Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.21 MB, 89 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI
• HỌC
• LUẬT
• HÀ NỘI


NGUYỄN THÊ ANH

CHÊ BỘ P H Á P LÝ
VỀ BẢNG K Ỷ K INH DOANII
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005




NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS TS DƯƠNG ĐẢNG HUỆ



THỮ v ĨẸN~~7 1

TRƯƠNG ĐAI HOCLUAT HA NOI

ị PHONG ĐỌC .....

HÀ NỘI 2007




1

MỤC LỤC
Trang
Bảng chữ viết tắt

2

Lời nói đầu

3
Chương 1
Những vấn đề lý luận về đăng ký kinh doanh
và chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh

1.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh và chế độ pháp lý về đăng ký kinh

9

doanh
1.2. Các yếu tố chi phối chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh ở Việt
Nam hiện nay

21

1.3. Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh ở một số nước trên thế giới
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


24

1.4. Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam trước khi ban hành
Luật Doanh nghiệp 2005

35
Chương 2

Thực trạng và thực tiễn thi hành chế độ pháp lý
về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2005
2.1. Thực trạng chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh

40

2.2. Thực tiễn thi hành chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh trong thời
gian qua

62
Chương 3

Các giải pháp hoàn thiện chế độ pháp lý về đăng ký kỉnh doanh
3.1. Giải pháp hoàn thiện cơ quan đăng ký kinh doanh

69

3.2. Giải pháp hoàn thiện điều kiện đăng ký kinh doanh

74

3.3. Giải pháp hoàn thiện thủ tục đăng ký kinh doanh


76

3.‘4. Giải pháp đảm bảo việc đăng ký kinh doanh được thực hiện đúng

81

luật
Kết luận

84

Danh mục tài liệu tham khảo

85


2

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

1. DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

2. ĐKKD

Đăng ký kinh doanh

3. GPKD


Giấy phép kinh doanh

4. HTX

Hợp tác xã

5. TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

6. UBND

:

Ưỷ ban nhân dân

7 XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


3

LỜI NĨI ĐẨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 01/7/2006, Luật Doanh 1999 đã được thay thế bằng Luật Doanh
nghiệp 2005. Luật Doanh nghiệp 2005 đã tiếp tục ghi nhận nhiều cơ chế, chính

sách mới, qua đó đã khuyến khích và cổ vũ được tinh thần kinh doanh, củng cố
được lòng tin của nhà đầu tư vào đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tiến bộ đã đạt được, thực tế cũng đã cho thấy
hiện trong chế độ pháp lý về ĐKKD cịn khơng ít những tồn tại và bất cập.
Chúng ta vẫn chưa xây dựng được một văn bản pháp lý chung về ĐKKD cho tất
cả các chủ thể kinh doanh ở Việt Nam; việc ĐKKD được thực hiện một cách
phân tán; hệ thống cơ quan ĐKKD bị phân tán về mặt tổ chức, chưa hình thành
một thể thống nhất trong phạm vi cả nước; nghiêp vụ về ĐKKD mới chỉ được
thực hiện khá tốt ở địa phương, song chưa xác lập được cơ chế cũng như các biện
pháp kỹ thuật để xử lý trên phạm vi quốc gia; quy trình về trình tự, thủ tục đăng
ký kinh doanh chưa bao quát hết các tình huống thực tế; sự phối hợp công tác
giữa cơ quan ĐKKD và các cơ quan quản lý nhà nước khác chưa thật rõ ràng,
còn thiếu động lực vận hành và ràng buộc trách nhiệm; lực lượng cán bộ làm
công tác ĐKKD ở Trung ương cũng như địa phương thiếu về biên chế, yếu về
năng lực chuyên môn, kém được trang bị về mặt phương tiện làm việc; cơ quan
ĐKKD chưa thực hiện được đúng, đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Từ những tồn tại trên dẫn đến hậu quả là nhiều vấn đề cơ bản như quản lý
và bảo hộ tên doanh nghiệp, quản lý và giám sát nhân thân người thành lập doanh
nghiệp, quản lý và giám sát sự tồn tại, tính liên tục của pháp nhân doanh nghiệp
... trên địa bàn toàn quốc chưa thực hiện được. Hiện tượng cá nhân thành-lập và
ĐKKD nhiều doanh nghiệp vẫn diễn ra mà chưa kiểm sốt được, tình trạng đặt
tên doanh nghiệp gây nhầm lẫn hoặc tên trùng nhau cũng đang có chiều hướng
gia tăng trên phạm vi cả nước gây thiệt hại không đáng có cho doanh nghiệp, cho
người tiêu dùng, khách hàng và cả nền kinh tế; cơ quan ĐKKD chưa đủ thẩm
quyền và công cụ để kịp thời thu hổi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối
với những trường hợp đáng thu hồi... Bên cạnh đó, thủ tục ĐKKD ở nước ta vẫn
còn phức lạp gây tốn kém cả về thời gian và chi phí do sự phối hợp chưa hiệu quả


4


của các cơ quan chức năng liên quan. Nếu để những tình trạng này tiếp tục kéo
dài thì số lượng tranh chấp sẽ ngày càng nhiều, môi trường kinh doanh sẽ bị rối
loạn, cản trở sự tham gia thị trường, khơng khuyến khích nhân dân đầu tư sản
xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Việc Việt Nam vẫn
xếp thứ 99 trên tổng số 155 quốc gia về mức độ dễ dàng của môi trường kinh
doanh theo báo cáo tồn cầu mơi trường kinh doanh 2006 của Ngân hàng Thế
giới cho thấy vẫn còn những khoảng cách lớn giữa chủ trương và triển khai thực
tế nói trên [4].
Mặt khác, sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giói (WTO) ngày 07/11/2006 địi hỏi nội dung của pháp luật nói chung và pháp
luật về ĐKKD nói riêng phải phù hợp với những điều ước quốc tế mà nước ta đã
cam kết. Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh:
“Thực hiện một cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ
khơng cần thiết nhằm rút ngắn thời gian thành lập doanh nghiệp và tham gia thị
trường, đưa nhanh hàng hoá và dịch vụ vào kinh doanh”[6]. Xuất phát từ những
điều kiên như trên, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện chế độ pháp lý về
ĐKKD theo Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm
phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa sâu sắc
cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế độ pháp lý về ĐKKD đã được xác lập ở nước ta từ năm 1990 (vói việc
ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 và Luật Cơng ty 1990). Năm 1999,
vói việc ban hành Luật Doanh nghiệp 1999, chế độ pháp lý về ĐKKD lại được
hồn thiện một bước đáng kể. Từ đó đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về các
khía cạnh khác nhau của cơ chế ĐKKD ở nước ta. Tựu trung lại, có hai nhóm
cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, đó là:
Thứ nhất, nhóm cơng trình nghiên cứu chun sâu về ĐKKD. Trong số
các cơng trình nghiên cứu này, đáng lưu ý nhất là: Đề tài nghiên cứu cấp bộ : “Cơ
sở khoa học của việc xây dựng pháp luật về kinh doanh ” của TS Dương Đăng

Huệ, 1991; “Mơ hình ĐKKD trong cơ chế mới về quản lý kỉnh tế ” của Nguyễn
Lạc, Trọng tài Kinh Tế Nhà nước, 1993; “Pháp luật về việc cấp giấy phép thành


5

phép thành lập doanh nghiệp, ĐKKD ở Việt Nam- Thực trạng và một vài kiến
nghị” của TS Dương Đăng Huệ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 04, 1994;
“Quản lý nhà nước về ĐKKD và thuế đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân ”, luận văn thạc sỹ luật học của Lê Thị Tố
Hoa, 1996; “Chế độ về cấp giấy phép hoạt động và ĐKKD của các loại hình
doanh nghiệp ở nước ta”, luận văn thạc sỹ luật học của Bùi Thanh Ngọc, 1996;
“Quản lý nhà nước đối với hoạt động ĐKKD của doanh nghiệp Việt Nam”, luận
văn thạc sỹ luật học của Đỗ Kim Tiên, 2002; “vấn đề kiện toàn hệ thống cơ quan
ĐKKD ở nước ta hiện nay ” của PGS, TS Dương Đăng Huệ, Nguyễn Lê Trung,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 01, 2004 ... Những cơng trình này đã đề cập
đến nhiều khía cạnh và ở các mức độ khác nhau về hoạt động của cơ quan
ĐKKD, góp phần vào sự hồn thiện của pháp luật về ĐKKD, tăng cường hiệu
quả của công tác quản lý nhà nước đối vói doanh nghiệp. Tuy vậy, một số nội
dung của chế định pháp lý về ĐKKD vẫn chưa được các tác giả đề cập một cách
toàn diện, sâu sắc như: điều kiện ĐKKD và thủ tục đăng ký kinh doanh.
Thứ hai: Nhóm cơng trình tuy khơng nghiên cứu chuyên sâu về ĐKKD
nhưng đã đề cập ở mức độ nhất định về vấn đề này như: “Quản lý nhà nước về
kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường”, Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Việt
Phương, 1995; "Một số vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh”,
Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Quốc Khánh, 1997; “Một số vấn đề về
quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam” của TS
Bùi Ngọc Cường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; “Luật Doanh nghiệp
2005 với việc mở rộng quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ
luật học của Trần Anh Tuấn, 2006; “ Pháp luật về giấy phép kinh doanh tại Việt

Nam- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần
Minh Phương, 2006. Trong những cơng trình này các vấn đề về thủ tục thành lập
doanh nghiệp và ĐKKD đã được nhìn nhận như là một biểu hiện của quyền tự do
kinh doanh hay biểu hiện dưới góc độ của quản lý nhà nước nên vẫn chưa có cái
nhìn tổng qt về các quy định của pháp luật về ĐKKD cũng như chưa đưa ra


6

đuợc những giải pháp hồn thiện đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật
về ĐKKD.
Bên cạnh đó, cịn kể đến cơng trình nghiên cứu về “đấu tranh phịng
chống tội kinh doanh trái phép ở Việt N a m của TS Trần Mạnh Đạt, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2004. Ở đây, tác giả cũng đã đề cập đến khía cạnh nguyên nhân và
các điều kiện của tình hình tội kinh doanh trái phép, các giải pháp về chính sách
pháp luật có liên quan đến chế độ pháp lý về ĐKKD. Những ý kiến được đưa ra
mới chỉ dừng lại ở một số nội dung khiêm tốn, chưa khái quát được hết hiện
tượng và giải pháp hoàn thiện chế độ pháp lý về ĐKKD ở nước ta.
Từ việc đánh giá tình hình nghiên cứu pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam có
thể khẳng định, cho đến nay, chưa có một cơng trình nào đi sâu nghiên cứu một
cách cơ bản, tồn diện và có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan
đến ĐKKD và pháp luật về ĐKKD theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm về ĐKKD và pháp
luật về ĐKKD; các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam và pháp luật của
một số nước về ĐKKD; thực tiễn áp dụng pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam.
Pháp luật về ĐKKD là một lĩnh vực pháp lý có nội dung rộng và phức tạp.
Do đó Luận văn không giải quyết mọi vấn đề liên quan đến chế độ pháp lý về
ĐKKD cũng như không nghiên cứu chế ứộ ĐKKD đối với tất cả các chủ thể kinh
doanh. Luận vãn chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung cơ bản trong pháp luật

về ĐKKD, đặc biệt chú trọng những nội dung có nhiều điểm bất cập, hạn chế
khơng đảm bảo tính đơn giản, gọn nhẹ, thơng suốt và thống nhất của pháp luật về
ĐKKD.
Luận văn cũng chỉ tập trung nghiên cứu chế độ pháp lý về ĐKKD liên
quan đến các đối tượng được điều chỉnh theo Luật Doanh nghiệp 2005. Như vậy,
chế độ pháp lý về ĐKKD đối với công ty nhà nước và hợp tác xã không thuộc
phạm vi nghiên cứu của Luận văn này vì chúng đã được điều chỉnh bằng pháp
luật riêng và không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.


7

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu nêu trên, Luận văn sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp tổng hợp, phân
tích, phương, pháp thống kê, phương, pháp so sánh ,và .đối chiếu, kết hợp nghiên
cứu lý luận và thực tiễn.. .Các phương pháp nghiên cứu trong Luận văn được thực
hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; trên cở
sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
5. Mục đích nghiên cứu của luận văn
5.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu chế độ pháp lý về
ĐKKD theo Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành từ đó đề
ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam trong
thời gian tới.
5.2. Để thực hiện mục đích trên, luận văn đề ra nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về ĐKKD và pháp luật về
ĐKKD.
- Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật về ĐKKD, đánh giá
những ưu điểm và hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về ĐKKD.

- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng chế định pháp lý về ĐKKD trong thời gian
qua, phát hiện những vướng mắc cần phải được tháo gỡ.
- Đề xuất quan điểm định hướng và những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam trong tương lai.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới cơ bản sau:
- Nghiên cứu được những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ pháp lý về
ĐKKD; tìm hiểu pháp luật về ĐKKD của một số nước, từ đó đưa ra những bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về ĐKKD, chỉ rõ những bất cập
đang ảnh hưởng không tốt đến quyền tự do kinh doanh, thành lập doanh nghiệp;


8

- Đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức cơ quan ĐKKD nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này và hoàn thiện cơ chế đảm bảo cho hoạt
động ĐKKD được các chủ thể thực hiện đúng luật;
- Kiến nghị các biện pháp sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về điều kiện
ĐKKD, thủ tục ĐKKD nhằm tạo môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch, tạo
thuận lợi cho các nhà đầu tư dễ dàng gia nhập thị trường.
7.

Cơ cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn bao gồm ba chương.
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký kinh doanh và chế độ pháp
lý về đăng ký kinh doanh.
- Chương 2: Thực trạng và thực tiễn thi hành chế độ pháp lý về đăng ký

kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2005.
- Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện chế độ pháp lý về đăng ký kinh
doanh.


9

CHƯƠNG 1
NHŨNG VÂN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ ĐẢNG KÝ KINH DOANH
VÀ CHÊ Đ ộ PHÁP LÝ VỂ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
1.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh và chế độ pháp lý về đăng ký kinh
doanh
1.1.1. Đăng ký kinh doanh
Thuật ngữ “kinh doanh” hay “thương mại” (tiếng Anh là “Bussiness” hay
“Trađe”) xuất hiện từ thế kỷ XI cùng với sự hình thành và phát triển của các
thương nhân, phường hội bn bán. Cho đến nay khái niệm “kinh doanh” có
nhiều cách hiểu khác nhau tuỳ theo từng góc độ.
Về mặt từ ngữ, từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên đã giải thích
thuật ngữ “kinh doanh” theo hai nghĩa: Thứ nhất “kinh doanh” có nghĩa là “gây
dựng mở mang thêm”, và nghĩa thứ hai “tổ chức việc sản xuất, bn bán, dịch vụ
nhằm mục đích sinh lợi” [23].
Dưới góc độ kinh tế, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản xuất
hàng hố, là tổng thể các hình thức, phương thức và biện pháp nhằm tổ chức các
hoạt động kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vất chất xã hội nhằm mục tiêu thu
về một giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Dưới góc độ pháp lý, “kinh doanh là thực hiện liên tục một hoặc một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” (Khoản 2, Điều 4,
Luật Doanh nghiệp 2005).

Vói cách hiểu chính thức của Nhà nước, hành vi được coi là kinh doanh
khi có các dấu hiệu sau:
-

Hành vi phải mang tính chất nghề nghiệp. Tính chất nghề nghiệp được

thể hiện ở đặc điểm chủ thể thực hiện hành vi khi tham gia thương trường theo sự
phân công lao động xã hội; các hành vi được tiến hành thường xun, ổn định,
đều đặn; có tính chun nghiệp cao va mang'lại nguồn thú hhập'chính bho người
thực hiện hành vi;


10

- Hành vi phải được thực hiện một cách độc lập. Các chủ thể nhân danh
chính mình để tiến hành hoạt động kinh doanh, tự quyết định và chịu trách nhiệm
trước mọi vấn đề liên quan;
- Hành vi có mục đích sinh lợi.
Bên cạnh cách hiểu kinh doanh theo nghĩa truyền thống ở trên-kinh doanh
để kiếm tiền (Bussiness to make money), nhiều ý kiến đã quan niệm kinh doanh
theo một nghĩa rộng hơn: Kinh doanh để mang lại lợi ích cho cộng đồng (hay
kinh doanh xã hội- social bussiness).
Từ ý tưởng kinh doanh, để thực hiện hoạt động kinh doanh, chủ thể phải
tiến hành hoạt động ĐKKD với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích từ “đăng ký” dưới hai nội dung:
1: Chính thức ghi vào văn bản của cơ quan pháp luật những thông tin cần
thiết về sự kiện làm cơ sở phát sinh hoặc chấm dứt những quan hệ pháp lý nhất
định. 2: Bằng chứng công nhận bắt đầu sự tồn tại hoặc chấm dứt một sự kiện
hoặc hiện tượng pháp luật. [30]
Từ cách định nghĩa trên, ta có thể xem xét thuật ngữ “đăng ký kinh

doanh” dưới những phương diện khác nhau:
- Về phương diện kinh tế: ĐKKD là hoạt động của doanh nghiệp tuy
không trực tiếp tạo ra của cải vật chất hay những dịch vụ nhằm thu lợi nhuận về
cho doanh nghiệp song nó là những hoạt động đầu tiên tạo tiền đề cần thiết để
doanh nghiệp có thể tiến hành được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì
vậy, tuy trong giai đoạn tiến hành thủ tục ĐKKD, doanh nghiệp chưa thực sự có,
song chi phí trong quá trình ĐKKD thành lập doanh nghiệp vẫn được tính vào chi
phí hợp lý của doanh nghiệp và được khấu trừ trong khi tính thuế.
- Về phương diện quản lý nhà nước: ĐKKD được coi là biện pháp quản lý
nhà nước về kinh tế. ĐKKD là hoạt động quản lý đầu tiên của Nhà nước đối với
doanh nghiệp, nó sẽ tạo điều kiện để Nhà nước có thể thực hiện các hoạt động
quản lý tiếp theo của mình khi doanh nghiệp đi vào sản xuất.
-Về phương diện chính trị: ĐKKD được hiểu là quyền tự do dân chủ của
công dân. Tuy nhiên quyền này phải được hiểu là tự do trong “khn khổ”, dân
chủ phải tập trung và bình đẳng trước pháp luật. Quyền ĐKKD cũng đổng thời là


11

nghĩa vụ phải thực hiện. Quyền tự do kinh doanh của cơng dân có nội hàm bao
gồm cả quyền tự do lựa chọn ngành nghề, hình thức kinh doanh và tự do ĐKKD.
Bất cứ một cá nhân, tổ chức nào có đủ điều kiện để kinh doanh đều có thể đăng
ký với Nhà nước để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà khơng ai có
quyền ngăn cản trái phép.
-Về phương diện pháp lý: ĐKKD là một thủ tục pháp lý mà theo đó nhà
đầu tư phải khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về dự kiến hoạt động
của mình và được Nhà nước thừa nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận ĐKKD.
Như vậy theo định nghĩa này, ĐKKD được hiểu là một hoạt động pháp lý
bao gồm hành vi của chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh
và các hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ĐKKD. Theo đó, chủ thể

trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh phải khai báo theo đúng quy định của
pháp luật với các nội dung cụ thể, còn cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến
hành ghi tên vào sổ sách của Nhà nước đồng thòi cấp cho chủ thể ĐKKD giấy
chứng nhận ĐKKD. Giấy chứng nhận ĐKKD là bằng chứng pháp lý chứng minh
chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp, được
Nhà nước chính thức công nhận và bảo hộ.
1.1.2. Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh
“Chế độ pháp lý” là một thuật ngữ được sử dụng nhiều trong khoa học
pháp lý, nhưng cho đến nay vẫn chưa có cách hiểu, định nghĩa chính thức. Để
phân tích nội dung của thuật ngữ này, cần bắt đầu từ việc cắt nghĩa từ “chế độ”.
“Chế độ” theo giải thích của từ điển Việt Nam bao gồm hai nghĩa chính. Thứ
nhất là “hệ thống tổ chức chính trị, kinh tế...của xã hội”; thứ hai là “tồn bộ nói
chung những điều quy định cần tn thủ trong một việc nào đó”.
Như vậy, nội hàm của từ “chế độ” bao gồm hai nội dung cần lưu ý đó là:
Hệ thống tổ chức và những quy định cần được tuân thủ. Ví dụ như “chế độ chính
trị’ được hiểu là phương thức tổ chức và hoạt động của một quốc gia theo một ý
thức hệ nào đó về chủ quyền, về sở hữu, những chính sách cơ bản của Nhà nước,
về quan hệ giữa những người cầm quyền với nhân dân... Hay “chế độ hơn nhân
và gia đình” là tổng thể những quy định của pháp luật về quan hệ hôn nhân, về
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, về quan hệ giữa cha, mẹ và con cái.


12

Từ cách hiểu về chế độ, ta có thể xem xét thuật ngữ “chế độ pháp lý”.
“Chế độ pháp lý” là một thuật ngữ có nội dung khơng những bao hàm những quy
định của pháp luật về một lĩnh vực cụ thể nào đó, mà cịn phản ánh những mối
quan hệ trong hệ thống tổ chức cấu tạo nên nó. Hệ thống tổ chức ở đây thường có
thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân có mối quan hệ tương tác, được thành lập và quy
định cụ thể về cơ cấu, nhiệm vụ quyền hạn để duy trì hoạt động cho những lĩnh

vực cụ thể. Ví dụ như nói đến “chế độ pháp lý về quyền sử dụng đất”, chúng ta
có thể hiểu trong đó quy định những quyền và nghĩa của người sử dụng đất,
người quản lý đất, quy định hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai, những
mối quan hệ giữa những cơ quan này với nhau và với người sử dụng đất.
“Chế độ pháp lý” về một mặt nào đó có thể tương đồng với thuật ngữ “chế
định pháp luật” theo nghĩa hẹp. “Chế định pháp luật” (Law-Institution juridique)
là “hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh cùng một loại đối tượng” [19].
Nhưng khác nhau cơ bản là ở hai từ “chế độ” và “chế đinh”. Khái niệm “chế độ”
có nội dung rộng hơn bởi nó thể hiện cả hệ thống tổ chức và những mối quan hệ
trong hệ thống tổ chức đó. Các chế đinh pháp luật hợp lại có thể hình thành chế
độ pháp lý.
Qua phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra một cách hiểu “chế độ pháp lý
về ĐKKD” là tổng hợp những quy phạm pháp luật quy định về giá trị pháp lý của
giấy chứng nhận ĐKKD; cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ĐKKD;
điều kiện ĐKKD, thủ tục ĐKKD; các biện pháp chế tài để đảm bảo việc ĐKKD
được thực hiện đúng pháp luật nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong
quá trình ĐKKD và những vấn đề liên quan.
Xét về mặt nội dung: chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh là tổng hợp
các quy định về:
Thứ nhất, giá trị pháp lý của giấy chứng nhận ĐKKD
Giấy chứng nhận ĐKKD (Business registration certiíicate) là “chứng chỉ
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp cho cá nhân, tổ chức thoả mãn các điều
kiện do pháp luật quy định để tiến hành hoạt động kinh doanh”. [19] Việc cấp
giấy chứng nhận ĐKKD là sự cơng nhận chính thức sự ra đời của doanh nghiệp


13

đồng thời với sự cơng nhận đó đã làm phát sinh các mối quan hệ pháp lý về
quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

Như vậy, bản chất của giấy chứng nhận ĐKKD là sự ghi nhận của Nhà
nước đối với nhà đầu tư về nghĩa vụ bảo hộ quyền kinh doanh của nhà đầu tư qua
hình thức doanh nghiệp mà nhà đầu tư tự lựa chọn và trong phạm vi đã được nhà
đầu tư giới hạn khi đăng ký.
Các thông tin được ghi trong giấy chứng nhận ĐKKD sẽ được cơ quan
ĐKKD ghi vào sổ theo dõi và quản lý, giúp Nhà nước nắm bắt được các doanh
nghiệp ngay từ khi mới thành lập. Kết hợp vói chế độ báo cáo định kỳ của doanh
nghiệp và sự kiểm tra của Nhà nước, Nhà nước có được những thơng tin chính
xác về từng doanh nghiệp trong tồn bộ q trình thành lập, hoạt động, cho đến
khi giải thể, phá sản. Sử dụng nghiệp vụ phân tích, thống kê, Nhà nước sẽ có
những số liệu về tình hình kinh tế, xã hội được phản ánh qua tình hình hoạt động
doanh nghiệp, từ đó kịp thời đề ra những chính sách vĩ mơ, điều tiết hợp lý.
Giá trị pháp lý của giấy chứng nhận ĐKKD được ví như “giấy thơng hành
của doanh nghiệp để bước vào thương trường với sự bảo hộ của Nhà nước [11].
Nội dung giấy chứng nhận ĐKKD đã chỉ rõ cho doanh nghiệp thấy được phạm vi
hoạt động của mình trong những lĩnh vực ngành, nghề nào, với số vốn chịu trách
nhiệm đến đâu; mặt khác giấy chứng nhận ĐKKD cũng cung cấp cho doanh
nghiệp khác biết về bạn hàng của họ một cách cụ thể từ người đại diện theo pháp
luật, quy mô, phạm vi hoạt động... Đồng thời qua giấy chứng nhận ĐKKD đã cấp
cho doanh nghiệp, Nhà nước gián tiếp thừa nhận phạm vi hoạt động của doanh
nghiệp trong nội dung đăng ký và chỉ bảo hộ hoạt động kinh doanh trong phạm
vi đó.
Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ĐKKD
Hoạt động ĐKKD chỉ có thể thực hiện tốt nếu có được một hệ thống cơ
quan ĐKKD được tổ chức hợp lý và hiệu quả. Việc Nhà nước thiết lập hệ thống
các cơ quan ĐKKD với sự phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hành
của chúng có một ý nghĩa quan trọng. Nó vừa đảm bảo sự thống nhất, không
chồng chéo trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, vừa tạo sự thuận lợi cho
người dân khi phải tiếp xúc với cơ quan công quyền khi làm thủ tục ĐKKD.



14

Trên thế giới, cơ quan ĐKKD có thể thuộc hệ thống cơ quan tư pháp như
Đức, Pháp... hoặc cơ quan hành pháp như Thuỵ Điển, Trung Quốc, Việt Nam...
Việc lựa chọn mơ hình cơ quan ĐKKD như thế nào tuỳ thuộc vào đặc điểm riêng
của từng nước. ĐKKD liên quan đến hoạt động quản lý Nhà nước của rất nhiều
cơ quan trong lĩnh vực kinh tế, do vậy đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan đó trong việc xem xét, giải quyết yêu cầu của nhà đầu tư. Chính
vì vậy, ngồi việc quy định chức năng thẩm quyền cho cơ quan ĐKKD với tư
cách là cơ quan đầu mối, pháp luật thường quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan này với cơ quan ĐKKD nhằm tạo ra sự nhịp nhàng và hiệu quả trong hoạt
động quản lý Nhà nước và loại trừ tình trạng chồng chéo về chức năng, thẩm
quyền giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Không những quy định cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan
ĐKKD, pháp luật về ĐKKD cũng quy định rõ trách nhiệm của nó trong việc thực
thi nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đặc biệt là các chế tài nghiêm khắc đối với cơ
quan ĐKKD, cán bộ, công chức thực hiện công tác ĐKKD vi phạm pháp luật về
ĐKKD, có hành vi nhũng nhiễu, phiền hà cho người ĐKKD.
Thứ ba, điều kiện ĐKKD
Điều kiện ĐKKD là yêu cầu mà doanh nghiệp phải có hoặc phải thực hiện
khi kinh doanh ngành, nghề cụ thể, được thể hiện bằng GPKD, giấy chứng nhận
đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp, yêu cầu về vốn pháp định hoặc yêu cầu khác. Xét về mặt hình thức
biểu hiện thì điều kiện ĐKKD thường được thể hiện qua GPKD, chứng nhận đủ
điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề. Xét về mặt nội dung, điều kiện
ĐKKD thường bao gồm các điều kiện về chủ thể, điều kiện về ngành nghề kinh
doanh, điều kiện về vốn kinh doanh...
• Điều kiện về chủ thể

Mặc dù pháp luật thừa nhận quyền tự do kinh doanh của cơng dân, nhưng
khơng có nghĩa là mọi chủ thể đều có thể thực hiện quyền tự do đó. Chỉ có những
chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy
định của pháp luật mới có quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh. Ngược lại,


15

các chủ thể khơng có năng lực hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi thì sẽ bị
cấm kinh doanh. Năng lực hành vi dân sự để thực hiện hoạt động kinh doanh
được quy định khác nhau tuỳ theo pháp luật của từng nước. Theo pháp luật Việt
Nam, năng lực hành vi dân sự của một cá nhân phát sinh kể từ khi cá nhân đó đủ
18 tuổi, năng lực hành vi dân sự của một tổ chức phát sinh từ thời điểm tổ chức
đó được thành lập hoặc đăng ký hoạt động hợp pháp.
Không chỉ cấm những người khơng có năng lực hành vi dân sự kinh
doanh, một số đối tượng khác mặc dù có đủ năng lực hành vi dân sự, nhưng do
những đặc thù về nghề nghiệp hoặc chức vụ của họ mà nếu để họ kinh doanh thì
sẽ làm phát sinh những hành vi tiêu cực hoặc tạo nên sự cạnh tranh không lành
mạnh, bất bình đẳng, đe dọa đến lợi ích của Nhà nước, xã hội (ví dụ như cơng
chức, người đang chấp hành hình phạt tù, hoặc đang bị tồ án cấm hành nghè
kinh doanh, cơ quan Nhà nước...) cũng bị cấm thành lập doanh nghiệp.
Ngoài một số chủ thể bị cấm kinh doanh theo quy định pháp luật, tất cả
các chủ thể còn lại đều được thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình.
• Điều kiện về ngành, nghề kinh doanh
Nhu cầu của các chủ thể trong xã hội vốn luôn đa dạng và ln phát sinh,
thay đổi theo thịi gian, quy luật cung- cầu đã thúc đẩy các ngành, nghề kinh
doanh không ngừng ra đời và phát triển. Tuy nhiên, nhu cầu của xã hội không
phải lúc nào cũng lành manh và chính đáng. Có những nhu cầu của một số cá
nhân nhưng lại xâm phạm đến lợi ích của những cá nhân„khácvà lợi ích của cộag
đồng, làm ảnh hưởng, băng hoại giá tri đạo đức, văn hoá, trật tự an tồn xã hội.

Trong những trường hợp đó, để bảo vệ quyền lọi của số đơng, lợi ích của Nhà
nước và cộng đồng, pháp luật quy định những ngành, nghề cấm kinh doanh.
Phạm vi ngành, nghề cấm kinh doanh rộng hay hẹp tuỳ thuộc vào điều kiện cụ
thể của từng quốc gia, vào quan niệm về những giá trị và lợi ích xã hội mà quốc
gia đó quan tâm bảo vệ.
Bên cạnh danh mục ngành, nghề cấm kinh doanh, đối với những ngành,
nghề kinh doanh có nguy cơ xâm phạm đến lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích
của Nhà nước và cộng đổng nhưng có khả năng khắc phục khi có điều kiện kèm
theo để đảm bảo thì nhà đầu tư phải đáp ứng các điều kiện nhất định, đó là những


16

ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Chỉ khi nào đáp ứng những điều kiện nhất
định do pháp luật quy định thì doanh nghiệp mới được phép tiến hành hoạt động
kinh doanh. Nhà nước chấp thuận điều kiện kinh doanh dưới hình thức GPKD,
giấy chứng nhận về tiêu chuẩn mơi trường, vệ sinh an tồn thực phẩm, phịng
cháy chữa cháy... Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiên tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia cũng như năng lực quản lý
của Nhà nước. Danh mục này sẽ có sự thay đổi trong từng thời kỳ. Các quốc gia
đều có xu hướng hạn chế dần các lĩnh vực ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
cũng như đơn giản hố để tạo mơi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư.
• Điều kiện về vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh không những là tiền đề ban đầu không thể thiếu để nhà
đầu tư triển khai các hoạt động của mình mà cịn là cơ sở để đảm bảo thực hiện
các nghĩa vụ về tài sản của nhà đầu tư phát sinh tò hoạt động kinh doanh. Chính
vì vậy pháp luật phải quy định quy mơ vốn tối thiểu như là một điều kiện bắt
buộc đối với nhà đầu tư khi muốn tiến hành ĐKKD. Quy mơ vốn đó sẽ được xây
dựng trên u cầu và đặc thù từng ngành, nghề kinh doanh và từng loại hình
doanh nghiệp và được gọi chung là vốn pháp định.

Ở hầu hết các nước trên thế giới, việc quy định vốn pháp định như là một
điều kiện thành lập doanh nghiệp chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp kinh
doanh trong một số lĩnh vực có tính chất đặc thù như bảo hiểm, chứng khoán,
ngân hàng...Ở Việt Nam, thực tế hơn 8 năm thi hành Luật Công ty và Luật
DNTN cho thấy việc quy định điều kiện bắt buộc về vốn pháp định là rất hình
thức, khơng có hiệu lực trên thực tế. Theo quy định của pMp lu4t4Hệft Mnh thì
điều kiện vé vốn pháp đinh về cơ bạn đã được xoá bỏ, chỉ giữ lại một số ngành,
nghề đặc thù Nhà nước xét thấy cần thiết như kinh doanh bảo hiểm, kiểm toán,
ngân hàng... với những quỵ chế quản lý chặt chẽ hơn.
• Điểu kiện về năng lực chuyên môn
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng luôn là mục đích mà pháp luật về
ĐKKD hướng tới. Đối với những ngành, nghề kinh doanh thuộc lĩnh vực y tế,
nghề dược, tư vấn pháp luật...mang tính đặc thù bởi khơng phải ai cũng có khả
năng đáp ứng cho khách hàng, mà địi hỏi nhà cung cấp phải có trình độ chun


17

mơn nhất định; mặt khác “sản phẩm” của nó bán ra thị trường, khách hàng khơng
có khả năng kiểm tra được chất lượng thì pháp luật phải đưa ra các quy định u
cầu trình độ chun mơn của người quản lý. Nhà nước quản lý về chuyên môn
của doanh nghiệp thông qua chứng chỉ hành nghề. Chứng chỉ hành nghề là văn
bản được cấp bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc hội nghề nghiệp cấp cho
cá nhân có đủ trình độ chun mơn và kinh nghiệm về một nghề nhất định.
Thứ tư, thủ tục ĐKKD
Nói đến thủ tục ĐKKD là nói đến trình tự, thủ tục mà các cơ quan có thẩm
quyền ĐKKD và những người muốn ĐKKD phải tiến hành khi ĐKKD. Thủ tục
này phải do pháp luật quy định một cách chặt chẽ và áp dụng thống nhất cho tất
cả các chủ thể để đảm bảo sự công bằng, minh bạch cho môi trường kinh doanh
và trật tự quản lý của Nhà nước.

Thủ tục ĐKKD thường quy định về một số vấn đề sau:
- Hồ sơ ĐKKD: Hồ sơ ĐKKD là tài liệu đầy đủ nhất về thông tin của chủ
thể kinh doanh mà Nhà nước cần nắm giữ để theo dõi và có cơ sở để xử lý khi
doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Vì vậy, việc quy định về hồ sơ ĐKKD được tất
cả các nước thực hiện và coi đây là công cụ hữu hiệu nhất để quản lý các chủ thể
kinh doanh từ khi thành lập cũng như khi đi vào hoạt động. Tuỳ thuộc vào
phương pháp quản lý của mỗi nước, mà yêu cầu về hồ sơ ĐKKD có thể khác
nhau, nhưng về cơ bản hồ sơ ĐKKD gồm có: đơn ĐKKD, điều lệ của doanh
nghiệp, các tài liệu, yêu cầu khác đối với những ngành, nghề kinh doanh có điều
kiện...Vói mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau thì hồ sơ ĐKKD cũng khác
nhau. Với mục đích đảm bảo sự thuận tiện cho các chủ thể kinh doanh, quy định
về hồ sơ ĐKKD có xu hướng ngày càng đơn giản.
- Trình tự các bước tiến hành ĐKKD: Đó là trình tự các bước mà người
ĐKKD cũng như cơ quan có thẩm quyền ĐKKD phải thực hiện để xem xét hồ sơ
và giải quyết việc ĐKKD. Cơ quan ĐKKD có trách nhiệm làm đầu mối tiếp nhận
hồ sơ và chủ động phối hợp với các cơ quan nhà nước khác xem xét, quyết định
và cấp hoặc từ chối cấp ĐKKD cho người nộp hổ sơ.
- Thời hạn ĐKKD: đó là thời hạn mà cơ quan có thẩm quyền phải xem
xét, giải quyết yêu cầu của người ĐKKD. Hết thời hạn nếu hồ sơ ĐKKD hợp lệ,
T HƯ V I Ị N

I

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LỦẬ1 HA NO! .

PHỎNG PQC .

£409 •



18

cơ quan có thẩm quyền ĐKKD phải tiến hành cấp giấy chứng nhận ĐKKD cho
doanh nghiệp. Nếu từ chối cấp ĐKKD thì cơ quan ĐKKD phải thơng báo bằng
văn bản, nêu rõ lý do. Để tiết kiệm thời gian cho các nhà đầu tư, pháp luật các
nước đều quy định thời hạn xem xét cấp phép kinh doanh rất nhanh chóng. Ở
Việt Nam, thời hạn ĐKKD cho doanh nghiệp đã được rút ngắn rất nhiều so vói
trước đây.
Ngồi ra, thủ tục ĐKKD còn quy định một số vấn đề khác như lệ phí
ĐKKD, các thủ tục mà doanh nghiệp cần làm trước khi đi vào hoạt động kinh
doanh chính thức...
Thứ năm, các biện pháp chế tài để đảm bảo việc ĐKKD được thực hiện
đúng luật
Việc đặt ra các biện pháp chế tài để đảm bảo ĐKKD được thực hiện đúng
luật luôn chiếm nội dung quan trọng trong chế độ pháp lý về ĐKKD. Trước hết
xuất phát từ tính bắt buộc của thủ tục ĐKKD, nên đòi hỏi mọi chủ thể liên quan
phải tuân thủ. Hành vi trái pháp luật của cơ quan Nhà nước nói chung, cơ quan
có thẩm quyền ĐKKD nói riêng và doanh nghiệp sẽ xâm phạm đến lợi ích của
doanh nghiệp, của người tiêu dùng và cộng đồng, cản trở hiệu quả quản lý của
Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Hình thức xử lý các vi phạm trong hoạt động ĐKKD có thể bao gồm các
biện pháp xử lý hành chính như cảnh cáo, phạt tiền, thu hồi giấy chứng nhận
ĐKKD, GPKD, chứng chỉ hành nghề...hoặc xử lý hình sự.
Pháp luật quy định hành vi vi phạm pháp luật về ĐKKD là hệ thống các
quy định nằm trong nhiều văn bản khác nhau từ các đạo luật về doanh nghiệp,
luật hình sự đến các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại...
-

Xét về mặt hình thức biểu hiện: chế độ pháp lý về ĐKKD thường được


quy định trước hết tại Luật Doanh nghiệp và sau đó là các luật chuyên ngành.
Luật Doanh nghiệp quy định những nội dung có tính bao qt, chung nhất từ cơ
quan ĐKKD, điều kiện ĐKKD, thủ tục ĐKKD đến các biện pháp chế tài để đảm
bảo việc ĐKKD được thực hiện đúng luật, là nguồn quan trọng nhất của chế độ
ĐKKD. Ngoài Luật Doanh nghiệp, chế độ pháp lý về ĐKKD còn được quy định


19

trong các luật chuyên ngành, đây là những văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh trực tiếp trong từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể như Luật Kinh doanh bảo
hiểm, Luật Tổ chức tín dụng, Luật Chứng khốn, Luật Kinh doanh bất động
sản..., các văn bản luật quy định xử lý vi phạm pháp luật về ĐKKD. Các doanh
nghiệp khi ĐKKD không những phải tuân thủ những quy định của Luật Doanh
nghiệp mà còn phải thực hiện những nội dung của các luật chuyên ngành khi
kinh doanh ngành, nghề có điều kiện.
Việc ra đời chế độ pháp lý về ĐKKD là một tất yếu khách quan. Ngày
nay, thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường qua vài thế kỷ qua đã cung cấp
cho chúng ta đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng pháp luật nói chung và chế độ
pháp lý về ĐKKD nói riêng đã trở thành bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị
trường văn minh. Chế độ pháp lý về ĐKKD được quy định trước hết bởi những
yêu cầu khách quan do chính kinh tế thị trường đặt ra, sau nữa bởi những giá trị
xã hội của nó trong việc đảm bảo tính tổ chức, xã hội và kỷ luật cao của một nền
kinh tế. Đồng thời, thực tiễn cũng đã khẳng định rằng, sự quản lý của Nhà nước
đối với nền kinh tế chỉ có thể thực hiện và phát huy đầy đủ nhất, có hiệu quản
nhất khi được xác lập dưói hình thức pháp luật nhất định và được đảm bảo thực
hiện bởi cơ chế pháp luật thích hợp. Quyền tự do kinh doanh, thành lập doanh
nghiệp sẽ chỉ là hình thức nếu khơng có một cơ chế pháp lý điều chỉnh, quy định.
Chế độ pháp lý về ĐKKD có tác dụng đảm bảo quyền bình đẳng của mọi doanh

nghiệp.
1.1.3. Mục đích, ý nghĩa của việc đăng ký kinh doanh
Việc ĐKKD có nhiều ý nghĩa khác nhau.
- Thứ nhất, đối với Nhà nước: ĐKKD là công cụ để quản lý kinh tế.
ĐKKD tạo cơ sở pháp lý và căn cứ thực tế cho việc thực hiện sự kiểm soát
của Nhà nước đối với doanh nghiệp cũng như hoạt động kinh doanh trong nền
kinh tế. Thông qua ĐKKD, Nhà nước hoạch định, điều chỉnh, thay đổi các chính
sách thích ứng để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế theo định hướng của
mình. Trên cơ sở hồ sơ ĐKKD, Nhà nước nắm được các loại hình doanh nghiệp,
các ngành, nghề kinh doanh trong nền kinh tế và hiệu quả kinh doanh của từng
loại doanh nghiệp, để từ đó xem xét quyết định thành lập và phát triển các doanh


20

nghiệp nhà nước có vai trị chủ chốt theo ngun tắc những ngành, nghề nào xã
hội cần nhưng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác khơng có khả
năng đầu tư thì Nhà nước sẽ đầu tư và ngược lại; với loại hình doanh nghiệp nào
khơng được áp dụng nhiều thì Nhà nước cần xem xét quy định về loại hình doanh
nghiệp đó có những điểm gì bất hợp lý, khó khăn cho nhà đầu tư để từ đó có
những sự sửa đổi cần thiết.
ĐKKD cịn có tác dụng giúp Nhà nước sàng lọc các quan hệ kinh doanh
trên thị trường, hạn chế những tranh chấp, những vi phạm có thể xảy ra do tình
trạng kinh doanh trái phép bởi nội dung giấy chứng nhận ĐKKD đã hình thành
một khung pháp lý để doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ và tự chịu trách
nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật.
Mặt khác, bằng việc cấp giấy chứng nhận ĐKKD và ghi vào sổ đăng ký,
cơ quan ĐKKD sẽ cung cấp, giúp cơ quan thuế có đủ cơ sở yêu cầu doanh nghiệp
chấp hành nghĩa vụ nộp thuế đúng pháp luật. Sự phối hợp của cơ quan ĐKKD vói
cơ quan thuế sẽ làm hạn chế tình trạng thất thu thuế, đảm bảo công bằng giữa các

chủ thể kinh doanh, tăng thu cho ngân sách quốc gia vì mục tiêu phát triển kinh
tế-xã hội.
-

Thứ hai, đối với doanh nghiệp: ĐKKD là công cụ để doanh nghiệp thực

hiện quyền tự do kinh doanh của mình.
ĐKKD là thủ tục “khai sinh” ra doanh nghiệp. Thông qua ĐKKD địa vị
pháp lý và các quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp được Nhà nước xác
nhận và bảo vệ. Từ thời điểm cấp giấy chứng nhận ĐKKD, doanh nghiệp có tư
cách pháp lý đầy đủ để tiến hành sản xuất kinh doanh hợp pháp mà không bị can
thiệp trái pháp luật của bất cứ tổ chức, cá nhân nào vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục ĐKKD cũng làm phát sinh
cơ sở pháp lý chính thức để Nhà nước xem xét cho doanh nghiệp được hưởng
những un đãi theo quy định pháp luật nếu như doanh nghiệp kinh doanh trong
những ngành, nghề được ưu đãi.
ĐKKD còn là một điều kiện quan trọng để sau này doanh nghiệp có cơ sở
tự giải thốt mình ra khỏi thị trường, thoát khỏi sức ép từ hoạt động kinh doanh


21

khi khơng cịn đủ khả năng để tồn tại trong nền kinh tế bằng thủ tục tuyên bố phá
sản.
1.2.

Các yếu tố chi phối chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh 0 Việt

Nam hiện nay
1.2.1.Tính chất của nền kinh tế

Việc xây dựng chế độ pháp lý về ĐKKD dựa trên quan điểm chỉ đạo: thể
chế đường lối đổi mới, chủ trương chính sách của Đảng về phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tại Điều 16, Hiến pháp 1992
đã được sửa đổi bổ sung năm 2001 đã khẳng định: “Phát huy mọi năng lực sản
xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (...) Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh
tế được sản xuất, kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”. Đây là cơ sở
để tạo hành lang pháp lý quan trọng khuyến khích các chủ thể tham gia hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Các chủ thể kinh doanh sẽ đa dạng, không cịn tình
trạng phân biệt đối xử giữa các chủ thể kinh doanh là nhà nước hay tư bản, tư
nhân. Điều này sẽ thúc đẩy số lượng các các chủ thể tham gia vào thị trường,
thành lập doanh nghiệp ngày càng tăng. Do đó địi hỏi những quy định về ĐKKD
phải tạo điều kiện để các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế được gia nhập thị
trường một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Nền kinh tế thị trường Việt Nam có đặc điểm được xây dựng từ nền kinh
tế tập trung cao độ, chú trọng “sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng”
và mang định hướng XHCN. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật kinh tế nói
chung và pháp luật về ĐKKD nói riêng phải xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, tạo cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường theo những quy luật
riêng, khách quan, đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh;
vừa phải đảm bảo cho kinh tế nhà nước “được củng cố và phát triển, nhất là trong
các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” (Điều 19, Hiến pháp 92, sửa


22


đổi, bổ sung năm 2001), vừa phải đảm bảo tự do, bình đẳng, cơng bằng giữa các
thành phần kinh tế. Nếu khơng nghiên cứu thấu đáo, sâu sắc thì dễ làm mất tính
lành mạnh của nền kinh tế thị trường, tính cạnh tranh thực sự, dẫn đến nguy cơ
quay lại với cơ chế cũ.
Tóm lại, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đòi hỏi chế
độ pháp lý về ĐKKD phải đáp ứng được những yêu cầu sau:
- Tạo ra hành lang pháp lý vững chắc để cho mọi thành phần kinh tế, mọi
công dân yên tâm, chủ động phát huy mọi tiềm năng vào sản xuất kinh doanh;
- Tạo ra cơ chế pháp lý đảm bảo một cách có hiệu quả sự bình đẳng thực
sự giữa các thành phần kinh tế;
- Đấu tranh phòng và chống một cách có hiệu quả những mặt tiêu cực nảy
sinh trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền lợi hợp pháp,
chính đáng của doanh nghiệp, công dân và người tiêu dùng.
1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là một quyền hiến định, đã được Hiến pháp 1992,
sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định tại Điều 52: “Cơng dân có quyền tự do kinh
doanh theo quy định của pháp luật”. Quyền tự do kinh doanh là một trong những
bộ phận quan trọng nhất trong hệ thống các quyền con người. Công nhận quyền
tự do kinh doanh thể hiện tính chất dân chủ của một nhà nước. Chính vì vậy,
quyền tự do kinh doanh ln được Đảng và Nhà nước chú trọng thực hiện nhất
quán trong đường lối phát triển kinh tế- xã hội. Báo cáo của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội
5 năm 2006- 2010 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
“Bảo đảm cho mọi cơng dân có quyền đầu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực,
ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm, quyền bất khả xâm phạm về quyền
sở hữu tài sản hợp pháp, quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các
cơ hội và phát triển, trong cung cấp và tiếp cận thơng tin. Việc hình thành và phát
triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh có sức cạnh tranh cao là nhiệm vụ chiến
lược của Nhà nước và tồn xã hội”[7].
Tiếp đó, Nghị quyết của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng 2020 cũng liếp tục


23

khẳng định phải “hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo nguyên
tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật khơng cấm. Tạo cơ sở pháp
lý để cơng dân tích cực huy động mọi tiềm năng, nguồn lực và phát triển sản xuất
kinh doanh”[2].
Từ quan điểm chỉ đạo trên, chế độ pháp lý về ĐKKD cần phải cụ thể hoá
thành những quy phạm pháp luật với mục tiêu đơn giản tối đa thủ tục thành lập,
ĐKKD, để doanh nghiệp chủ động, tích cực gia nhập thị trường, đảm bảo doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà
pháp luật khơng câm, có quyền tự chủ và phải tự chịu trách nhiệm trong hoạt
động kinh doanh; được lựa chọn thay đổi hình thức tổ chức quản lý nội bộ, hình
thức đầu tư, kinh doanh phù hợp và được Nhà nước bảo hộ. Chế độ pháp lý về
ĐKKD cần phải được xây dựng trên tinh thần tôn trọng quyền tự chủ kinh doanh
hợp pháp của doanh nghiệp, áp dụng thống nhất chế độ đăng ký (thay cho cấp
phép), xoá bỏ cơ chế “xin-cho”, “phê duyệt’ bất hợp lý, gây phiền hà cho doanh
nghiệp.
1.2.3.HỘÌ nhập kinh tế quốc tế
Tồn cầu hoá làm cho các quan hệ quốc tế phát triển, thế giới xích lại gần
nhau, các hệ thống pháp luật khác nhau có dịp va chạm tiếp xúc nhiều hơn, vì
vậy có sự ảnh hưởng lẫn nhau nhiều hơn. “Tồn cầu hố” tạo ra những sân chơi
chung mà ở đó người ta muốn không bị loại ra khỏi sân choi chung thì phải tuân
thủ luật chơi chung. Các quốc gia khác nhau buộc phải giao lưu, hợp tác, đấu
tranh, thoả nhượng để cùng xây dựng luật chơi chung và tham dự vào sân chơi
chung mà không bị phụ thuộc.
Sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) ngày 07/11/2006 đòi hỏi nội dung của pháp luật nói chung và pháp luật

về ĐKKD nói riêng phải “tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng, phù hợp với nguyên tắc của WTO và các cam kết quốc tế khác, xây
dựng một khung pháp luật cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phẩn kinh tế,
xố bỏ độc quyền kinh doanh, cải thiên mơi trường đầu tư, từng bước thống nhất
pháp luật áp dụng đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đẩu tư nước ngồí”[2].


×