán thì
hàng hoá được xác nhận là tiêu thụ. Trong trương hợp này, doanh nghiệp tham
gia thanh toán với cả hai bên: Thu tiền bán hàng của người mua và trả tiền mua
hàng cho người bán.
4.3. Phương thức bán lẻ:
Đây là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng.
*Hình thức bán hàng thu tiền tập trung:

Theo hình thức này nhiệm vụ thu tiền của người mua và giao hàng cho người
mua tách rời nhau. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu tiền mua hàng của
khách hàng, viết hoá đơn hoặc tích kê giao hàng cho khách để khách hàng đến
nhận ở quầy hàng do nhân viên bán hàng giao. Hết ca, hết ngày bán hàng, nhân
viên bán hàng căn cứ vào hoá đơn hoặc kiểm kê hàng hoá tồn quầy để xác định
số lượng hàng hoá bán trong ca, trong ngày và lập báo cáo bán hàng. Nhân viên
thu tiền và nộp tiền cho thủ quỹ và làm giấy nộp tiền.
*Hình thức bán hàng thu tiền trực tiếp:
Theo hình thức này, nhân viên bán hàng thu tiền trực tiếp của khác và giao
hàng cho khách. Hết ca, hết ngày bán hàng, nhân viên bán hàng nộp tiền cho thủ
quỹ và lấy giấy nộp tiền bán hàng. Sau đó nhân viên bán hàng kiểm kê hàng tồn
quầy để xác định số lượng hàng đã bán trong ca, trong ngày và lập báo cáo bán
hàng.
*Hình thức bán hàng trả góp:
Theo hình thức này, người mua được trả tiền mua hàng thành nhiều lần.
Doanh nghiệp thương mại ngoài số tiền thu theo giá bán hàng còn thu thêm ở
người mua một khoản tiền lãi vì trả chậm.
4.4. Phương thức bán hàng qua đại lý.
- Đối với bên giao đại lý:
Hàng giao cho đơn vị đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và
chưa xác dịnh là đã bán. Doanh nghiệp chỉo hạch toán vào doanh thu khi nhận
được tiền toán của bên nhận đại lý hoặc đã được chấp nhận thanh toán.
Doanh nghiệp có trách nhiệm nộp thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có)
trên tổng giá trị hàng gửi bán đã tiêu thụ mà không được trừ đi phần hoa hồng
đã trả cho bên nhận đại lý. Khoản hoa hồng doanh nghiệp đã trả coi như là phần
chi phí bán hàng được hạch toán vào tài khoản 641.
*Đối với bên nhận đại lý:
Số hàng nhận đại lý không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng
doanh nghiệp có trách nhiệm phải bảo quản, giữ gìn, bán hộ. Số hoa hồng được
hưởng là doanh thu trong hợp đồng bán hộ của doanh nghiệp.

4.5. Phương thức hàng đổi hàng.
Trường hợp này khác với các phương thức bán hàng trên là người mua không
trả bằng tiền mà trả bằng vật tư, hàng hoá. Việc trao đổi hàng hoá thường có lợi

×