Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

TU33CD~1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.79 KB, 6 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo
điều
Trần Văn Phòng
Tạp chí Khoa học xã hội

05:16' PM - Thứ bảy, 28/04/2007
Một trong những di sản lý luận mà Hồ Chí Minh để lại cho
chúng ta là tư tưởng về sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn như một biện pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa, khắc phục
bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: "Lý luận
đi đôi với thực tiễn", "Lý luận kết hợp với thực hành", "Lý
luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”, "Lý luận
phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292).
Dù nói "đi đôi", "gắn liền", "kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất
mà Người muốn nhấn mạnh là: "Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là
lý luận suông" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như vậy,
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu
trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường,
dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải
bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn,
phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu
không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận
cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho
nhau.
Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh


nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh
khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ
dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, không có lý luận thì
trong hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh
nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm, cho kinh
nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực
tiễn. Nếu không có lý luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm
cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng, thêm kéo dài. Thực tế
cho thấy, ở nước ta có không ít cán bộ, đảng viên "chỉ bo bo
giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất
quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm
đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách
mạng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Những cán bộ ấy
quên rằng, "kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng
Thông tin liên quan:
Bác Hồ và việc chống tham
nhũng
19/05/2008
Nhớ về Bác, giữa bộn bề cuộc
sống hôm nay
16/05/2008
Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan
điểm tuyển chọn, đào tạo cán
bộ viên chức Nhà nước
30/05/2007
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
24/05/2007
Toả sáng đời đời
19/05/2007
xem tất cả...

Bài mới:
Một vài suy nghĩ về vai trò
triết học Hegel và “ý niệm
tuyệt đối” của ông
16/09/2008 08:09' AM
Gặp “ông chủ” Viet-studies
13/09/2008 09:43' AM
Nghĩ về người tri thức
12/09/2008 09:05' AM
Sức sống của triết học Mác
trong xã hội hiện đại
09/09/2008 07:54' PM
Tại sao phải đọc những tác
phẩm khoa học thời Cổ đại
06/09/2008 04:49' PM
Cách mạng tháng 8 và người
trí thức
03/09/2008 09:13' PM
Không có tư duy phản biện,
không phải là trí thức!
01/09/2008 09:04' AM
Bài khác:
Nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng:
Học để làm người
28/04/2007
Tiếp tục đổi mới nghiên cứu và
giảng dạy triết học ở nước ta
18/04/2007
qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có
kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng

một mắt mờ" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234). Thực chất
là họ không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Theo
Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực
tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho
chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng
túng như nhắm mắt mà đi" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234
- 235). "Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò
trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp" (Hồ Chí
Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu hiện
của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ
dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi
lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý
luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không thể hiểu
được bản chất những vấn đề thực tiên mới nảy sinh. Do đó,
không vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề
thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát
thực tế không phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận
rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ
với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức
bệnh giáo điều. Người khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên
(hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên
mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 235). Như vậy cũng có nghĩa là
lý luận suông, lý luận sách vở thuần túy. "Lý luận cốt để áp
dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào
công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn,
hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì
khác nào một cái hòm đựng sách" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5
tr. 234). Do đó, khi vận dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất

phát từ thực tiễn, nếu không cũng mắc phải bệnh giáo điều.
Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi được vận dụng
vào thực tiễn phục vụ thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn
đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, khi vận dụng lý luận vào
thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải được hiểu
là, thực tiễn - lý luận, lý luận - thực tiễn luôn hòa quyện,
thống nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề
cho nhau phát triển.
Hồ Chí Minh không để lại những tác phẩm chuyên khảo về
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nhưng ở nhiều bài
Về vai trò sáng lập lịch sử triết
học của Arixtốt
13/04/2007
Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn
đề bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau
10/04/2007
Cầu tiến hay cầu toàn
05/04/2007
Đổi mới - linh hồn của tư
tưởng Hồ Chí Minh
31/03/2007
Cảm nghĩ thời đại lúc vào
xuân
29/03/2007
viết, bài nói Người luôn luôn đề cập tới nguyên tắc cơ bản
này bằng nhiều cách nói, cách viết, cách diễn đạt khác nhau
nhằm giúp cán bộ, đảng và quần chúng nhân dân dễ nhớ, dễ
hiểu, dễ vận dụng. Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng

về việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Một trong những biểu hiện sinh động ấy là, trong hoạt
động cách mạng Người luôn luôn sâu sát thực tế, gắn bó với
cơ sở, gần gũi với nhân dân. Trong khoảng 10 năm từ 1955 -
1965, Hồ Chí Minh đã thực hiện trên 700 lượt đi thăm, tiếp
xúc với cán bộ, bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông
dân, các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng, các
đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh
viện, trường học... Như vậy, mỗi năm có tới hơn 70 lần
xuống cơ sở, gặp gỡ tiếp xúc với quần chúng nhân dân. Điều
này đủ thấy Hồ Chí Minh gắn bó với quần chúng, sâu sát với
cơ sở, thực tế như thế nào.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên rằng, quán
triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là góp
phần trực tiếp ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều. Để làm tốt điều này thì một mặt, phải ra sức
học tập, nâng cao trình độ lý luận cũng như chuyên môn
nghiệp vụ. Mặt khác, phải có phương pháp học tập đúng đắn,
học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Nếu
không, chưa khắc phục được bệnh kinh nghiệm thì đã mắc
phải bệnh giáo điều, bệnh sách vở. Người chỉ rõ, "lý luận rất
cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có
kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn
mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995,
tập 8, tr. 496). Điều quan trọng nữa theo Người là phải thống
giáo điều ngay trong học tập chủ nghĩa Lênin. Khi còn sống
Người luôn phê phán kiểu học học thuộc lòng chủ nghĩa
Mác- Lênin, "học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tinh
thần Mác - Lênin" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9 tr. 292). Đó là
học theo kiểu "mượn những lời của Mác, Lênin dễ làm cho

người ta lầm lẫn" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Theo
Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là "phải học
tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập lập trường, quan
điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng
lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho
tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng
ta" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 497). "Học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với
mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý
phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách
sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Hồ Chí Minh cũng căn
dặn cán bộ, đảng viên "học tập lý luận thì nhằm mục đích để
vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo
cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với
Đảng" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498). Như vậy, học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin không phải vì chủ nghĩa Mác - Lênin,
cũng không phải vì học tập thuần túy, càng không phải học
tập vì mục đích cá nhân nhằm có cái để mặc cả với tổ chức.
Học tập trước hết là để làm người, rồi mới làm cán bộ và
phụng sự Tổ quốc, nhân dân, giai cấp. Cho nên người cán bộ,
đảng viên phải có thái độ học tập đúng đắn mới có thể khắc
phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh cho tới
nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với
chúng ta. Người cũng lưu ý rằng, không nên coi chủ nghĩa
Mác - Lênin là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng
nhắc (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Có như vậy thì việc
nghiên cứu, học tập vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin mới có
hiệu quả. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ

nghĩa Mác - Lênin thì còn phải chống giáo điều trong vận
dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, ngành
khác. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: "Không chú trọng
đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm
của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ
nghĩa giáo điều (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449). Để
chống cả hai loại giáo điều này, theo Hồ Chí Minh thì biện
pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước
nhà. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực
tiễn cách mạng, khi vận dụng kinh nghiệm và lý luận phải
xuất phát từ thực tiễn nước nhà. Người cũng nhấn mạnh rằng,
cùng với việc chống bệnh giáo điều thì phải đề phòng, ngăn
ngừa chủ nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu không có quan điểm đúng
đắn trong việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn thì người ta dễ nhấn mạnh thái quá những đặc
điểm dân tộc để phủ nhận những giá trị phổ biến của chủ
nghĩa Mác - Lênin. "Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân
tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn,
cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng
của chủ nghĩa xét lại, (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 449).
Đồng thời, Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết
dùng lý luận đã học được để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
nhằm nâng cao hiệu quả công tác. "… công việc gì bất kỳ
thành công hoặc thất bại, chúng ta cần nghiên cứu cội rễ,
phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa
khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới" (Hồ
Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 243). Người còn nhấn mạnh " ...cần
phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới,
lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho
nó đầy đủ dồi dào thêm" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 417).

Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút
kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm
được như vậy cũng có nghĩa là làm cho lý luận cần được "bổ
sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh
động" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Đồng thời, thực
tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới.
Cứ như vậy, lý luận luôn được bổ sung, hoàn thiện, phát triển
bởi những kết luận mới được rút ra từ tổng kết thực tiễn. Còn
thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận đã
được bổ sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Đây là
biểu hiện sinh động của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh. "Làm như thế theo
Người là tổng kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với
các vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn"
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 498).
Qua những nhận định ở trên, chúng ta thấy rằng, để quán triệt
tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm ngăn
ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu
quả thì phải không ngừng học tập lý luận, nâng cao trình độ
lý luận. Khi có lý luận thì phải vận dụng vào thực tiễn, phải
biết tổng kết thực tiễn để làm giàu lý luận bằng những kinh
nghiệm thực tiễn mới. Chỉ thông qua quy trình như vậy thì lý
luận mới gắn với thực tiễn, mới không trở thành giáo điều.
Đồng thời thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo bồi lý luận sẽ không
bị mò mẫm, vấp váp, hay chệch hướng. Như vậy thì bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều cũng không còn chỗ đúng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn như một biện pháp cơ bản để ngăn ngừa, khắc phục bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều có ý nghĩa hết sức to lớn hiện
nay, khi mà chúng ta đang tìm lời giải đáp cho nhiều vấn đề

thực tiễn đổi mới đặt ra. Bởi lẽ, để tìm lời giải cho những vấn
đề đó chúng ta phải tìm ở cả trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng như ở chính thực tiễn đổi mới hiện
nay ở nước ta. Nghĩa là phải bằng phương pháp, quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tổng kết
những vấn đề thực tiễn hôm nay một cách có lý luận.
Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội
Số lượt đọc: 37842 - Cập nhật lần cuối: 09/09/2008 08:21:01 PM

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×