Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.26 KB, 21 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ CƠ CHẾ
TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
Trong xu thế phát triển chung của toàn thế giới ngành ngân hàng cũng luôn cố
gắng không ngừng hoàn thiện và đổi mới công nghệ để phục vụ tốt nhất cho nền
kinh tế. Nhất là trong thế kỷ XXI này, thế kỷ của khoa học phát triển, các ngân
hàng thương mại đã mở ra nhiều lĩnh vực hoạt động để trở thành ngân hàng thương
mại kinh doanh đa chức năng. Đặc biệt là việc áp dụng công nghệ tin học vào lĩnh
vực ngân hàng đã giúp cho các ngân hàng thương mại thế giới phát triển vượt bậc.
Các lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng thương mại ngày càng phong phú và đa
dạng, ngoài việc kinh doanh cơ bản của ngân hàng thương mại như nhận tiền gửi,
cho vay và làm trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại còn kinh doanh trên
nhiều lĩnh vực khác như kinh doanh vàng bạc đá quý, kinh doanh trên thị trường
chứng khoán (mở ra các hoạt động dịch vụ ngân hàng).
Chính vì luôn phát triển theo sự phát triển của xã hội mà các ngân hàng thương
mại đã ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế trong đó nó giải quyết mối quan hệ về
cung cầu thông qua việc mua bán và bị chi phối bởi một số công cụ điều tiết. Kinh
tế thị trường là một nền kinh tế mà sự phân phối và trao đổi sản phẩm đều được
thực hiện trên thị trường bằng phương thức mua và bán thoả thuận giữa các bên.
Đồng thời thông qua thị trường mà các nhà kinh doanh có thể biết được nhu cầu
của nền kinh tế để quyết định kinh doanh mặt hàng nào, số lượng, chất lượng và
giá cả như thế nào?
Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng thương mại đóng vai trò vô cùng quan
trọng, đó là hệ thống thần kinh của toàn bộ nền kinh tế
Nền kinh tế chỉ có thể cất cánh, phát triển được với tốc độ cao nếu có một hệ
thống ngân hàng mạnh.
1. Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng


là một pháp nhân, một thực thể kinh doanh nên nó tổ chức kinh doanh độc lập và
tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
* Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tín dụng
Ngân hàng thương mại với tư cách là một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng, có khả năng giải quyết các nhu cầu từ người thiếu vốn tới
người cần vốn bằng cách huy động mọi nguồn vốn tiền tệ chưa sử dụng của các
chủ thể kinh tế khác nhau trong xã hội (doanh nghiệp, tư nhân, cơ quan đoàn thể,
ngân sách Nhà nước…) để hình thành quỹ cho vay tập trung trên cơ sở nguồn vốn
huy động các ngân hàng sử dụng để cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho các thành
phần kinh tế với các mục đích khác nhau.
Như vậy, ngân hàng làm môi giới trung gian giữa người đi vay và người cho
vay mà thực chất ngân hàng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh bằng việc đi vay để
cho vay.
Với chức năng trung gian tài chính, ngân hàng thương mại có vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các ngân hàng thương mại đã đáp
ứng được những nhu cầu vốn lưu động cần thiết đảm bảo quá trình sản xuất lưu
thông hàng hoá liên tục để mở rộng phạm vi quy mô hoạt động làm tăng năng lực
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đó.
Với chức năng trung gian tín dụng các ngân hàng thương mại còn góp phần đẩy
mạnh tốc độ luân chuyển hàng hoá và vòng quay của đồng tiền nhằm thúc đẩy quá
trình phát triển sản xuất lưu thông hàng hoá. Hơn nữa hoạt động chức năng trung
gian tín dụng quyết định sự phát triển và lớn mạnh của các ngân hàng thương mại.
* Ngân hàng thương mại là tổ chức trung gian thanh toán
Trên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, ngân hàng thương mại thực hiện các
khoản thanh toán chi phí trả cho ngân hàng.
Ngân hàng đóng vai trò làm "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp khi hệ thống thanh
toán của ngân hàng thương mại ngày càng cao thì các nhà doanh nghiệp không cần
đến tiền mặt để thực hiện các khoản thanh toán. Mọi quan hệ thanh toán chi trả đều
thực hiện qua tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng thương mại. Ngân hàng
thực hiện mọi khoản thu, chi theo lệnh của các chủ tài khoản.

Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng thương mại đã góp phần thực
hiện các khoản thanh toán nhanh chóng làm tăng tốc độ luân chuyển vốn. Đồng
thời điều tiết giảm tiền mặt trong lưu thông dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền
mặt như các chi phí về việc in ấn, đếm nhận, vận chuyển và bảo quản.
* Chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại
Xuất phát từ chức năng trung gian tài chính và thanh toán mà các ngân hàng
thương mại có khả năng "tạo tiền". Từ một khoản tiền gửi ban đầu vào một ngân
hàng, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong một hệ thống ngân hàng thương
mại số tiền gửi ban đầu đã tăng lên gấp bội. Sự tạo tiền bắt đầu từ khi "đồng tiền
ghi sổ" ra đời song chỉ có một hệ thống ngân hàng thương mại mới có thể mở rộng
tiền gửi lên nhiều lần còn nếu chỉ có một ngân hàng thương mại thì không thể có
chức năng tạo tiền. Khả năng tăng lên bao nhiêu lần so với khoản tiền gửi ban đầu
là do hệ số mở rộng tiền gửi quyết định. Hệ số mở rộng tiền gửi của ngân hàng
thương mại chịu sự tác động của các yếu tố: tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ rút tiền mặt
của khách hàng, tỉ lệ dự trữ dư thừa.
Giả sử trong điều kiện không xuất hiện khoản thanh toán nào bằng tiền mặt,
không có khách hàng nào rút tiền mặt và các ngân hàng đều cho vay hết quỹ cho
vay thì hệ số mở rộng tiền gửi được tính theo công thức
1
H = --------------------- (H: hệ số mở rộng tiền gửi)
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Khi đó, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì hệ số mở rộng tiền gửi là 10: nghĩa
là hệ thống ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi gấp 10 lần tiền gửi ban đầu.
Trên thực tế nếu có một khách hàng vay bằng tiền mặt thì quá trình tạo tiền sẽ
chấm dứt. Nếu một khách hàng nào đó rút một phần tiền mặt để thanh toán hay
ngân hàng không cho vay hết quỹ cho vay thì khả năng mở rộng tiền gửi cũng
giảm đi. Vì thế hệ số mở rộng tiền gửi trong thực tế được tính theo công thức
1
H = -------------------------------------------------------------------------------
Tỉ lệ DTBB + tỉ lệ t/toán bằng tiền mặt của khách hàng + Tỉ lệ DTDT

Như vậy, khả năng mở rộng tiền gửi của ngân hàng thương mại phải được thực
hiện trên cơ sở sự kết hợp chặt chẽ giữa nghiệp vụ cho vay và thanh toán không
dùng tiền mặt. Do đó đòi hỏi ngân hàng ngày càng hiện đại hoá hệ thống thanh
toán để tạo thành thói quen thanh toán qua ngân hàng. Đồng thời phải tận dụng quỹ
cho vay để giảm đến mức thấp nhất các khoản dự trữ dư thừa. Mặt khác khả năng
tạo tiền của ngân hàng thương mại có thể mang lại rủi ro cho ngân hàng thương
mại khi khách hàng có nhu cầu rút vốn ồ ạt mà ngân hàng lại thiếu phương tiện
thanh toán bằng tiền mặt. Để giảm rủi ro các ngân hàng thương mại phải gửi tiền
vào tài khoản tại ngân hàng trung ương và tham gia thanh toán ra ngoài hệ thống
ngân hàng mình.
Chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại có ý nghĩa to lớn. Qua hoạt động
này làm cho nguồn vốn của ngân hàng thương mại phát triển lên, tạo điều kiện
thanh toán không dùng tiền mặt. Với chức năng tạo tiền ngân hàng thương mại coi
ngân hàng thương mại như một kênh quan trọng qua đó ngân hàng thương mại có
thể cung ứng tiền vào lưu thông hay thu hẹp khối lượng tiền tệ ngoài lưu thông
nhằm đảm bảo sự cân đối giữa cung và cầu tiền tệ, thực hiện chính sách giá cả,
tăng trưởng kinh tế lành mạnh và tạo công ăn việc làm.
Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ bổ sung hỗ trợ lẫn
nhau trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản tạo cơ sở cho
việc thực hiện các chức năng khác. Đồng thời thực hiện tốt chức năng trung gian
thanh toán và "tạo tiền" góp phần mở rộng hoạt động của chức năng trung gian tín
dụng.
2. Những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
Quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại dựa trên nguyên tắc: "đi
vay để cho vay" tức là phải tự cân đối về vốn và nguồn vốn có như vậy mới đảm
bảo phục vụ tốt cho công tác huy động vốn, sử dụng vốn cũng như các nghiệp vụ
khác của ngân hàng.
Để khái quát được toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại người ta quy
các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thương mại thành 3 nghiệp vụ cụ thể chủ
yếu sau:

2.1. Nghiệp vụ nguồn vốn (nghiệp vụ tài sản nợ).
Nghiệp vụ tài sản nợ là nghiệp vụ hình thành nguồn vốn của ngân hàng thương
mại
Các hoạt động của ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở nguồn vốn huy động
được, đó là những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của một bộ phận dân cư, của các
đơn vị tổ chức kinh tế chưa sử dụng đến. hoạt động nghiệp vụ này quyết định đến
các nghiệp vụ còn lại của ngân hàng thương mại. Về cơ bản nghiệp vụ này bao
gồm:
* Vốn tự có và coi như tự có
Vốn tự có của ngân hàng thương mại bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ của ngân
hàng thương mại và thuộc sở hữu của ngân hàng. Còn điều lệ của ngân hàng
thương mại là mức vốn tối thiểu phải có khi thành lập ngân hàng do pháp lệnh Nhà
nước quy định và được hình thành tuỳ theo tính chất sở hữu của các ngân hàng
thương mại. Đối với ngân hàng thương mại cổ phần thì vốn điều lệ do các cổ đông
đóng góp. Quỹ dự trữ của ngân hàng có 2 loại:
Qũy dự trữ để bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Việc
hình thành các quỹ này làm tăng vốn tự có của ngân hàng đồng thời đảm bảo an
toàn trong kinh doanh
Vốn tự có của ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong 2 nguồn vốn
nhưng mang tính chất ổn định và là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Nợ
không phải là vốn dùng trực tiếp vào kinh doanh nhưng lại có vai trò quan trọng
trong kinh doanh của ngân hàng thương mại. Vốn tự có của ngân hàng thương mại
không những là căn cứ pháp lý để thành lập ngân hàng mà còn là cơ sở để xác định
quy mô hoạt động của ngân hàng, khẳng định thế mạnh cũng như khả năng thanh
toán của ngân hàng thương mại đối với người gửi tiền trong trường họp có thể xảy
ra rủi ro.
+ Vốn coi như tự có:
Như lợi nhuận chưa chia, hoặc các quỹ chưa sử dụng như quỹ phát triển kỹ
thuật nghiệp vụ ngân hàng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố
định.

- Nghiệp vụ huy động vốn:
Vốn của ngân hàng được huy động từ nghiệp vụ này chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại đây chính là nguồn chủ yếu đáp ứng
nhu cầu tín dụng của khách hàng. Vì vậy ngân hàng thông qua các công cụ tài
chính với mức lãi suất khác nhau thời hạn hoàn trả khác nhau để có thể huy động
tới mức tối đa nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng. Các ngân hàng thương
mại phải làm sao thu hút được nhiều tiền của người tiêu dùng và các doanh nghiệp
dù ngân hàng phải trả lãi cho các loại tiền gửi này song việc thu hút nhanh và biết
sử dụng, vẫn mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tiền gửi của ngân hàng thương
mại thu hút được bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán
Khách hàng gửi tiền dưới hình thức này vào ngân hàng nhằm phục vụ cho quá
trình thanh toán hay cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và ngân hàng sẽ
mở tài khoản tiền gửi cho các đơn vị có nhu cầu gửi tiền dưới hình thức naỳ. Vì với
mục đích chủ yếu là tính than khoản chứ không phải với mục đích hưởng lãi nên số
dư tiền gửi trên tài khoản này thường xuyên biến động, họ có thể rút vốn vào bất
cứ thời điểm nào. Việc kế hoạch hoá nguồn vốn này là tương đối khó và phức tạp.
- Tiền gửi tiết kiệm
Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng với mục đích là hưởng lãi. Thời hạn cho
hình thức này được các ngân hàng quy định cụ thể lãi suất trả cho tiền gửi tiết kiệm
thường lớn hơn lãi suất tiền gửi thanh toán, nhưng tiền gửi tiết kiệm mang tính chất
tương đối ổn định nên các ngân hàng thương mại có được kế hoạch cho vay hợp lý.
- Vốn đi vay
Đây là nguồn vốn mà các ngân hàng thương mại phải sử dụng khi đã huy động
hết khả năng của mình mà vẫn còn thiếu vốn hoạt động việc hình thành nên tài sản
nợ tạo nên khoản chi phí chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng thương mại đó là
chi phí trả lãi. Do vậy việc cần thiết đầu tiên của các ngân hàng thương mại là phải
quản lý một cách linh hoạt tài sản nợ, thực hiện kiểm soát chặt chẽ các khoản chi
trả lãi và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tín dụng của khách hàng. Có như vậy mới nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.

2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn (nghiệp vụ tài sản có).
Nghiệp vụ tài sản có là nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. Trên
cơ sở hình thành nguồn vốn, ngân hàng thương mại sử dụng vốn vào các nghiệp
vụ.
- Nghiệp vụ về ngân quỹ:
Việc sử dụng vốn của ngân hàng thương mại phải đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu
rút tiền của người gửi tiền, đồng thời cũng phải có đủ vốn để sẵn sàng đáp ứng các
nhu cầu tín dụng của khách hàng. Vì vậy ngân hàng trung ương yêu cầu các ngân
hàng thương mại thường xuyên phải duy trì một phần tài sản của họ dưới hình thức
dự trữ.
Khoản mục dự trữ của ngân hàng thương mại bao gồm:
Tiền gửi dự trữ bắt buộc của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương:
khối lượng tiền gửi dự trữ bắt buộc được xác định theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỉ lệ
phần trăm (%) của số tiền gửi mà ngân hàng thương mại huy động được. Tỷ lệ dự
trữ bắt buộc là do ngân hàng thương mại quy định dựa trên cơ sở mục tiêu yêu cầu
của chính sách tiền tệ.
Nghiệp vụ về ngân quỹ tuy không đem lại một khoản thu nhập nào cho ngân
hàng thương mại nhưng nó lại vô cùng cần thiết vì nó đảm bảo khả năng thanh
toán chi trả nhanh và đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại. Vì vậy nó tạo ra uy tín của ngân hàng và là cơ sở để thực hiện các
nghiệp vụ khác.
- Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại:
Tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu mang lại thu nhập cho ngân hàng,
ngân hàng thương mại là một trong các nguồn tín dụng quan trọng nhất.
Các ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới các hình thức chủ yếu sau:
Cho vay chiết khấu, cho vay ứng trước, cho vay thấu chi trên tài khoản vãng
lai, tín dụng bằng ngân quỹ, tín dụng thuê mua, tín dụng bằng chữ ký, tín dụng tiêu

×