Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.87 KB, 21 trang )

1
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
3.1 ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
Trên cơ sở đánh giá những kết quả hoạt động của chi nhánh
Vietcombank Hà Nội giai đoạn 2005 - 2007 và những nhân tố ảnh hưởng trực
tiếp đến sự phát triển của chi nhánh trong thời kỳ tới, VCB Hà Nội đã xây
dựng chiến lược phát triển đến năm 2010 như sau:
* Nguồn vốn: Chi nhánh tiếp tục phát huy thế mạnh về công nghệ và uy
tín thương hiệu một ngân hàng đối ngoại trên địa bàn, đồng thời kết hợp với
đa dạng hoá các hình thức, các công cụ huy động vốn như: kỳ phiếu, trái
phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, mở rộng mạng lưới giao
dịch, áp dụng các chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, các nghiệp vụ hoán
đổi lãi suất, quyền chọn…để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng
đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh
nghiệp trên tổng huy động vốn từ khách hàng từ 26% năm 2006, 36% năm
2007 và 40% năm 2008. Với việc mở thêm các địa điểm giao dịch, dự kiến
cuối năm 2008 tổng nguồn vốn của chi nhánh tăng 15% so với năm 2007,
trong đó nguồn vốn huy động từ dân tư và các tổ chức kinh tế tăng 19% so
với năm 2007.Dự kiến tốc độ tăng trưởng huy động vốn giai đoạn 2005 -
2010 khoản 16.4% . Bên cạnh giải pháp về nghiệp vụ chi nhánh đã và sẽ tiếp
tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và
văn minh trong khối ngân hàng bán lẻ theo chuẩn mực của một ngân hàng
thương mại hiện đại.
1
1
2
* Cho vay
Kế hoạch cho vay đến cuối năm 2008 , chi nhánh sẽ đạt mức dư nợ tín


dụng tăng 20% so với năm 2007. Khống chế tỷ lệ nợ quá hạn dưới mức 2%,
giảm dần tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi. Tăng dần tỷ trọng cho vay trung dài hạn
đầu tư tài sản cố định trong cơ cấu tín dụng tín dụng của chi nhánh, kế hoạch
2008 đạt 28% tổng dư nợ.
Bảng 3.1: Kế hoạch cho vay của chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Hà Nội
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu 2008 2009 2010
Dư nợ tín dụng 7613 9288 11146
Tốc độ tăng trưởng ( % ) 125.0 122.0 120.0
Đồng thời, tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước giảm dần
và tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp
có vốn đầu tư nứoc ngoài sẽ tăng dần. Trong đó, đối với các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài sẽ tăng dần. Trong đó, đối với các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh sẽ tập trung cho vay đối tượng là các tổng công ty lớn của Hà Nội
đặc biệt là các tổng công ty áp dụng mô hình quản lý công ty mẹ - công ty
con. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chi nhánh sẽ chú trọng đầu tư với
các doanh nghiệp được cổ phần hoá từ các doanh nghiệp nhà nước trước đây
và những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.

2
2
3
Bảng 3.2: Dự báo cơ cấu đầu tư đến năm 2010 phân theo kỳ hạn nợ
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2007 2008 2010
Số tương
đối

Số tuyệt
đối
Số tương
đối
Số tuyệt
đối
Số tương
đối
Số tuyệt
đối
Tổng dư nợ 4531 7613 11146
Ngắn hạn 107.0 3521 151.3 5329 136.2 7356
Trung, dài hạn 102.7 1010 226.1 2284 166.0 3790
Theo đánh giá của chi nhánh, tốc độ tăng trưởng và cơ cấu như trên là
hợp lý. Điều này có thể giúp chi nhánh tăng hiệu quả hoạt động trong những
năm tới đồng thời vẫn đảm bảo tính an toàn trong hoạt động tín dụng.
* Đi đầu ứng dụng và phát triển công nghệ trong quản lý và kinh doanh.
Từng bước vi lượng hoá và nâng cao chất lượng trong dịch vụ ngân hàng.
* Triển khai áp dụng mô thức quản trị trong ngân hàng theo tiêu chuẩn
quốc tế, chuẩn mực hoá quy trình và không gian giao dịch, phát trển mạng
lưới hoạt động trên địa bàn Hà Nội, mở rộng hoạt động ngân hàng bán buôn
và bán lẻ.
* Phát huy vai trò lãnh đạo chủ đạo trên thị trường liên ngân hàng và
hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
* Cùng với hệ thống ngân hàng ngoại thương Việt Nam trở thành một
tập đoàn tài chính đa năng có quy mô lớn ở Châu Á vào giai đoạn 2015 -
2020, có phạm vi hoạt động không những trong nước mà cả tại các thị trường
tài chính lớn trên thế giới.
3.2 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG

Thẩm đinh tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng trong quy
trình thẩm định cho vay của ngân hàng, đây là một khâu có vai trò quyết định
đến chất lượng của hoạt động cho vay. Vì vậy mà vấn đề nâng cao chất lượng
3
3
4
thẩm định tài chính doanh nghiệp vay vốn không chỉ là vấn đề bức xúc hiện
nay của riêng chi nhánh mà của cả toàn ngành ngân hàng. Để công tác thẩm
định tài chính doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu nhanh, chính xác và hiệu
quả cần phải có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa. Sau đây là một số giải
pháp cơ bản để nâng cao chất lượng thẩm định tài chính doanh nghiệp trong
hoạt động cho vay tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội:
3.2.1 Chuyên môn hoá việc quản lý khách hàng theo nhóm ngành
kinh tế hoăc loại hình doanh nghiệp.
Khi luật doanh nghiệp đi vào thực thi, có rất nhiều loại hình doanh nghiệp
ra đời với các hình thức kinh doanh khác nhau. Các doanh nghiệp tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn thường có quy mô nhỏ, thời gian hoạt động ngắn, cho
nên các báo cáo tài chính của nó còn có nhiều thiếu sót, đơn giản và sơ sài.
Trong khi đó các công ty nhà nước, công ty liên doanh hay công ty có vốn đầu
tư nước ngoài lại có thời gian hoạt động dài, quy mô kinh doanh lớn thì các báo
cáo tài chính lại dài và phức tạp. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng, do đó
để nâng cao công tác thẩm định tài chính doanh nghiệp thì cần thiết phải phân
công cán bộ tín dụng chuyên môn hoá phụ trách theo nhóm ngành kinh doanh
hoặc theo loại hình doanh nghiệp.
- Theo nhóm ngành kinh doanh
Chi nhánh nên tổng hợp các doanh nghiệp khách hàng của mình, phân
loại theo loại hình kinh doanh như thương mại dịch vụ, xây dựng…Khi đã
phân loại như vậy rồi, chi nhánh tiến hành giao cho các cán bộ tín dụng quản
lý từng nhóm ngành kinh doanh riêng. Việc phân loại như vậy, sẽ giúp chi
nhánh chuyên môn hoá được loại hình kinh doanh, các cán bộ tín dụng sẽ

được chuyên sâu về lĩnh vực mà mình quản lý.
- Theo loại hình doanh nghiệp
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều loại hình doanh nghiệp với quy mô và
nguồn vốn khác nhau. Doanh nghiệp nhà nước thường có vốn chủ sở hữu lớn
4
4
5
vì thế mà DNNN có thể tiến hành sản xuất kinh doanh tất cả các ngành nghề
được xét duyệt kinh doanh với quy mô lớn. Nhưng đối với các doanh nghiệp
tư nhân, công ty TNHH thường thì kinh doanh ngành nghề rộng. Vì vậy mà
phân loại theo ngành nghề kinh doanh không phát huy được hiệu quả, nhưng
việc phân loại theo loại hình doanh nghiệp lại có hiệu quả hơn. Như vậy, chi
nhánh có thể phân thành các loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ phần,…rồi
sau đó phân nhiệm vụ cho các cán bộ tín dụng phụ trách từng loại hình doanh
nghiệp. Để cho các cán bộ tín dụng có khả năng làm việc trong tất cả các lĩnh
vực kinh tế, các ngành nghề thì các cán bộ tín dụng phải thường xuyên trao
đổi cho nhau, và sau một thời gian có thể thay đổi các lĩnh vực ngành nghề.
Nhưng việc phân công công việc cho các cán bộ tín dụng đòi hỏi người
chịu trách nhiệm phân công phải nắm bắt được khá rõ về ưu nhược điểm của
nhân viên của mình, tạo điều kiện cho các nhân viên của mình phát huy được sở
trường của bản thân, phát huy điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu, tạo nên
sức mạnh tập thể.
3.2.2 Hoàn thiện nội dung, quy trình thẩm định tài chính doanh nghiệp
Nội dung, quy trình thẩm định tài chính doanh nghiệp đầy đủ, rõ ràng
là rất quan trọng vì kết quả của quá trình thẩm định đó dẫn tới quyết định có
cho doanh nghiệp vay vốn hay không và từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của
ngân hàng. Khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn, việc
thẩm định các tỷ số tài chính đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với các cán
bộ tín dụng vì thông qua các tỷ số này, các cán bộ tín dụng có thể có cái nhìn

tổng quát về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tại
chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội việc tính toán các chỉ tiêu này
chưa được thực hiện một cách đầy đủ. Tại chi nhánh, các cán bộ tín dụng chỉ
tập trung vào một số chỉ tiêu như: Chỉ tiêu về khả năng hoạt động, chỉ tiêu về
5
5
6
khả năng sinh lời,… mà lại bỏ qua một nhóm chỉ tiêu vô cùng quan trọng đó
là nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Vì thế mà bên cạnh
việc tính các chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động, khả năng sinh lời, ngân
hàng ngoại thương Hà Nội cần quan tâm đến việc phân tích diễn biến nguồn
vốn và sử dụng vốn. Đồng thời cần quan tâm đến các chỉ tiêu như là chỉ tiêu
phản ánh năng lực tài sản, chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn…những chỉ tiêu này
không phải là mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng nhưng các chỉ tiêu này
sẽ góp phần làm rõ thêm thông tin về doanh nghiệp, kết hợp với các chỉ tiêu
trên đặc biệt là các báo cáo tài chính để phản ánh một bức tranh toàn diện về
tình hình tài chính doanh nghiệp.
Quy trình thẩm định có rất nhiều bước như: thẩm định tư cách pháp
nhân, thẩm định phương án vay vốn, thẩm định tài sản đảm bảo, thẩm định
phương án vay vốn,…Nếu quá trình thẩm định tài chính quá sâu hoặc quá dài
dòng thì có thể gây thừa và lặp lại, chồng chéo lên nhau. Vì thế các cán bộ tín
dụng nên vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong việc thẩm định tài chính doanh
nghiệp. Với các doanh nghiệp có quy mô lớn, phức tạp, các báo cáo tài chính
cũng phức tạp cho nên cần thiết sử dụng nhiều chỉ tiêu và nội dung phân tích để
làm rõ ràng sáng tỏ tình hình tài chính doanh nghiệp. Còn đối với những doanh
nghiệp có các báo cáo tài chính đơn giản chỉ cần sử dụng các chỉ tiêu tài chính
chủ yếu mà ngân hàng quan tâm, tránh mất nhiều thời gian và chi phí.
Hiện nay, chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội vẫn chưa có chỉ
tiêu định mức để so sánh. Vì vậy ngân hàng nên dựa trên cơ sở các hồ sơ cho
vay trước đây để xây dựng một số chỉ tiêu quan trọng cho mình để làm cơ sở

cho việc đánh giá. Giải pháp này tuy khó thực hiện nhưng nếu ngân hàng mà
thực hiện được thì sẽ đem lại lợi ích lớn.
Ngoài việc thẩm định bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh
doanh thì ngân hàng cần quan tâm đến việc thẩm định báo cáo lưu chuyển
tiền tệ và phân tích dòng tiền bởi vì giá trị các khoản mục trong bảng cân đối
6
6
7
kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh , đó là giá trị sổ sách kế toán. Các số
liệu này cho biết tình hình tài chính doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại,
trong khi đó ngân hàng cần quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp
trong tương lai. Thẩm định báo cáo lưu chuyển tiền tệ giúp ngân hàng dự báo
các dòng tiền của doanh nghiệp và có thể đánh giá được khả năng trả nợ của
doanh nghiệp trong tương lai. Khi phân tích dòng tiền cần phải tập trung vào
trả lời các câu hỏi như liệu doanh nghiệp có khả năng đáp ứng các chi phí, các
khoản nợ của mình bằng dòng tiền nhập quỹ không, liệu doanh nghiệp có thể
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán không và nếu cho doanh nghiệp
vay thì vay với thời gian như thế nào là phù hợp nhất.
3.2.3 Nâng cao chất lượng thu thập và xử lý thông tin
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, với sự đa dạng của
nguồn thông tin với cách thức xử lý thông tin ngày càng hiện đại, việc thu
thập đầy đủ thông tin, chính xác, kịp thời để phục vụ cho hoạt động thẩm định
là rất quan trọng đối với ngân hàng.
Chất lượng thông tin đầu vào là một trong những yếu tố quan trọng có
ảnh hưởng đến quyết định chất lượng thẩm định khách hàng nói chung và tình
hình tài chính nói riêng. Thông tin trung thực và đầy đủ là cơ sở cần thiết để
cán bộ tín dụng có thể phân tích và đưa ra quyết định chính xác về khách
hàng, quyết định đúng đắn để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vì vậy ngân
hàng cần có những giải pháp nâng cao hơn nữa trong công tác thu thập thông
tin và xử lý thông tin.

- Thông tin do khách hàng cung cấp: Nguồn thông tin mà khách hàng cung cấp
là thông tin về các báo cáo tài chính. Các doanh nghiệp nhà nước được quản
lý chặt chẽ bởi một hệ thống các quy chế quản lý tài chính của nhà nước và
thực hiện tương đối đầy đủ và chính xác nên các báo cáo tài chính của nó
7
7
8
thường là đáng tin cậy nhất. Còn các doanh nghiệp tư nhân thì không được
quản lý chặt chẽ nên các báo cáo tài chính của họ chưa đủ xác thực và chính
xác. Trong thực tế hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp lập nhiều báo cáo tài
chính khác nhau, các báo cáo này được lập ra và đã được điều chỉnh nhằm
cung cấp cho các đối tượng khác nhau như ngân hàng, cơ quan thuế… để
phục vụ một cách tốt nhất các mục đích của doanh nghiệp. Nếu các thông tin
mà không chính xác, xa rời với thực tế của doanh nghiệp thì các cán bộ tín
dụng dù có thẩm định sâu sắc kỹ càng đến thế nào thì cũng không thể đưa ra
được kết quả đáng tin cậy. Vì vậy, để có thông tin chất lượng cao, thì ngoài
những hồ sơ mà doanh nghiệp vay vốn cung cấp, ngân hàng cần phải phỏng
vấn trực tiếp một số cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp. Kết hợp với việc
phỏng vấn, các cán bộ tín dụng cần xuống trực tiếp cơ sở sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp để có thể nắm rõ tình hình quá khứ hiện tại của doanh
nghiệp. Hiệu quả của công việc này còn phụ thuộc vào tư duy, năng lực của
cán bộ tín dụng nữa. Và điều cần đặc biệt chú ý là trước khi tìm hiểu thông tin
thông qua tiếp xúc với khách hàng, thì cán bộ tín dụng cần chuẩn bị sẵn một
chương trình chi tiết, cụ thể bao gồm một loạt các vấn đề cần tìm hiểu hay cần
được giải đáp về tình hình tài chính của khách hàng doanh nghiệp. Cán bộ tín
dụng tại chi nhánh cần phải hướng người được phỏng vấn trả lời theo ý mình,
từ đó nắm bắt được những thông tin mà mình cần thu thập.
- Khai thác triệt để các nguồn thông tin do trung tâm thông tin tín dụng ( CIC ),
trung tâm phòng ngừa rủi ro và các nguồn thông tin khác qua nhiều kênh như
các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành, cấp chủ quản, khách hàng chuyên tiêu

thụ sản phẩm… Đây là nơi lưu trữ tất cả các thông tin cần thiết và cơ bản về
doanh nghiệp, bổ sung những thông tin mà doanh nghiệp vay vốn cung cấp.
Thông qua đó cán bộ tín dụng có thể đánh giá sơ bộ về khách hàng như tình
hình tài chính, tình hình công nợ, uy tín thanh toán trên thị trường…
8
8

×